TỔNG QUAN VẤ Ề NGHIÊN CỨU
Tổng quan phát triển bền vững
1.1.1 Khái niệm phát triển bền vững
Khái niệm "Phát triển bền vững" hiện nay vẫn đang gây tranh cãi với nhiều góc nhìn khác nhau Theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) năm 1980, phát triển bền vững cần cân nhắc đến tình trạng khai thác tài nguyên tái tạo và không tái tạo, cùng với các điều kiện tổ chức kế hoạch hành động Tuy nhiên, định nghĩa này chưa phản ánh đầy đủ toàn diện về phát triển bền vững Các nhà khoa học cũng nhấn mạnh trách nhiệm của con người trong việc phát triển và duy trì cộng đồng Định nghĩa phổ biến nhất được đưa ra bởi Uỷ ban Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED) vào năm 1987, cho rằng phát triển bền vững là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, cho thấy rằng các hoạt động bền vững có thể được thực hiện mãi mãi.
Tại Hội nghị Môi trường toàn cầu RIO 92 và RIO 92+5, các nhà khoa học đã mở rộng khái niệm về phát triển bền vững Theo đó, phát triển bền vững được định nghĩa là sự hòa nhập, đan xen và thỏa hiệp giữa ba hệ thống tương tác: hệ kinh tế, hệ xã hội và hệ môi trường.
Phát triển bền vững là sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa ba hệ thống: môi trường, xã hội và kinh tế Điều này có nghĩa là không được ưu tiên phát triển một hệ thống mà gây tổn hại cho hệ thống khác Phát triển bền vững không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn phải đảm bảo tính bền vững về môi trường và xã hội Nó giống như chiếc kiềng ba chân, nếu một chân bị gãy, cả hệ thống sẽ sụp đổ Do đó, cần nhận thức rõ rằng ba chiều này có thể hỗ trợ hoặc cạnh tranh với nhau, và mục tiêu là tạo ra sự cân bằng giữa ba trụ cột này.
Sự bền vững kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra thịnh vượng cho cộng đồng cư dân và nâng cao hiệu quả cho mọi hoạt động kinh tế Điều cốt lõi là duy trì sức sống và phát triển lâu dài của doanh nghiệp cùng với các hoạt động kinh doanh của họ.
Sự bền vững xã hội đòi hỏi tôn trọng nhân quyền và đảm bảo bình đẳng cho mọi người, đồng thời yêu cầu phân chia lợi ích một cách công bằng Việc chú trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo là rất cần thiết, cùng với việc thừa nhận và tôn trọng các nền văn hóa đa dạng Cần phải tránh mọi hình thức bóc lột để xây dựng một xã hội công bằng và bền vững.
Bền vững môi trường là việc bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm và bảo tồn đa dạng sinh học cùng các tài sản thiên nhiên khác.
Theo Khoản 4, Điều 3, Chương I Luật Bảo vệ môi trường năm 2014:
Phát triển bền vững là quá trình đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu đó Điều này đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Có thể thấy khái niệm này đã nêu rõ đƣợc mục đích, mục tiêu, nguyên tắc và cơ sở triển khai của quá trình phát triển bền vững
1.1.2 Bộ tiêu chí phát triển bền vững
Lý thuyết phát triển bền vững hiện đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ các quốc gia, tổ chức quốc tế và khu vực, với hệ thống lý luận mang tính toàn cầu, quốc gia và địa phương Các chương trình phát triển bền vững đã được triển khai tại cấp độ cộng đồng ở hầu hết các nước đang phát triển, với các chỉ tiêu định lượng nhằm đánh giá chất lượng cuộc sống và tiến bộ hướng tới bền vững Tuy nhiên, việc thống nhất bộ tiêu chí "đo lường" sự phát triển bền vững trên toàn quốc và tại các địa phương vẫn chưa đạt được, và đang trong quá trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước Đến nay, nhiều hệ thống tiêu chí đã được đề xuất, trong đó bộ tiêu chí cần bao gồm ít nhất 5 khía cạnh: kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa (bao gồm phát triển con người) và thể chế.
Phát triển bền vững cần một hệ thống thể chế liên kết chặt chẽ để đảm bảo các khía cạnh phát triển hoạt động như một thể thống nhất Việc đánh giá các tác động đến phát triển bền vững thường gặp khó khăn trong việc đo lường ngắn hạn, do đó, cần có các phương pháp đánh giá định tính và định lượng Hiện nay, đã có mười hai tổ chức cung cấp các bộ tiêu chí để đánh giá phát triển bền vững, bao gồm Bộ 58 tiêu chí của Ủy ban phát triển bền vững Liên hợp quốc và Bộ 46 tiêu chí của nhóm đầu tư về phát triển bền vững.
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) và Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã phát triển các chỉ số bền vững môi trường với 68 tiêu chí, trong khi nhóm Bối cảnh Toàn cầu tập trung vào dấu chân sinh thái Nhóm Tiêu chí Tiến bộ Đích thực (GPI) và Nhóm Hành động Liên cơ quan Hoa Kỳ về các tiêu chí phát triển bền vững (IWGSDI) cũng đóng góp vào các tiêu chí này Hệ thống tiêu chí của Costa Rica về phát triển bền vững, Dự án các tiêu chí Boston và nhóm đánh giá các thất bại, sáng kiến thông báo toàn cầu là những nỗ lực quan trọng trong lĩnh vực này Ủy ban Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (CSD) được thành lập nhằm thúc đẩy các tiêu chí phát triển bền vững trên toàn cầu.
Vào năm 1992, một bộ tiêu chí gồm 58 yếu tố liên quan đến phát triển bền vững đã được xây dựng và thử nghiệm, bao gồm các khía cạnh xã hội, môi trường, kinh tế và thể chế Ủy ban khuyến khích các quốc gia áp dụng bộ tiêu chí này một cách tự nguyện, phù hợp với điều kiện riêng của từng quốc gia mà không có bất kỳ điều kiện nào về tài chính, kỹ thuật hay thương mại Bộ tiêu chí này đã được nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, lựa chọn để xây dựng tiêu chí đánh giá phát triển bền vững cho đất nước.
Bộ tiêu chí phát triển bền vững của Ủy ban phát triển bền vững (CSD) của Liên Hợp Quốc:
Bền vững về mặt xã hội: bao gồm 6 chủ đề về công bằng, y tế, giáo dục, nhà ở, an ninh và dân số với 19 tiêu chí cụ thể:
(1) Phần trăm dân số sống dưới ngưỡng nghèo;
(2) Chỉ số bất bình đẳng GINI;
(4) Tỷ lệ lương trung bình của nữ so với nam giới;
(5) Tình trạng dinh dƣỡng của trẻ em;
(6) Tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi;
(8) Phần trăm dân số có thiết bị vệ sinh phù hợp;
(9) Phần trăm dân số được sử dụng nước sạch;
(10) Phần trăm dân số tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản;
(11) Tiêm chủng phòng ngữa các bệnh lây nhiễm cho trẻ em;
(12) Tỷ lệ phổ biến về phòng tránh thai;
(13) Phổ cập tiểu học đối với trẻ em;
(14) Tỷ lệ người trưởng thành học hết cấp hai;
(15) Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành;
(16) Diện tích nhà ở (sàn) bình quân đầu người;
(17) Số tội phạm trên 100.000 dân;
(18) Tốc độ tăng dân số;
(19) Dân số thành thị chính thức và cƣ trú không chính thức
Bền vững về môi trường bao gồm 7 chủ đề chính: không khí, đất, đại dương và bờ biển, nước sạch, và đa dạng sinh học, với 19 tiêu chí cụ thể nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường sống.
(20) Phát thải khí nhà kính;
(21) Mức độ tiêu thụ các chất gây hại ở tầng ozon;
(22) Nồng độ các chất gây ô nhiễm không khí ở khu vực đô thị;
(23) Đất canh tác và diện tích cây lâu năm;
(24) Sử dụng phân hóa học;
(25) Sử dụng thuốc trừ sâu;
(26) Tỷ lệ che phủ rừng;
(27) Cường độ khai thác gỗ;
(28) Đất bị sa mạc hóa;
(29) Diện tích thành thị chính thức và không chính thức;
(30) Mật độ tảo trong biển;
(31) Phần trăm dân số sống ở vùng duyên hải; (32) Sản lƣợng đánh bắt hàng năm;
(33) Mức khai thác nguồn nước ngầm và nước mặt trên tổng trữ lượng nước;
(34) Hàm lượng BOD trong nước;
(35) Nồng độ coliform trong nước sạch;
(36) Diện tích hệ sinh thái chủ yếu đƣợc lựa chọn;
(37) Diện tích khu bảo tồn so với tổng diện tích;
(38) Sự đa dạng của giống loài đƣợc lựa chọn
Bền vững kinh tế bao gồm 2 chủ đề về tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, xu hướng sản xuất và tiêu thụ với 14 tiêu chí cụ thể:
(39) GDP bình quân đầu người;
(40) Tỷ lệ đầu tƣ trong GDP;
(41) Cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ;
(42) Tỷ lệ nợ trong GNI;
(43) Tổng viện trợ ODA hoặc nhận viện trợ ODA so với GNI;
(44) Mức độ sử dụng nguyên vật liệu;
(45) Tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người hàng năm;
(46) Tỷ lệ tiêu dùng nguồn năng lƣợng có thể tái sinh;
(47) Mức độ sử dụng năng lƣợng;
(48) Chất thải rắn của công nghiệp và đô thị;
(49) Chất thải độc hại; (50) Chất thải phóng xạ;
Khoảng cách di chuyển trung bình trên đầu người được xác định theo loại phương tiện vận tải Để phát triển bền vững, cần chú trọng đến hai khung thể chế chính: khung thể chế và năng lực thể chế, được cụ thể hóa thành sáu tiêu chí quan trọng.
(53) Chiến lƣợc phát triển bền vững quốc gia;
(54) Thực thi các công ƣớc quốc tế đã ký;
(55) Số lượng người truy cập internet/1.000 dân;
(56) Đường điện thoại chính/1.000 dân;
(57) Đầu tƣ cho nghiên cứu và phát triển tinh theo % GDP;
(58) Thiệt hại về người và của do các thảm họa thiên nhiên.
Phát triển du lịch bền vững
1.2.1 Khái niệm phát triển du lịch bền vững
Hiện nay, quan niệm về phát triển du lịch bền vững vẫn chưa được thống nhất trên toàn cầu Du lịch bền vững có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Du lịch bền vững, theo định nghĩa của Machado (2003), là các hình thức du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai Điều này có nghĩa là du lịch cần phải khả thi về kinh tế nhưng không được phá hủy tài nguyên, đặc biệt là môi trường tự nhiên và cấu trúc xã hội của cộng đồng địa phương Định nghĩa này nhấn mạnh tính bền vững của các sản phẩm du lịch mà chưa đề cập một cách tổng quát đến sự bền vững của toàn ngành du lịch.
Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC), du lịch bền vững được định nghĩa là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và khu vực du lịch, đồng thời bảo đảm khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai Định nghĩa này, mặc dù ngắn gọn và dựa trên khái niệm phát triển bền vững của UNCED, vẫn còn quá chung chung Nó chỉ tập trung vào nhu cầu của du khách mà chưa đề cập đến nhu cầu của cộng đồng địa phương, cũng như các vấn đề liên quan đến môi trường sinh thái và đa dạng sinh học.
Theo Hens L (1998), du lịch bền vững yêu cầu quản lý tất cả các dạng tài nguyên để đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ, đồng thời duy trì bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý tài nguyên du lịch nhằm phát triển bền vững.
Tại Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc diễn ra ở Rio de Janeiro vào năm 1992, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra một định nghĩa quan trọng về du lịch bền vững.
Du lịch bền vững là phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và người dân địa phương, đồng thời bảo tồn tài nguyên cho tương lai Mục tiêu của du lịch bền vững là thỏa mãn nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người, trong khi vẫn duy trì văn hóa, đa dạng sinh học và phát triển hệ sinh thái Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của cộng đồng địa phương, bảo vệ môi trường và gìn giữ bản sắc văn hóa.
Mục tiêu của Du lịch bền vững theo Inskeep (1995) là:
- Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường;
- Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển;
- Cải thiện chất lƣợng cuộc sống của cộng đồng bản địa;
- Đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách;
- Duy trì chất lượng môi trường
Phát triển du lịch bền vững được coi là một phần của phát triển bền vững tổng thể, như đã được xác định bởi Hội nghị của Ủy ban Thế giới về Phát triển và Môi trường năm 1987 Hoạt động này nhằm phát triển du lịch tại một khu vực cụ thể với nội dung, hình thức và quy mô phù hợp, đảm bảo tính bền vững theo thời gian mà không gây suy thoái môi trường hay ảnh hưởng đến khả năng hỗ trợ các hoạt động phát triển khác Tính bền vững của du lịch phụ thuộc vào sự thành công trong phát triển các ngành khác và sự phát triển bền vững chung của toàn xã hội.
1.2.2 Vai trò và ý nghĩa của phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững của địa phương mà còn của quốc gia Bên cạnh các hoạt động kinh tế truyền thống như nông nghiệp, thủ công và công nghiệp, người dân địa phương có thể mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ như du lịch, giải trí và ẩm thực, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Du lịch phát triển bền vững không chỉ góp phần vào việc ổn định chính trị và xã hội mà còn thúc đẩy tiến bộ xã hội Đồng thời, nó cũng giúp bảo tồn và tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương, tạo ra một môi trường du lịch thân thiện và bền vững.
Du lịch bền vững đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên cũng như môi trường Để phát triển du lịch hiệu quả, cần khai thác hợp lý tài nguyên hiện có, đảm bảo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Phát triển du lịch bền vững đóng vai trò quan trọng trong chính sách phát triển bền vững của địa phương, quốc gia và toàn cầu Để đạt được ba yếu tố cốt lõi của phát triển bền vững, cần nỗ lực và sự nghiêm túc trong quá trình thực hiện Đặc biệt, đối với Việt Nam, một quốc gia còn nghèo và phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài, việc phát triển du lịch bền vững càng trở nên cần thiết giữa bối cảnh dân số tăng trưởng, hệ thống luật lệ phức tạp và hành chính còn nhiều hạn chế.
1.2.3 Một số vấn đề cần giải quyết đối với phát triển du lịch bền vững
Theo quan điểm phát triển bền vững, du lịch bền vững cần được phát triển với bản chất, quy mô và phương thức phù hợp theo thời gian, đồng thời tương thích với khả năng chịu tải của môi trường Hoạt động này cũng phải hỗ trợ công tác bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hóa, cũng như nâng cao đời sống cộng đồng Theo Hội đồng khoa học, Tổng Cục Du lịch, năm 2005, có 12 mục tiêu trong chương trình du lịch bền vững cần được giải quyết.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững và lợi nhuận lâu dài cho các doanh nghiệp và điểm du lịch, việc nâng cao hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh là rất quan trọng.
Du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, góp phần gia tăng phồn thịnh cho các điểm du lịch và khu du lịch Sự gia tăng tiêu dùng của khách du lịch không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp giữ lại nguồn lực tài chính tại địa phương, từ đó nâng cao chất lượng sống cho cộng đồng và phát triển bền vững.
Chất lượng việc làm trong ngành du lịch được nâng cao thông qua việc gia tăng số lượng và chất lượng việc làm tại địa phương, đồng thời đảm bảo không có sự phân biệt đối xử về giới và các yếu tố khác.
Bộ tiêu chí và chỉ số môi trường
- Khái niệm nguyên tắc, tiêu chí, chỉ số:
Nguyên tắc là tập hợp các quan điểm và tư tưởng nhất quán, áp dụng cho toàn bộ hoặc một giai đoạn cụ thể, yêu cầu các tổ chức và cá nhân phải tuân thủ.
Thuật ngữ "nguyên tắc" đề cập đến một mệnh đề liên quan đến tự nhiên và xã hội, bao gồm sự tổng hợp các hiểu biết và kiến thức tích lũy qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Tiêu chí được hiểu là cấp độ thứ 2 của các nguyên tắc, bổ sung ý nghĩa và chức năng cho nguyên tắc chính, mà không trực tiếp đo lường việc thực hiện Chúng là các nội dung và yêu cầu mà đối tượng nghiên cứu cần đáp ứng để hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Chỉ số là một tập hợp các đo lường hoặc thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu, được sử dụng để đưa ra kết luận cho các tiêu chí cụ thể.
Mục tiêu của việc xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số là nhằm cung cấp một loạt các chỉ số có thể kiểm nghiệm về mặt khoa học, kỹ thuật, khả thi và hiệu quả chi phí.
Tiêu chí và chỉ số (C & I) đóng vai trò quan trọng trong quản lý tài nguyên, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch bền vững Mô hình này tích hợp các nguyên tắc và tiêu chí nhằm đo lường các khía cạnh khác nhau của tính bền vững, từ khái niệm đến thực hành Việc áp dụng các tiêu chí và chỉ số không chỉ khuyến khích tư duy tổng thể trong lập kế hoạch du lịch mà còn nâng cao sự cởi mở, minh bạch và trách nhiệm trong quản lý quy hoạch, giám sát và báo cáo.
Tóm lại, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung đánh giá du lịch bền vững, các nhà khoa học đều thống nhất rằng cần dựa trên các khía cạnh cơ bản của phát triển bền vững Đồng thời, việc xác định tiêu chí và chỉ số đánh giá cũng cần xem xét các đặc trưng của từng tình huống nghiên cứu cụ thể.
1.3.2 Ý nghĩa, vai trò xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số môi trường trong phát triển du lịch bền vững
Du lịch đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nhiều quốc gia, bao gồm các hoạt động như tham quan, giải trí, khám phá và nghỉ dưỡng Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và triển khai các dự án mà không chú ý đến sự suy giảm tài nguyên và tác động tiêu cực đến môi trường là một hành động đi ngược lại với nguyên tắc phát triển bền vững mà chúng ta đang hướng tới.
Quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch là một thách thức lớn, khi môi trường sống tự nhiên đang dần xuống cấp Khi đã suy thoái nghiêm trọng, việc phục hồi môi trường trở về trạng thái ban đầu trở nên khó khăn, dẫn đến việc không đạt được mục tiêu phát triển bền vững trong du lịch Do đó, việc xây dựng một hệ thống chỉ số cảnh báo là cần thiết để quản lý du lịch hiệu quả Thiếu hệ thống này, những nỗ lực phục hồi sau khi môi trường bị tác động nặng nề sẽ không mang lại kết quả như mong đợi.
Bộ tiêu chí và chỉ số cho phát triển bền vững, được giới thiệu bởi Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về phát triển bền vững, đóng vai trò quan trọng trong việc đo lường hiệu quả quản lý phát triển bền vững.
Mục tiêu của bộ tiêu chí là đánh giá quá khứ, hướng dẫn các hoạt động hiện tại và lập kế hoạch cho tương lai, đồng thời kiểm soát các loại số liệu cần thu thập và đo lường Các tiêu chí và chỉ số này tập trung vào các đo lường tiêu chuẩn của tính bền vững, nhằm ứng dụng rộng rãi ở nhiều khu vực và nguyên tắc khác nhau trên toàn cầu Đặc điểm của các chỉ số này là mô tả sự phát triển du lịch có bền vững hay không Tính chặt chẽ, tin cậy, hiệu quả, toàn diện và hữu ích cho người ra quyết định là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển bộ chỉ số, đồng thời cần linh động để thích ứng với các điểm đến du lịch sinh thái khác nhau và các hoàn cảnh đặc biệt.
Xác định phương pháp đánh giá và loại thang đo sử dụng
Thước đo sự bền vững - Barometer of Sustainability, được phát triển bởi Prescott-Allen (1997), là một trong những công cụ đầu tiên để đánh giá tính bền vững của du lịch Công cụ này đã được áp dụng rộng rãi trong các nghiên cứu của Ko (2003), Tsaur và các cộng sự (2005), cùng nhiều lĩnh vực khác Các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá, từ thang đo 5 điểm đơn giản của Rio và Nunes (2012) đến các lý thuyết phức tạp như lý thuyết mờ của Lin và Lu (2012) hay lý thuyết hệ thống xám (Wang và Pei, 2014) Dù phương pháp nào được chọn, các nghiên cứu cần dựa trên các thang đo bền vững với tiêu chí và biến đo lường rõ ràng Các biến đo lường thường được chia thành hai loại: biến đo lường khách quan, dựa trên dữ liệu định lượng, và biến đo lường chủ quan, dựa trên thái độ cá nhân Mặc dù thang đo khách quan thường được ưa chuộng do tính chính xác, nhưng trong đánh giá du lịch bền vững, cả hai loại thang đo đều quan trọng và thường được sử dụng tương đương nhau, với thang đo chủ quan thậm chí còn phổ biến hơn trong một số trường hợp.
Các nghiên cứu về đánh giá thường sử dụng thang đo chủ quan kết hợp với các phương pháp phân tích như Phân tích Thứ bậc (AHP) và Phân tích Mạng (ANP), trong đó ANP được coi là một phương pháp tổng quan của AHP, giúp phân chia vấn đề phức tạp thành mạng lưới có hệ thống Ngoài ra, phương pháp Delphi cũng thường được áp dụng để thảo luận giữa các chuyên gia nhằm xác định tiêu chí đánh giá sự bền vững Ngược lại, các nghiên cứu sử dụng thang đo khách quan dựa vào dữ liệu chỉ số khách quan và các công cụ phức tạp như AMOEBA, phân tích thành phần chính, dấu chân sinh thái, và mô hình tuyến tính tích lũy.
Năm 1993, Tổ chức Du lịch Thế giới đã phát triển một nghiên cứu đại diện về các chỉ số quản lý du lịch bền vững, với mục tiêu đánh giá và cải thiện các yếu tố liên quan đến sự phát triển bền vững trong ngành du lịch.
Vào năm 1999, bộ tiêu chí và chỉ số để đánh giá phát triển du lịch sinh thái bền vững đã được phát triển cho Vườn quốc gia Tama Negara ở Malaysia Năm 2003, Stein, Clark và Richard áp dụng phương pháp Delphi để xác định các yếu tố định giá cho các khu vực bản địa của Đài Loan Tiếp theo, Young Blender (2008) sử dụng kỹ thuật Delphi để xây dựng hệ thống tiêu chí và chỉ số nhằm ước lượng du lịch sinh thái dựa vào rừng tại Tây Virginia Orsi và các cộng sự cũng đã có những nghiên cứu liên quan trong lĩnh vực này.
Năm 2010, phương pháp Delphi đã được áp dụng để xây dựng một hệ thống tiêu chí và chỉ số chung nhằm xác định ưu tiên phục hồi trong các khu rừng.
Nghiên cứu của Chris và Sirakaya (2005) đã sử dụng kỹ thuật Delphi để phát triển các chỉ số đo lường du lịch cộng đồng, trong khi Fresque và Plummer (2006) áp dụng phương pháp này để xác định các chỉ số xã hội và sinh thái cho việc đánh giá tác động của khách du lịch tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn ở Canada Hai và cộng sự (2009) cũng đã sử dụng kỹ thuật Delphi để xây dựng các chỉ số bền vững cho phát triển tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam Gần đây, tác giả Lê Chí Công (2015) đã ứng dụng phương pháp Delphi để thiết lập các chỉ tiêu đánh giá du lịch bền vững tại thành phố Nha Trang.
Nghiên cứu thiếu thang đo rõ ràng sẽ dẫn đến kết quả không thuyết phục và khó khăn trong việc phát triển các nghiên cứu tiếp theo Việc xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số phát triển du lịch sinh thái bền vững thông qua phương pháp Delphi không chỉ mang tính định lượng cao mà còn mở ra hướng nghiên cứu rộng cho các nghiên cứu về du lịch bền vững tại Việt Nam.
ỤC TIÊU, NỘ DU , P ƯƠ P ÁP Ê CỨU
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp tổng hợp số liệu, thu thập số liệu
Nghiên cứu tại bàn là quá trình thu thập và xử lý tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm cả tài liệu xuất bản và không xuất bản Phương pháp này giúp tổng quan các nghiên cứu trước đó, tìm ra phương pháp phù hợp và sử dụng kỹ thuật phân tích chính xác, từ đó đảm bảo kết quả nghiên cứu đáng tin cậy Các tài liệu chủ yếu là thông tin thứ cấp từ báo cáo nghiên cứu, tài liệu của tổng cục thống kê, bộ ngành và tổ chức phi chính phủ về phát triển du lịch bền vững Thông tin thu thập sẽ được phân tích, điều chỉnh để phù hợp với đề tài và điều kiện thực tiễn, nhằm có cái nhìn tổng thể về vấn đề nghiên cứu Điều này cũng giúp xác định những nội dung cần thảo luận trong báo cáo và thu thập thông tin chính xác khi thực địa, tránh việc thu thập thông tin lệch hướng hoặc không cần thiết, từ đó nâng cao hiệu quả nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng xuyên suốt từ giai đoạn xác định địa điểm cho đến khảo sát thực tế tại khu vực nghiên cứu Tài liệu thu thập bao gồm báo cáo phát triển kinh tế xã hội, báo cáo nhiệm vụ 5 năm và thống kê về đất đai, du lịch từ UBND xã Hương Sơn, BQL khu di tích, phòng Tài nguyên Môi trường huyện Mỹ Đức và các phòng ban liên quan Dữ liệu được ưu tiên thu thập trong khoảng thời gian 5 năm gần đây (2014 - 2019), sau đó được tổng hợp, xử lý và lựa chọn phù hợp với mục đích nghiên cứu.
Tham vấn chuyên gia là phương pháp quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có chuyên môn trong các lĩnh vực như văn hóa - xã hội, môi trường và kinh tế Phương pháp này nhằm tìm ra giải pháp tối ưu cho việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu và xây dựng bộ tiêu chí, chỉ số nhằm phát triển du lịch bền vững.
Phương pháp Delphi là một kỹ thuật độc đáo nhằm thu thập và sàng lọc ý kiến từ nhóm chuyên gia, giúp tạo ra những quan điểm và đồng thuận hấp dẫn Đây là một phương pháp dự báo dài hạn, dựa vào tập hợp ý kiến của các chuyên gia đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau Kỹ thuật này được áp dụng để phát triển các chỉ số mục tiêu và là một trong những phương pháp định tính nổi bật, hỗ trợ trong việc dự đoán các sự kiện tương lai thông qua sự đồng thuận.
Phương pháp Delphi được sử dụng để thu thập ý kiến từ các chuyên gia nhằm đạt được sự đồng thuận Việc lựa chọn cẩn thận các chuyên gia tham gia trả lời bảng câu hỏi qua nhiều vòng là rất quan trọng Sau mỗi vòng, các nhà khoa học sẽ cung cấp bảng tổng hợp khuyết danh từ các ý kiến trước đó, giúp loại bỏ một số tiêu chí và đưa vào các nhóm tiêu chí mới Quá trình này sẽ kết thúc khi đạt được sự ổn định trong kết quả, được xác định qua số trung bình và trung vị.
Phương pháp Delphi là một công cụ hiệu quả để thu thập và tích hợp kiến thức từ các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong bối cảnh có sự đa dạng về quan điểm (Hwang và các cộng sự, 2006) Phương pháp này cho phép thu thập đánh giá theo chủ đề một cách hệ thống, giúp giải quyết vấn đề và hỗ trợ ra quyết định Murry và Hammors (1995) đã nêu rõ bốn đặc điểm quan trọng của phương pháp Delphi, khẳng định tính tin cậy và khả năng đạt được sự nhất trí trong nhóm.
- Dấu tên các thành viên nhóm chuyên gia;
- Quá trình tương tác diễn ra qua các vòng cho phép các chuyên gia có thểthay đổi quan điểm của mình;
Điều khiển phản hồi là quá trình thông báo cho các thành viên trong nhóm về quan điểm của những người khác, đồng thời cung cấp cơ hội cho các chuyên gia làm rõ hoặc điều chỉnh quan điểm của mình.
- Kết quả phản hồi nhóm sẽ đƣợc xử lý thống kê: Kết quả sẽ cho phép phântích định lƣợng và diễn giải các số liệu
2.4.2.1 Hình thành nên nhóm chuyên gia
Việc lựa chọn chuyên gia trong kỹ thuật Delphi là bước quan trọng nhất, yêu cầu nhóm chuyên gia phải được xây dựng dựa trên sự cân nhắc kỹ lưỡng về kinh nghiệm và lĩnh vực nghiên cứu phù hợp, thay vì chọn ngẫu nhiên.
Số lượng chuyên gia trong nhóm nghiên cứu là yếu tố quyết định độ tin cậy của kết quả Theo Linstone (1978), tối thiểu 7 chuyên gia là cần thiết để áp dụng phương pháp Delphi, trong khi Dalkey và Helmer (1969) khuyến nghị ít nhất 10 người để đạt độ chính xác cao nhất Skulmoski và các cộng sự (2007) gợi ý nhóm từ 10-15 người để có kết quả phù hợp Tsaur và đồng nghiệp (2006) đã thành công với 12 chuyên gia từ hiệp hội Du lịch Đài Loan để đánh giá tính bền vững của du lịch sinh thái Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Chí Công (2015) cũng sử dụng 7 chuyên gia để xây dựng chỉ tiêu đánh giá du lịch bền vững ở Nha Trang Gần đây, đề tài do TS Nguyễn Thị Thanh An dẫn đầu cũng đã được thực hiện.
Năm 2019, một nhóm 13 chuyên gia đã được thành lập để xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số giám sát du lịch sinh thái bền vững tại khu vực Đăk Nông Số lượng chuyên gia tham gia trong quá trình này có thể dao động từ 8 đến 15 người, điều này được coi là hợp lý.
Khi lựa chọn nhóm chuyên gia cho hoạt động du lịch, cần xem xét các yếu tố như kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, sự sẵn lòng tham gia và thời gian có thể dành cho dự án Nhóm chuyên gia này nên có bằng cấp và nhiều năm kinh nghiệm trong các lĩnh vực như kinh tế, quản lý cộng đồng, sinh thái, quản lý tài nguyên và du lịch sinh thái Được hình thành sau quá trình khảo sát thực tế tại địa phương, nhóm gồm 15 thành viên, trong đó có 7 chuyên gia từ cơ quan chính quyền địa phương, 4 chuyên gia nghiên cứu tự do và 4 chuyên gia từ các công ty tổ chức du lịch Tất cả các chuyên gia đều có ít nhất 5 năm kinh nghiệm và làm việc tại các phòng, ban, tổ chức liên quan đến hoạt động du lịch và môi trường khu vực.
2.4.2.2 Tiến trình nghiên cứu Delphi
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chúng tôi đã xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số để đánh giá hoạt động du lịch bền vững Phương pháp Delphi được áp dụng qua hai giai đoạn khảo sát nhằm thu thập thông tin cần thiết.
Các bảng khảo sát đã được gửi tới các chuyên gia để thu thập thông tin cá nhân và kinh nghiệm làm việc Những chuyên gia này sẽ đánh giá các chỉ số theo thang đo 5 bậc Likert.
1: Thể hiện rằng chỉ số hoàn toàn không có khả năng đánh giá;
2: Thể hiện rằng chỉ số không có khả năng đánh giá;
3: Thể hiện rằng chỉ số có khả năng đánh giá chƣa cao;
4: Thể hiện rằng chỉ số có khả năng đánh giá cao;
5: Thể hiện rằng chỉ số có khả năng đánh giá rất cao
Thang đo Likert là một loại thang đo đơn hướng được phát minh bởi nhà tâm lý học người Mỹ, Rensis Likert Thang đo này thường được sử dụng để đánh giá mức độ đồng ý hoặc không đồng ý của người tham gia đối với một tuyên bố cụ thể.
Trong nghiên cứu này, thang đo 5 được lựa chọn để đánh giá các tiêu chí và chỉ số môi trường, vì thang đo này chiếm phần lớn trong khoảng từ 3 đến 12 Việc sử dụng thang đo từ 5 trở lên giúp duy trì tính chính xác của các đo lường, đặc biệt khi phần lớn các mẫu Delphi không phải là mẫu lớn (Ameyaw et al., 2016).