TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Ở ngoài nước
Theo FAO (2005), hơn 350 triệu ha rừng và đồng cỏ trên toàn cầu đã bị đốt cháy, với 95% nguyên nhân do hoạt động của con người, bao gồm mở rộng sản xuất nông nghiệp và chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở các nước đang phát triển, cũng như tăng cường sử dụng rừng cho giải trí và du lịch ở các nước phát triển Để giảm thiểu tình trạng mất rừng do cháy và đảm bảo việc sử dụng lửa mang lại hiệu quả tích cực, cần nâng cao nhận thức cộng đồng về công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) Cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong quản lý và thực hiện PCCCR Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng mô hình PCCCR dựa vào cộng đồng để quản lý lửa rừng hiệu quả.
Thuật ngữ quản lý lửa rừng dựa vào cộng đồng (CBFIM) được giới thiệu bởi Sameer Karki tại Trung tâm đào tạo Lâm nghiệp cộng đồng (RECOFTC) ở Bangkok, Thái Lan vào năm 2000 Kể từ khi thuật ngữ này được công nhận, nhiều bài báo, phân tích, nghiên cứu và chương trình đào tạo liên quan đã được triển khai tại Thái Lan.
Quản lý lửa rừng dựa vào cộng đồng, theo Zhang và các cộng sự (2003), là một phương pháp trong đó người dân không chỉ hiểu biết sâu sắc về phòng cháy chữa cháy mà còn tự nguyện tham gia vào quá trình quản lý lửa.
Mô hình quản lý lửa rừng dựa vào cộng đồng đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm các nước Châu Phi, Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, Úc, Ấn Độ và Philippines.
Năm 1996, Cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Môi trường và Du lịch đã chọn khu vực Caprivi ở đông bắc Namibia làm điểm thí điểm cho mô hình kiểm soát cháy rừng dựa vào cộng đồng, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rừng và bảo vệ môi trường (Jurvelius, 1999; Kamminga).
Khu vực thí điểm tại Namibia trải dài trên 1,2 triệu ha rừng cận nhiệt đới, bao gồm đất của địa phương, rừng nhà nước, công viên quốc gia và khu bảo tồn động vật hoang dã Trước khi dự án được triển khai, khoảng 70-80% diện tích rừng trong khu vực này bị cháy hàng năm, chủ yếu do hoạt động của con người.
Chương trình đã thu hút đông đảo người dân địa phương tham gia vào nhiều hoạt động, bao gồm xem phim truyền hình và học cách phòng chống cháy Những nỗ lực này đã giúp giảm 54% diện tích bị cháy hàng năm trong khu vực Cuộc khảo sát cũng chỉ ra rằng chính phủ cần chuyển giao trách nhiệm và quyền hạn phòng cháy chữa cháy rừng cho cộng đồng.
Tại Ấn Độ, ủy ban quản lý rừng đã được thành lập ở cấp thôn bản nhằm bảo vệ và bảo tồn rừng, hiện có 36.165 ủy ban trải rộng trên hơn 10.240.000 ha Các ủy ban này không chỉ chịu trách nhiệm bảo vệ rừng mà còn tham gia vào công tác phòng chống cháy rừng Để nâng cao hiệu quả, kế hoạch kiểm soát cháy rừng hiện đại đang được điều chỉnh, với các ủy ban đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phòng chống cháy rừng, thay thế phương pháp PCCCR bằng máy bay, vốn chưa hiệu quả và tốn kém.
Tại Philippines, chương trình nhằm thúc đẩy và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc thực hiện các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng, với mục tiêu bảo vệ môi trường và nâng cao nhận thức về an toàn cháy rừng.
- Tổ chức và tăng cường thành viên cộng đồng để họ có thể làm việc hướng tới một nỗ lực chung;
- Tăng cường ý chí chính trị của cộng đồng và các đơn vị chính quyền địa phương đối với việc bảo tồn/ bảo vệ tài nguyên rừng;
Kết hợp các sáng kiến bảo tồn và bảo vệ rừng vào nỗ lực phát triển cộng đồng là điều cần thiết Để thực hiện điều này, cần xác định các mục tiêu cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
- Giới hạn/ ngăn chặn, nếu không hoàn toàn loại trừ, sự xuất hiện của cháy rừng ở các cộng đồng của tỉnh;
- Điều chỉnh việc sử dụng lửa của nông dân thông qua việc cấp giấy phép để theo dõi;
- Theo dõi và ghi lại các lần xuất hiện của lửa tại các khu vực rừng của mỗi cộng đồng một cách thường xuyên;
- Tiếp tục điều tra nguyên nhân vụ cháy và đề xuất chính sách cho các cơ quan có liên quan để xử lý
Một chiến lược hiệu quả là huy động toàn bộ cộng đồng tham gia vào kế hoạch khen thưởng Cụ thể, các cộng đồng không xảy ra cháy rừng, không khai thác gỗ bất hợp pháp hoặc có tỷ lệ cháy rừng thấp sẽ nhận được phần thưởng trị giá 200.000 peso (khoảng 4.000 USD) (Pogeyed, 1998).
Mặc dù các phương pháp phòng chống cháy rừng đã được phát triển, thiệt hại do cháy rừng vẫn rất nghiêm trọng ngay cả ở các nước phát triển như Mỹ, Úc và Nga Việc kiểm soát các đám cháy thường không hiệu quả, do đó, ngăn chặn nguồn lửa là điều quan trọng nhất Các nghiên cứu về đặc điểm xã hội của cháy rừng và giải pháp xã hội cho phòng chống cháy rừng đã chỉ ra rằng tuyên truyền và giáo dục về tác hại của cháy rừng cũng như nghĩa vụ của công dân là cần thiết Tuy nhiên, vẫn thiếu nghiên cứu về ảnh hưởng của thể chế, chính sách quản lý tài nguyên và nhận thức của người dân đối với cháy rừng Ngoài ra, các mô hình phòng cháy chữa cháy rừng do cộng đồng tổ chức còn hạn chế và thường phụ thuộc vào sự can thiệp từ bên ngoài Điều này cho thấy cộng đồng địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống cháy rừng, cần thiết phải xây dựng các giải pháp kinh tế - xã hội phù hợp.
Ở trong nước
- Về công tác PCCCR nói chung
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã tăng cường quan tâm và đầu tư cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến PCCCR đã được hoàn thiện dần dần, với nhiều văn bản quan trọng được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
- Chỉ thị số 12/2003/CT-TTg ngày 16/5/2003 vê việc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng;
Chỉ thị số 08/2006/CT-TTg ngày 08/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng cường các biện pháp cấp bách để ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng và khai thác rừng trái phép Chỉ thị này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng, yêu cầu các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, đồng thời nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ tài nguyên rừng.
Chỉ thị số 3318/CT-BNN-KL, ban hành ngày 06/11/2008, của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhấn mạnh việc tăng cường các biện pháp cấp bách nhằm bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng và chống lại các hành vi cản trở người thi hành công vụ.
Chỉ thị số 3767/CT-BNN-KL ngày 18/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nhấn mạnh việc cần thiết phải tăng cường các biện pháp cấp bách nhằm bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) trong mùa khô 2009 - 2010.
- Chỉ thị số 270/2010/CT-TTg ngày 12/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng;
- Chỉ thị số 25/CT-BNN-TCLN ngày 06/01/2011 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc triển khai các biện pháp bảo vệ rừng và PCCCR;
Chỉ thị số 1685/CT-TTg ngày 27/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh việc tăng cường chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, nhằm ngăn chặn tình trạng phá rừng và bảo vệ người thi hành công vụ.
- Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg ngày 08/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng;
- Công điện số 300/CĐ-TTg ngày 06/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phòng cháy, chữa cháy rừng
Các Chi cục Kiểm lâm địa phương được yêu cầu tăng cường quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng thông qua việc ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và hướng dẫn Đồng thời, cần trình cấp có thẩm quyền tổ chức các hội nghị, cuộc họp toàn quốc nhằm triển khai các Chỉ thị và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy và chữa cháy rừng đang dần hoàn thiện, với chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng được thể chế hóa Ban chỉ đạo Trung ương về bảo vệ rừng và PCCCR đã được thành lập và hoạt động hiệu quả, cùng với sự gia tăng vai trò của chủ rừng Ý thức cộng đồng về PCCCR có những chuyển biến tích cực, và kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành, kiểm tra và kiểm soát cháy rừng ngày càng được cải thiện Phương châm 4 tại chỗ trong chữa cháy rừng đã được áp dụng hiệu quả, góp phần giảm thiểu nguy cơ cháy rừng Hầu hết các địa phương đã thành lập các ban chỉ huy PCCCR các cấp và tổ đội PCCCR cấp thôn bản, sẵn sàng tham gia vào công tác PCCCR.
- Một số các nghiên cứu về cháy rừng trong nước
Vào năm 1988, Phạm Ngọc Hưng đã phát triển một phương pháp dự báo nguy cơ cháy rừng dựa trên số ngày khô hạn liên tục Ông đã tạo ra một bảng tra cứu để xác định mức độ nguy hiểm của cháy rừng, dựa trên số ngày khô hạn liên tục trong các mùa khí hậu khác nhau trong năm.
Các dự án thử nghiệm đốt vật liệu cháy dưới rừng thông tại Đà Lạt đã được thực hiện bởi Phó Đức Đỉnh vào năm 1993 với rừng thông non 2 tuổi và Phan Thanh Ngọ vào năm 1995 với rừng thông 8 tuổi.
Từ đầu năm 2003, Cục Kiểm lâm đã hợp tác với nhóm nghiên cứu thuộc đề tài KC.08.24 của Trường Đại học Lâm nghiệp để phát triển "Phần mềm cảnh báo lửa rừng".
Vào năm 2005, Vương Văn Quỳnh cùng các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu đề tài KHCN cấp nhà nước, tập trung vào việc "Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phòng chống và khắc phục hậu quả cháy rừng cho vùng U Minh và Tây Nguyên".
Từ năm 2006 đến 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt đề tài "Nghiên cứu hoàn thiện phương pháp và phần mềm cảnh báo nguy cơ cháy rừng ở Việt Nam" nhằm nâng cao khả năng phòng ngừa và ứng phó với cháy rừng.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả trong việc kiểm soát cháy rừng, tình hình vẫn rất phức tạp Trong giai đoạn từ 2002 đến 2011, cả nước ghi nhận 7.380 vụ cháy rừng, gây thiệt hại lên tới 49.837ha Trung bình mỗi năm có khoảng 715 vụ cháy, với 4.984ha rừng bị thiệt hại Đặc biệt, trong những năm nắng hạn bất thường và thời kỳ cao điểm của hiện tượng El Nino, nguy cơ cháy rừng tăng cao, như vào năm 2002.
Trong năm qua, đã xảy ra 198 vụ cháy rừng, gây thiệt hại lên tới 15.548 ha, trong đó hai vụ cháy lớn tại U Minh Thượng và U Minh Hạ đã làm mất 5.415 ha rừng, với giá trị lâm sản thiệt hại ước tính khoảng 290 tỷ đồng, chưa kể hàng chục tỷ đồng chi phí chữa cháy và phục hồi rừng Đáng chú ý, vào đầu năm 2010, vụ cháy tại Vườn quốc gia Hoàng Liên đã thiêu rụi hơn 800 ha rừng, và vào năm 2012, khu rừng phòng hộ Nam Hải Vân tại Đà Nẵng cũng chịu thiệt hại hơn 100 ha Chi phí huy động lực lượng chữa cháy rất lớn, làm đảo lộn đời sống người dân địa phương và ảnh hưởng lâu dài đến hệ sinh thái, cần thời gian để phục hồi.
- Về các mô hình cộng đồng tham gia PCCCR ở Việt Nam
Việc phát động cộng đồng tham gia PCCCR đã được triển khai rộng rãi, nhưng hầu hết các địa phương chưa có mô hình PCCCR bài bản, đặc biệt là mô hình tự nguyện Thực tế cho thấy, cộng đồng chỉ tham gia khi có đám cháy rừng xảy ra, dẫn đến việc phát hiện và chữa cháy chưa hiệu quả Công tác chữa cháy rừng thường chỉ được thực hiện sau khi đám cháy xảy ra, mà chưa có biện pháp phòng ngừa tại cộng đồng Việc chữa cháy rừng đòi hỏi nhiều nhân lực do địa hình phức tạp, và việc tiếp cận đám cháy thường khó khăn và nguy hiểm Do đó, nếu chỉ dựa vào lực lượng PCCCR là các tổ đội, hiệu quả sẽ không đạt được như mong đợi.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1 Mục tiêu tổng quát Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác PCCCR tỉnh Hà Giang
- Đánh giá được thực trạng mô hình PCCCR trong cộng đồng dân cư
- Đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản.
Đối tượng nghiên cứu
Công tác PCCCR, các mô hình PCCCR trong cộng đồng.
Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm: Mô hình PCCCR trong một số cộng đồng thôn bản của huyện Vị Xuyên
- Thời gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 03/2015 đến tháng 10/2015.
Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến cháy rừng ở các cộng đồng thôn bản
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản.
Phương pháp nghiên cứu
Sau khi thực hiện khảo sát sơ bộ tại các xã của huyện Vị Xuyên và phỏng vấn nhanh cán bộ Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Hà Giang cùng cán bộ KNKL huyện, chúng tôi đã thu thập được thông tin quan trọng về tình hình rừng và công tác quản lý lâm nghiệp tại địa phương.
Vị Xuyên và chính quyền địa phương các xã của huyện Vị Xuyên, tác giả đưa ra một số kết luận về địa điểm nghiên cứu như sau:
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ chọn ba xã đại diện cho huyện, bao gồm Lao Chải, Thuận Hòa và Trung Thành Tại mỗi xã, hai thôn sẽ được lựa chọn, tất cả đều có những đặc điểm tiêu biểu cho khu vực nghiên cứu Các xã và thôn này sở hữu diện tích rừng lớn, với nhiều trạng thái khác nhau, đã từng trải qua các vụ cháy rừng hoặc có nguy cơ cháy rừng, đồng thời có mô hình PCCCR (Phòng cháy chữa cháy rừng) trong cộng đồng.
Tại mỗi thôn, sẽ có 20 hộ gia đình được phỏng vấn, cùng với 7 cán bộ huyện, trong đó bao gồm 5 cán bộ từ Hạt kiểm lâm và 2 cán bộ từ các phòng ban phụ trách hoạt động nông lâm nghiệp Ngoài ra, sẽ có 12 cán bộ xã và thôn tham gia phỏng vấn, cụ thể là 6 cán bộ xã và 3 cán bộ từ mỗi thôn trong khu vực nghiên cứu.
Trong quá trình xây dựng mô hình và đề xuất giải pháp, chúng tôi tổ chức ba buổi hội thảo thảo luận tại từng thôn Đồng thời, các cán bộ huyện và xã cũng tham gia hội thảo để thu thập ý kiến đóng góp và đánh giá từ cộng đồng.
Phương pháp này được áp dụng liên tục trong quá trình thực hiện đề tài thông qua các hình thức như hội thảo, họp nhóm chuyên gia, bài nhận xét góp ý và phỏng vấn trực tiếp Ý kiến của các chuyên gia sẽ được ghi nhận và tổng hợp, bao gồm các nội dung liên quan đến việc xin ý kiến chuyên gia về phương pháp tiếp cận và phương pháp đánh giá.
Phương pháp chuyên gia được áp dụng từ giai đoạn đầu, bao gồm việc xây dựng thuyết minh đề tài và các đề cương chuyên đề, cho đến khi hoàn thiện nội dung của đề tài.
2.5.3 Phương pháp và công cụ thu thập số liệu
2.5.3.1 Nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Các số liệu, tài liệu, thông tin sau đây sẽ được tác giả thu thập và kế thừa:
- Số liệu về diện tích rừng của huyện điều tra (cấp huyện, xã, thôn)
- Số liệu về diện tích rừng, loại rừng bị cháy hàng năm của tỉnh, huyện, xã, thôn bản điều tra
- Nguyên nhân gây cháy rừng
- Các biện pháp PCCCR hiện đang được tỉnh cũng như huyện, xã, thôn bản thực hiện
- Các báo cáo, các dự án đang triển khai thực hiện có liên quan đến nghiên cứu
- Các loại bản đồ: Bản đồ giao đất giao rừng, bản đồ quy hoạch ba loại rừng
- Quyết định, nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện PCCCR tại địa phương
2.5.3.2 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu hiện trường Đề tài sử dụng các công cụ đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) sau đây để thu thập các thông tin và số liệu ngoài hiện trường:
Phỏng vấn cá nhân sẽ được thực hiện với cán bộ kiểm lâm huyện, cán bộ kiểm lâm phụ trách địa bàn, và cán bộ xã, thôn liên quan đến lâm nghiệp trước khi đến thôn bản Mục đích là để tìm hiểu về công tác quản lý và bảo vệ rừng, cũng như các hoạt động PCCCR tại địa phương Qua đó, sẽ nắm bắt được tình hình cháy rừng và các hoạt động sinh kế của người dân liên quan đến rừng và đất rừng, như canh tác nương rẫy, săn bắn, thu hái lâm sản và đốt than.
Phỏng vấn hộ gia đình được tiến hành bằng bảng phỏng vấn bán định hướng đã được chuẩn bị và kiểm tra kỹ lưỡng Các hộ gia đình được chọn lựa theo phương pháp ngẫu nhiên có hệ thống Nội dung phỏng vấn tập trung vào các vấn đề như tác hại và nguyên nhân của cháy rừng, thực trạng công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR), giải pháp cho PCCCR, nhiệm vụ của từng đối tượng trong PCCCR, cũng như những khuyến nghị về chính sách nhằm cải thiện công tác PCCCR.
Nhóm thảo luận gồm 5-7 người, hoặc nhiều hơn tùy thuộc vào số lượng hộ và tính đa dạng kinh tế trong thôn bản, được tổ chức sau khi thực hiện phỏng vấn hộ gia đình Các cuộc thảo luận dựa trên khung chuẩn và sử dụng công cụ phân tích cây vấn đề để xác định nguyên nhân gây cháy rừng tại địa phương Công cụ này không chỉ giúp cộng đồng nhận diện các nguyên nhân chính mà còn nhận thức được hậu quả của cháy rừng đối với cuộc sống của họ Qua đó, người dân sẽ đề xuất các giải pháp phù hợp cho công tác phòng chống cháy rừng (PCCCR) tại địa phương Quy trình thảo luận còn giúp cộng đồng tự đánh giá kết quả đạt được và xác định những khó khăn trong quá trình PCCCR, từ đó đề xuất giải pháp hiệu quả cho mô hình PCCCR dựa vào cộng đồng.
Phân tích vấn đề cháy rừng sẽ giúp cộng đồng xác định nguyên nhân chính gây ra hiện tượng này Qua đó, cộng đồng có thể thảo luận và tìm ra các giải pháp tự thân, đồng thời xác định những hỗ trợ cần thiết từ bên ngoài.
Cộng đồng cần tự nhận diện những khó khăn trong các mô hình PCCCR mà họ tham gia, xác định rõ ràng các vấn đề nội tại và yếu tố bên ngoài Họ cũng phải chủ động tìm kiếm giải pháp để giải quyết những khó khăn này, phân loại những vấn đề có thể khắc phục được và những vấn đề cần hỗ trợ từ bên ngoài thông qua quá trình trao đổi trong nhóm.
Kết quả từ thảo luận nhóm sẽ hỗ trợ cộng đồng nhận diện các mô hình PCCCR phù hợp với tình hình địa phương, từ đó lựa chọn mô hình tối ưu nhất cho sự phát triển bền vững.
2.5.4 Phương pháp xử lý nội nghiệp
- Tiến hành tổng hợp và lượng hóa số liệu phỏng vấn
- Tiến hành phân tích ảnh hưởng của người dân đối với mỗi mô hình
- Xây dựng các tiêu chí đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của từng mô hình:
+ Sự tham gia của người dân đối với mô hình
+ Kinh phí cho mô hình
+ Ưu, nhược điểm của mỗi mô hình
- Tổng kết và đưa ra nhận xét cho 3 nội dung nghiên cứu chính:
+ Đánh giá thực trạng và nguyên nhân cháy rừng tại Vị Xuyên
+ Đánh giá các hình thức PCCCR đang áp dụng tại Vị Xuyên
+ Đề xuất và đưa ra các mô hình nâng cao hiệu quả PCCCR
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ, XÃ HỘI: KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương
Vị Xuyên là huyện vùng núi thấp thuộc tỉnh Hà Giang, tọa lạc tại tọa độ từ 104°23'30" đến 105°09'30" Kinh độ Đông và từ 22°29'30" đến 23°02'30" Vĩ độ Bắc Trung tâm huyện là Thị trấn Vị Xuyên, nằm dọc theo Quốc lộ 2, cách Thị xã Hà Giang khoảng 20 km về phía Nam Huyện có địa giới hành chính rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và du lịch.
- Phía Bắc giáp biên giới với Trung Quốc; Thị xã Hà Giang và huyện Quản Bạ;
- Phía Nam giáp huyện Bắc Quang;
- Phía Đông giáp huyện Bắc Mê và tỉnh Tuyên Quang;
- Phía Tây giáp huyện Hoàng Su Phì
Huyện Vị Xuyên, thuộc tỉnh Hà Giang, nằm trong khu vực núi thấp với địa hình phức tạp và bị chia cắt mạnh Với độ cao trung bình trên 500 m so với mực nước biển, huyện sở hữu độ dốc lớn, tạo ra các tiểu vùng có đặc điểm riêng biệt.
- Tiểu vùng núi cao: Bao gồm các xã Lao Chải, Xín Chải, Thanh Đức,
Thanh Thủy, Thượng Sơn, Quảng Ngần, Cao Bồ, và Phương Tiến là những vùng có độ cao trung bình trên 1.000 m, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các cây đặc sản như chè Shan, quế, thảo mộc, cũng như chăn nuôi đại gia súc và phát triển nghề rừng.
- Tiểu vùng núi trung bình: Bao gồm các xã Trung Thành, Bạch Ngọc,
Ngọc Minh, Ngọc Linh, Minh Tân, Thuận Hòa và Việt Lâm là những khu vực nằm ở độ cao trung bình từ 500 - 800 m, rất thích hợp cho việc phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chè, chăn nuôi gia súc và trồng rừng.
- Tiểu vùng thung lũng và núi thấp: Bao gồm các xã Tùng Bá, Phong
Quang, Kim Linh, Phú Linh, Kim Thạch, Đạo Đức, Thị trấn Vị Xuyên và Thị trấn Việt Lâm là những khu vực có độ cao trung bình dưới 500 m, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển lúa nước, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày và chăn nuôi.
Huyện Vị Xuyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng Đông Bắc Với vị trí nằm sâu trong lục địa, huyện này ít bị ảnh hưởng bởi mưa bão vào mùa hè và gió mùa đông bắc vào mùa đông so với các khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Chế độ gió ở huyện có sự tương phản rõ rệt giữa mùa hè và mùa đông Mùa hè, từ tháng Năm đến tháng Mười, có gió mùa Đông Nam và Tây Nam, mang theo thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều Ngược lại, mùa đông kéo dài từ tháng Mười Một đến tháng Ba năm sau, với gió mùa đông bắc, thời tiết trở nên lạnh, khô và ít mưa Những đặc điểm này tạo nên sự đa dạng trong khí hậu và thời tiết của huyện.
- Nhiệt độ trung bình năm: 22,6 O C
- Nhiệt độ cao trung bình năm 27,5 O C
- Nhiệt độ thấp trung bình năm 19,6 O C
- Nhiệt độ thấp tuyệt đối 1,5 O C
- Độ ẩm không khí bình quân năm 80 %
- Số giờ nắng trung bình năm 1.500 giờ
- Số ngày có sương mù trong năm từ 33 - 34 ngày
Huyện Vị Xuyên sở hữu điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng, đặc biệt là trong mùa đông với khí hậu khô lạnh, tạo điều kiện cho việc trồng nhiều loại rau màu ngắn ngày có giá trị cao Tuy nhiên, yếu tố hạn chế lớn nhất là mưa lớn tập trung theo mùa, dẫn đến xói mòn, thoái hóa và sạt lở đất ở những khu vực có địa hình dốc và hiểm trở.
Huyện Vị Xuyên có hệ thống sông suối phong phú, chủ yếu là các suối nhỏ với độ dốc lớn Sông Lô, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, là con sông lớn nhất trong khu vực, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua Thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên, trước khi vào tỉnh Tuyên Quang Dòng sông này có nhiều thác ghềnh, với mực nước trung bình từ 0,6 - 1,5 m trong mùa khô và bề rộng lòng sông khoảng 40 mét.
Dòng sông Lô, càng về hạ lưu, chiều sâu và lượng nước tăng dần, tạo ra các bãi bồi và cát sỏi có thể khai thác làm vật liệu xây dựng Tuy nhiên, việc khai thác nguồn nước sông Lô cho sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do sự chênh lệch độ cao giữa mặt nước vào mùa khô và đất canh tác Bên cạnh đó, các hệ thống suối nhỏ với độ dốc lớn và dòng chảy mạnh mang lại tiềm năng lớn cho việc xây dựng các công trình thủy điện nhỏ, phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân trong huyện.
Nguồn nước ngầm ở huyện hiện chưa được khảo sát đầy đủ, nhưng qua các giếng nước ăn của người dân ở độ sâu trên 20 m cho thấy trữ lượng nước đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, kể cả trong mùa khô Tuy nhiên, do địa hình đồi núi dốc và nguồn nước ngầm nằm sâu, việc đầu tư khai thác trở nên phức tạp và kém hiệu quả.
Do sự ảnh hưởng của địa hình và sự chênh lệch lớn về độ cao cùng với các tiểu vùng khí hậu, hệ thực vật của huyện rất phong phú Trong khu vực huyện có nhiều kiểu rừng đa dạng.
Rừng trên núi đá vôi là loại rừng đặc trưng phát triển trên địa hình núi đá vôi khô cằn Rừng này thường có hai tầng, với tầng trên cao từ 15 đến 20 mét, chủ yếu bao gồm các loài như Nghiến và Trai Tầng cây thấp chứa các loài như Mạy Tèo và Ô rô Ngoài ra, thực vật ngoại tầng thường thấy các loài phụ sinh như Phong Lan và Dây leo.
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới phân bố ở độ cao trên 700 m, với hoạt động sinh dưỡng diễn ra liên tục quanh năm, nhưng sinh trưởng chậm do nhiệt độ giảm khi lên cao So với rừng ở vùng thấp, số loài ở đây nghèo hơn, thường có 2 tầng cây gỗ với chiều cao bình quân từ 15 - 20 m Trên đỉnh núi, cây gỗ thường thấp hơn do ảnh hưởng của gió, trong khi thực vật thân leo hiếm gặp, dương xỉ chiếm ưu thế, và thực vật sống phụ như địa y, rêu rất phong phú Rừng này có thể được phân thành 2 loại chính.
+ Rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới: Cây họ Giẻ, họ Re chiếm ưu thế
+ Rừng kín thường xanh, mưa ẩm: Cây lá rộng và cây lá kim chiếm ưu thế
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm núi thấp: Phân bố ở độ cao dưới 700 m
Rừng nhiệt đới có đặc điểm khí hậu đặc trưng, thường phát triển với 2 hoặc 3 tầng cây gỗ, thỉnh thoảng có tầng cây vượt tán Hệ thực vật phụ sinh phong phú, bao gồm nhiều dây leo thân gỗ và thân thảo lớn Tầng cây bụi chủ yếu là các loài thuộc họ cà phê, trong khi lớp thảm tươi phát triển mạnh mẽ Tuy nhiên, kiểu rừng này đang bị tác động mạnh và đứng trước nguy cơ nghèo kiệt, thoái hoá.
- Rừng thứ sinh nhân tác: Do hoạt động của con người như khai thác, đốt nương, làm rẫy, đã xuất hiện các ưu hợp sau:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng và nguyên nhân cháy rừng ở huyện Vị Xuyên
4.1.1 Thực trạng cháy rừng ở huyện Vị Xuyên
Vị Xuyên là huyện vùng thấp thuộc tỉnh Hà Giang, với tổng diện tích tự nhiên 149.524,99 ha, trong đó diện tích rừng chiếm 68,8% (102.900,5 ha), bao gồm 24.319,6 ha rừng đặc dụng Địa hình Vị Xuyên phức tạp, chủ yếu là đồi núi thấp và những thung lũng rộng lớn, kết hợp với hệ thống sông suối, ao hồ, rất phù hợp cho phát triển nông nghiệp Huyện có độ cao trung bình từ 300 – 400m so với mặt nước biển, phía Tây nổi bật với núi Tây Côn Lĩnh cao 2.419m và sông Lô dài 70km chảy qua địa phận huyện.
Vị Xuyên có quốc lộ 4C và quốc lộ 2 chạy qua
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình khoảng từ 18 – 25 o C Lượng mưa trung bình khá lớn, vào khoảng 3.000 – 4.000 mm/năm
Dân số Vị Xuyên khoảng 96.168 người, với 15 dân tộc sinh sống, trong đó người Tày chiếm tỷ lệ cao nhất (36,1%) Hoạt động sản xuất và khai thác tài nguyên rừng truyền thống như chặt phá và đốt rừng để làm nương rẫy đã dẫn đến thu hẹp diện tích rừng Nhiều loài cây có giá trị kinh tế cao như Nghiến, Pơ Mu, Đinh đang bị khai thác kiệt quệ, gây suy giảm tài nguyên rừng.
Theo báo cáo của Chi cục kiểm lâm tỉnh Hà Giang, huyện Vị Xuyên được xác định là một trong những khu vực trọng điểm về nguy cơ cháy rừng Từ năm 2012 đến 2014, toàn huyện đã xảy ra 03 vụ cháy rừng, cho thấy sự cần thiết phải tăng cường công tác phòng cháy chữa cháy rừng tại địa phương này.
Năm 2012, diện tích rừng bị cháy lên tới 49,8 ha, trong đó chủ yếu là rừng trồng với 36,9 ha Các loại rừng bị cháy chủ yếu là rừng trồng và trảng cỏ, với mục đích là rừng đặc dụng và rừng sản xuất Nguyên nhân gây cháy vẫn chưa được xác định, và thời gian xảy ra cháy rừng thường từ tháng 2 đến tháng 5, trùng với giai đoạn khô hạn, nắng nóng, cũng như thời điểm người dân làm nương.
Bảng 4.1 Biểu phỏng vấn cán bộ huyện Vị Xuyên cho câu hỏi: Nguyên nhân gây cháy rừng do đâu, đâu là nguyên nhân chính?
PV Địa chỉ/đơn vị công tác Chức vụ Câu trả lời
Vị Xuyên Hạt trưởng - Do đốt nương làm cháy lan vào rừng và cháy từ TQ sang
Vũ Đức Quỳnh Hạt kiểm lâm huyện
- Do đốt nương dẫn đến cháy lan, hoặc do dùng lửa khi chăn thả gia súc
Phạm Văn Hội Hạt kiểm lâm huyện
Kiểm lâm địa bàn xã Thuận Hòa
- Cháy do đốt nương làm cháy lan vào rừng Đàm Chí
Kiểm lâm địa bàn xã Lao Chải
- Do đốt nương, trẻ chăn trâu đốt sưởi nhưng khi về không dập lửa làm cháy lan vào rừng, cháy lan từ TQ sang
Kiểm lâm địa bàn xã Trung Thành
- Các xã thuộc địa bàn quản lý không xảy ra cháy mà chỉ có cháy lan từ xã khác
Nông Việt Hùng Phòng NN huyện Vị
Cán bộ kỹ thuật - Do đốt nương
Phó ban - Do đốt nương và cháy từ TQ sang
Rừng trồng Trảng cỏ, cây
Năm trồng SL Thiệt hại
Lao Chải Bản Phùng 1 12 12 ĐD 22/2/2012 Đốt nương
Cháy lan từ bên Trung Quốc sang
Ngọc Khuổi Giò 1 1.5 1.5 1999 SX 4/5/2012 Đốt gỗ lấy than Chưa XĐ 40
Hình 4.1: Diện tích các loại rừng bị cháy của huyện Vị Xuyên từ năm 2012- T6/2014
4.1.2 Nguyên nhân gây cháy rừng ở Vị Xuyên
Tình hình cháy rừng tại huyện Vị Xuyên trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) vẫn cần được chú trọng và không được lơ là Để nâng cao hiệu quả công tác PCCCR, cần giải quyết các vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến công tác này, đồng thời tìm hiểu và khắc phục các nguyên nhân dẫn đến cháy rừng, nhằm kiểm soát tình hình cháy một cách hiệu quả hơn.
Rừng tự nhiênRừng trồngTràng cỏ, cây bụi
Bảng 4.3 Kết quả điều tra nguyên nhân gây cháy rừng trong các cộng đồng thôn bản tại huyện Vị Xuyên Đối tượng
PV Nguyên nhân gây cháy rừng trong các cộng đồng
- Nguyên nhân chính là do người dân đốt nương rẫy làm cháy lan vào rừng và phát đốt rừng để làm nương
- Dùng lửa để khai thác gỗ, đốt củi lấy than và đốt ong lấy mật
Thị trường buôn bán lâm sản tại địa phương và khu vực từng rất phát triển nhờ vào giao thông thuận lợi, nhưng trong vài năm gần đây đã giảm đáng kể Sự suy giảm này vẫn ảnh hưởng đến công tác quản lý và bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
- Do người dân đốt nương rẫy và đốt rừng làm nương rẫy gây cháy rừng
- Dùng lửa không cẩn thận khi đi lấy củi
- Sơ ý khi dùng lửa khi đi xuyên qua rừng (đi lại qua các bản khác)
- Người dân chưa thực sự quan tâm đến công tác PCCCR vì rừng do xã quản lý
- Sử dụng lửa để săn bắt động vật
- Do người dân đốt nương làm cháy lan vào rừng
Ý thức của người dân trong việc đốt nương còn kém, thường thực hiện vào buổi chiều tối mà không có biện pháp đảm bảo an toàn Thời điểm đốt nương thường rơi vào mùa hanh khô với gió Bắc mạnh, điều này khiến cho việc đốt không đúng kỹ thuật dễ dẫn đến nguy cơ cháy lan.
PV Nguyên nhân gây cháy rừng trong các cộng đồng bén lửa vào rừng
- Nguyên nhân chính là do người dân không cẩn thận khi đốt nương làm rẫy
- Đem lửa vào rừng khi thu hái lâm sản (lấy chít, dược liệu…)
- Cháy lan từ xã khác sang
- Do cháy lan từ xã Bạch Ngọc sang
- Do đem lửa vào rừng khi thu hái lâm sản ngoài gỗ
- Nguyên nhân chính là do cháy lan từ xã khác sang
- Nguyên nhân là do đem lửa vào rừng khi thu hái lâm sản
- Dùng lửa khi đi lấy củi
Cháy rừng ở xã chủ yếu xuất phát từ việc người dân thiếu ý thức trong công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) Họ thường mang lửa vào rừng khi thu hái lâm sản và khai thác gỗ, dẫn đến những vụ cháy rừng do sự bất cẩn.
- Dùng lửa đốt ong lấy mật
- Các vụ cháy khác xảy ra là do đốt nương rẫy không đúng kỹ thuật, do đốt gỗ, củi lấy than
- Đem lửa vào rừng khi lấy củi
Nhìn chung các vụ cháy đều xảy ra do người dân khi đi rừng dùng lửa bất cẩn gây cháy
Ý thức người dân về việc sử dụng lửa còn thấp, dẫn đến tình trạng khi họ đi lấy củi hoặc chăn thả gia súc, thường đốt lửa để sưởi ấm nhưng lại quên dập tắt khi trở về Hành động này dễ dàng gây ra cháy rừng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường.
Theo số liệu từ bảng 4.2, tác giả xác định có ba nguyên nhân chính gây ra cháy rừng, bên cạnh đó còn tồn tại sáu nguyên nhân khác làm cho tình hình cháy rừng trở nên khó kiểm soát.
Người dân thường đốt nương rẫy, dẫn đến cháy lan vào rừng và phát đốt rừng để mở rộng diện tích canh tác Với địa hình và thổ nhưỡng khó khăn, vùng đồi núi thấp có ít đất canh tác nông nghiệp, nên canh tác nương rẫy trở thành hoạt động chính cung cấp lương thực và thực phẩm cho các thôn, xã trong khu vực nghiên cứu.
Bảng 4.4 Diện tích các loại hình canh tác chính tại 6 thôn,
Xã Thôn Diện tích các loại hình canh tác chính
(đơn vị: ha) Đất nương Đất ruộng Đất vườn Rừng
Trung Sơn có số liệu 179.4, 243.9, 55.8, 582.1, cho thấy quá trình canh tác nương rẫy của các hộ dân chủ yếu bị ảnh hưởng bởi ý thức kém và việc không tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, dẫn đến tình trạng cháy lan.
Hình 4.2: Đốt rừng làm nương rẫy (Thuận Hòa – tháng 9/2015)
Hoạt động khai thác gỗ, đốt củi lấy than và lấy mật ong tại huyện Vị Xuyên đang diễn ra phức tạp, theo thống kê của hạt kiểm lâm Người dân tham gia chủ yếu là các gia đình nghèo, thiếu thốn lương thực và xa chính quyền, khiến việc kiểm soát hoạt động này trở nên khó khăn Việc sử dụng lửa bất cẩn trong quá trình khai thác đã dẫn đến cháy rừng, nhưng do tâm lý e ngại, người dân không báo cáo kịp thời, dẫn đến sự chậm trễ của các lực lượng cứu hộ khi cháy lan rộng.
Hình 4.3: Khai thác gỗ rừng đốt lấy than củi (Trung Thành - tháng
Hình 4.4: Đốt ong lấy mật (Trung Thành – tháng 8/2015)
Thị trường buôn bán lâm sản tại địa phương và khu vực trước đây diễn ra sôi động nhờ giao thông thuận lợi, nhưng trong vài năm gần đây đã giảm đáng kể, ảnh hưởng đến công tác quản lý bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ và đặc dụng Sự gia tăng thu mua lâm sản từ các thương lái Trung Quốc đã gây khó khăn cho công tác quản lý Tuy nhiên, trong hai ba năm gần đây, tình trạng thu mua lâm sản của các thương lái Trung Quốc đã giảm, dẫn đến nhiều chuyển biến tích cực trong công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Hình 4.5: Khai thác trộm gỗ rừng ở Vị Xuyên (Thuận Hòa – tháng
Ngoài ra còn một số các nguyên nhân khác như:
Một số xã không báo cáo tình hình cháy rừng vì lo ngại ảnh hưởng đến thành tích, dẫn đến huyện không nắm bắt được thực trạng để triển khai các biện pháp phòng chống cháy rừng (PCCCR) hiệu quả Hệ quả là tình trạng cháy rừng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Thực trạng thực hiện mô hình PCCCR trong cộng đồng dân cư
Quá trình nghiên cứu tại các thôn bản của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang cho thấy chưa có mô hình PCCCR nào do cộng đồng tự khởi xướng hoặc được định hướng từ bên ngoài Công tác PCCCR hiện đang dựa trên phương án của tỉnh và huyện, với mỗi huyện có một ban chỉ huy PCCCR cấp huyện và Hạt kiểm lâm chịu trách nhiệm tư vấn cho lãnh đạo huyện Hàng năm, ban chỉ huy này xây dựng và lập kế hoạch PCCCR, đồng thời mỗi xã có một ban chỉ huy PCCCR cấp xã với sự tham gia của các ban ngành Tại mỗi xã cũng có đội xung kích PCCCR và mỗi thôn thành lập tổ đội PCCCR hoặc tổ chỉ huy PCCCR-BVR, với thành phần là trưởng các ban ngành.
Các ban chỉ huy cấp huyện, xã, tổ đội xung kích cấp xã và tổ đội PCCCR cấp thôn có sự khác biệt về thành phần, số lượng và cách thức hoạt động, cũng như phân công nhiệm vụ, tùy thuộc vào điều kiện thực tiễn của từng huyện.
Tại huyện Vị Xuyên, công tác quản lý và bảo vệ rừng cùng phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) được tổ chức một cách hệ thống từ cấp huyện đến cấp thôn bản Các tổ chức PCCCR tại xã bao gồm Ban chỉ huy PCCCR cấp xã, đội xung kích PCCCR, lực lượng phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu hộ, cùng với tổ đội quần chúng bảo vệ rừng và PCCCR ở thôn bản.
4.2.1 Mô hình PCCCR cấp xã
Mô hình này đang được áp dụng ở tất cả các xã trên toàn huyện
Thành phần tham gia bao gồm Phó Chủ tịch UBND phụ trách khối nông lâm làm trưởng ban, xã đội trưởng và trưởng công an xã làm phó ban, cùng với các đại diện từ các ban ngành của xã Tất cả các thành viên đều hoạt động kiêm nhiệm và không có kinh phí hỗ trợ.
- Tổ chức cho các thôn xây dựng phương án PCCCR cấp thôn
- Thành lập các tổ, đội PCCCR tại các thôn bản
- Chỉ đạo các ban nghành, cán bộ phụ trách thôn phối phối hợp tổ chức tuyên truyềnvận động nhân dân thực hiện công tác PCCCR
Cung cấp thông tin kịp thời về dự báo cháy rừng và các biện pháp phòng cháy là rất quan trọng để giúp chủ rừng và các thôn bản xây dựng các phương án ngăn chặn lửa rừng một cách hiệu quả.
- Thường xuyên kiểm tra đôn đốc các thôn bản, các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng
- Tổ chức triển khai phương án đã được phê duyệt
- Lập biên bản những thiệt hại về người và tài sản do cháy rừng gây ra
Hàng tháng, các quỹ định kỳ sẽ báo cáo về công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) cùng những thiệt hại do cháy rừng gây ra cho ban chỉ đạo PCCCR cấp huyện và hạt Kiểm Lâm huyện.
Hàng năm, sau khi kết thúc mùa khô hanh, xã tổ chức sơ kết và tổng kết công tác PCCCR, nhằm rút ra kinh nghiệm và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho những năm tiếp theo.
+ Lập kế hoạch về quản lý bảo vệ rừng, PCCCR hàng năm cho xã
+ Bố trí lịch trực cho các thành viên trong ban
Ban quản lý rừng cần phân công các thành viên phối hợp với kiểm lâm địa phương để thực hiện tuần tra rừng và phòng cháy chữa cháy rừng Đồng thời, các thành viên cũng trực tiếp tham gia vào công tác chữa cháy rừng tại xã Bên cạnh đó, việc xử lý các vụ vi phạm liên quan đến quản lý tài nguyên rừng và phòng cháy chữa cháy rừng tại địa phương cũng rất quan trọng, cùng với việc tham gia xác minh các vụ vi phạm này để đảm bảo bảo vệ tài nguyên rừng.
Khi có ban hoạt động, tình trạng cháy rừng đã giảm, nhưng hiệu quả vẫn chưa cao do các thành viên làm kiêm nhiệm, không có đủ thời gian cho việc tuần tra Khu vực rộng lớn và khó khăn khiến những địa điểm gần được tuần tra thường xuyên không xảy ra cháy, trong khi những khu vực xa xôi, khó tiếp cận rất khó phát hiện đám cháy, và nếu có phát hiện cũng không kịp chữa cháy.
Ban chủ yếu bao gồm các cán bộ phụ trách các ban ngành của xã, điều này giúp tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các ban ngành trong công tác phòng chống cháy, chữa cháy rừng (PCCCR).
Mô hình có cấp quản lý và xây dựng kế hoạch PCCCR gần gũi với cơ sở sẽ tác động mạnh mẽ đến công tác tuyên truyền và nâng cao ý thức của người dân.
+ Các thành viên của ban làm kiêm nhiệm nên không có nhiều thời gian tuần tra;
+ Ban hoạt động dựa trên trách nhiệm mà không được hỗ trợ kinh phí nên không khuyến khích được các thành viên hoạt động tích cực
+ Phương tiện, dụng cụ chữa cháy thô sơ và thiếu
+ Rừng của xã, thôn do xã và ban quản lý thôn quản lý mà không giao cho các hộ nên họ không có trách nhiệm
+ Nhận thức của người dân về PCCCR thấp nên rất khó huy động họ tham gia chữa cháy
4.2.1.2 Ban chỉ đạo phòng chống cháy rừng
Mô hình này đang được áp dụng ở những xã như: Lao Chải, Trung Thành, Minh Tân, Thanh Đức
Chủ tịch UBND xã giữ vai trò trưởng ban, với Phó chủ tịch UBND phụ trách khối nông lâm làm phó ban, cùng với xã đội trưởng và trưởng công an xã Các thành viên khác là đại diện của các ban ngành trong xã, tất cả đều hoạt động kiêm nhiệm mà không có kinh phí hỗ trợ.
+ Triển khai các kế hoạch, phương án PCCCR cho xã theo từng thời điểm thời tiết khí hậu khác nhau
Chúng tôi trực tiếp chỉ đạo và điều hành tất cả các hoạt động liên quan đến phòng chống cháy rừng (PCCCR) tại xã, đồng thời hỗ trợ các thôn bản trong việc xây dựng chương trình và kế hoạch tuần tra, kiểm tra nhằm phát hiện sớm nguy cơ cháy rừng để có biện pháp xử lý kịp thời.
+ Họp giao ban giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thôn bản về công tác lâm nghiệp, đẩy mạnh tuyên truyền tới người dân
Mặc dù việc triển khai công tác phòng chống cháy rừng tại một số thôn bản còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đã xuất hiện những tín hiệu tích cực cho thấy hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa Tuy nhiên, giống như Ban chỉ huy PCCCR cấp xã, các thành viên trong Ban chỉ đạo phòng chống cháy rừng đều làm việc kiêm nhiệm và không có kinh phí hỗ trợ Hơn nữa, Ban chỉ đạo cũng thiếu kinh phí để hỗ trợ các thôn, bản trong việc thực hiện các hoạt động phòng chống cháy rừng.
Dưới sự điều hành trực tiếp của lãnh đạo xã và các trưởng ban ngành đoàn thể, công tác triển khai được thực hiện một cách thuận lợi và nghiêm túc tại tất cả các thôn, bản.
+ Tổ chức, thực hiện kiểm tra ngay khi bắt đầu mùa cháy nên công tác phòng chống được chú trọng hơn, ít để cháy rừng phát sinh hơn
+ Không có kinh phí hỗ trợ các thôn, bản để động viên người dân cùng tham gia
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản
4.3.1 Đề xuất mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản
Thời gian qua, nhiều hoạt động quản lý và bảo vệ rừng, PCCCR đã được triển khai tại các thôn bản trên toàn quốc, mang lại những thành công đáng kể Các mô hình quản lý rừng cộng đồng dựa trên quy ước của cộng đồng đã tạo ra nghĩa vụ và quyền lợi công bằng cho các thành viên, khuyến khích sự tham gia tích cực của họ.
Do sự đa dạng của các cộng đồng thôn, bản, không thể áp dụng một mô hình BVR, PCCCR cộng đồng chung, mà cần phát triển các loại hình khác nhau phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
PCCCR đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên rừng và giảm thiểu tình trạng cháy rừng Việc nâng cao hiệu quả trong công tác BVR và PCCCR cần phát huy sức mạnh cộng đồng, coi họ là chủ thể trong việc xây dựng kế hoạch và triển khai các hoạt động Tùy thuộc vào điều kiện địa phương, tập quán canh tác và văn hóa, sẽ có những mô hình BVR, PCCCR khác nhau để đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả.
Kết quả điều tra về công tác PCCCR tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, kết hợp ý kiến từ các chuyên gia, đã dẫn đến việc đề xuất 02 mô hình PCCCR phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.
4.3.1.1 Mô hình PCCCR và BVR theo thôn bản Đây là hình thức tổ chức PCCCR chủ yếu hiện nay Hình thức tổ chức này dựa trên cơ sở vị trí địa lý và khu vực người dân sinh sống Phần lớn các thôn đều xây dựng quy ước/hương ước quản lý và PCCCR cộng đồng, tổ chức lực lượng tuần tra rừng chuyên trách hoặc phân công luân phiên các hộ gia đình trong thôn Trưởng thôn điều hành các công việc chung liên quan đến PCCCR cộng đồng Tuy Nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và công nhận quyền hưởng lợi cho cộng đồng, song thực chất cộng đồng đang tự quản lý và toàn quyền sử dụng các sản phẩm đó Cộng đồng tham gia quản lý rừng tự nhiên của nhà nước theo chế độ khoán bảo vệ Đây là loại rừng tự nhiên thường được quy hoạch là rừng phòng hộ Nhà nước khoán cho cộng đồng thôn xóm bảo vệ và sử dụng ngân sách để chi trả công PCCCR, các thành viên trong cộng đồng được hưởng lợi từ rừng
Trong số 6 thôn được nghiên cứu, có 3 thôn áp dụng hai hình thức quản lý PCCCR: rừng sản xuất do hộ gia đình quản lý và rừng phòng hộ do thôn quản lý Ba thôn còn lại chủ yếu là rừng phòng hộ, vì vậy không giao cho hộ gia đình mà do thôn trực tiếp quản lý Mặc dù mỗi thôn đều có một tổ đội PCCCR, nhưng hiệu quả quản lý vẫn chưa cao do phụ thuộc vào một nhóm người nhất định.
Nhóm nghiên cứu đã đề xuất mô hình PCCCR nhằm áp dụng cho các thôn chưa giao rừng cho hộ gia đình hoặc có diện tích rừng lớn chưa được quản lý bởi hộ gia đình Mô hình này tập trung vào việc cải thiện quản lý rừng, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và bảo vệ tài nguyên rừng hiệu quả hơn.
Hình 4.8: Mô hình PCCCR và bảo vệ rừng thôn bản
- Thành phần tham gia: Ban quản lý thôn, bản và các hộ gia đình của thôn, bản
Ban quản lý thôn sẽ phân chia các tổ PCCCR, mỗi tổ gồm 8-10 hộ gia đình Các hộ gần nhau sẽ được tổ chức thành một nhóm để thuận tiện cho hoạt động Mỗi tổ sẽ được giao một diện tích rừng cụ thể, ưu tiên rừng gần khu vực sinh sống của tổ để dễ dàng trong việc quản lý.
Mỗi tổ sẽ xây dựng kế hoạch bảo vệ rừng PCCCR cho diện tích rừng được giao, với một tổ trưởng phụ trách phân công lịch tuần tra cho các thành viên Tổ trưởng cũng giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của các tổ viên, trong khi mỗi thành viên có trách nhiệm theo dõi hoạt động của những người khác trong tổ Ngoài ra, các tổ trong thôn cũng cần giám sát lẫn nhau để đảm bảo hiệu quả trong công tác bảo vệ rừng.
+ Hàng tháng các tổ họp đánh giá kết quả hoạt động, và có một cuộc họp toàn thôn để đánh giá kết quả hoạt động của các tổ
+ Mặc dù mỗi một tổ đều có kế hoạch PCCCR riêng nhưng đều phải tuân thủ quy ước của thôn/bản về PCCCR
+ Dễ dàng tiếp cận đến khu vực rừng bảo vệ cũng như khu vực rừng có nguy cơ cháy
+ Chủ động hơn trong công tác PCCCR
+ Huy động được sự tham gia trực tiếp của người dân, các hộ gia đình trong thôn
+ Phát huy được tinh thần đoàn kết trong toàn thôn
+ Việc chia sẻ lợi ích sẽ là rất khó khăn
+ Mức kinh phí để triển khai thực hiện là không đủ dung Ban Quản lý thôn không đủ kinh phí để triển khai thực hiện
4.3.1.2 Mô hình PCCCR và BVR theo nhóm hộ
Hình thức quản lý rừng thông qua nhóm hộ đã được áp dụng thành công ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và tỉnh Lâm Đồng, mang lại hiệu quả tích cực trong công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) Nhóm hộ có thể bao gồm các hộ gia đình gần nhau trong cùng một thôn hoặc có quan hệ huyết thống, cũng như những cá nhân cùng lứa tuổi có chung mong muốn quản lý rừng Các nhóm này tự tổ chức phân công nhiệm vụ bảo vệ rừng và PCCCR, với hoạt động tuần tra rừng diễn ra hàng ngày, hàng tuần hoặc theo hình thức luân phiên Một số nhóm hộ còn hợp tác với nhau để tăng cường hiệu quả bảo vệ rừng.
Nghiên cứu tại một số tỉnh như Hòa Bình và Lâm Đồng cho thấy mô hình Quản lý Rừng Nhóm Hộ (QLRNH) có khả năng quản lý rừng hiệu quả, thậm chí tốt hơn mô hình Quản lý Rừng Tập Trung (QLRTB) trong một số trường hợp, như tại thôn Cài (Hòa Bình) và Khu C (Lâm Đồng) Lợi ích từ rừng cho mỗi hộ, cùng với sự tương đồng về sở thích, dòng tộc và địa bàn sinh sống, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giám sát và thực thi quy định quản lý rừng, đồng thời giảm thiểu chi phí quản lý cho các nhóm.
So với hình thức Quản lý rừng theo hộ gia đình (QLRTB), hình thức Quản lý rừng theo nhóm hộ (QLRNH) thường có đặc điểm là kích thước nhóm nhỏ và sự đồng nhất cao về thành phần dân tộc hoặc sở thích của các hộ thành viên Thông thường, số lượng hộ trong một nhóm quản lý rừng thường không vượt quá 20 hộ.
Mặc dù hình thức Quản lý Rừng Nông Hộ (QLRNH) chưa được công nhận pháp lý, nó vẫn tồn tại khách quan ở nhiều vùng trên cả nước Tại một số tỉnh như Hòa Bình, Thanh Hóa, Đắk Lắk và Lâm Đồng, một số mô hình QLRNH đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức thí điểm từ các cơ quan địa phương.
Tại một số địa phương, mô hình quản lý theo nhóm hộ thường được hình thành một cách không chính thức và đa dạng, phản ánh quá trình tự điều chỉnh trong quản lý dựa trên điều kiện địa phương.
Trong bối cảnh hiện nay tại Hà Giang, các thôn bản đã giao đất cho hộ gia đình nên áp dụng hình thức quản lý rừng theo nhóm hộ Việc bảo vệ rừng (BVR) và phòng chống cháy rừng (PCCCR) ở các thôn bản trong tỉnh đang gặp nhiều thách thức, do đó cần có những phương pháp quản lý hiệu quả hơn.
Kết luận
Qua nghiên cứu và đánh giá, đề tài đã đi đến một số kết luận sau:
- Về thực trạng và nguyên nhân cháy rừng và công tác PCCCR ở Vị Xuyên:
Cháy rừng tại huyện Vị Xuyên đang diễn ra với diễn biến phức tạp, mặc dù số vụ và diện tích bị cháy đã giảm Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó khăn và bất lợi cần khắc phục Rừng trồng là loại rừng có nguy cơ cháy cao nhất trong khu vực này.
Các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng cháy rừng chủ yếu xuất phát từ yếu tố chủ quan, bao gồm sự bất cẩn trong canh tác nương rẫy, trình độ dân trí thấp làm cho việc áp dụng kỹ thuật không đúng cách, và kinh tế lạc hậu khiến cuộc sống phụ thuộc vào rừng Thêm vào đó, tình trạng bệnh thành tích và sự không trung thực trong báo cáo các vụ cháy rừng cũng góp phần vào vấn đề này Bên cạnh đó, không thể bỏ qua các yếu tố khách quan như thiên tai, thời tiết và tác động từ Trung Quốc.
Công tác PCCCR hiện nay chủ yếu dựa vào các mô hình chung, với các huyện xây dựng mô hình và chuyển giao cho các xã thực hiện theo chỉ đạo từ cấp trên Tuy nhiên, hiệu quả thực tế tại từng xã vẫn chưa được đảm bảo.
Hiện nay, các xã trong huyện đang tích cực triển khai các biện pháp phòng cháy chữa cháy (PCCCR) thông qua việc thành lập các tổ đội PCCCR tại xã và thôn, xây dựng ban chỉ huy và ban chỉ đạo về PCCCR, cùng với việc thành lập các tổ xung kích hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ rừng (BVR) và PCCCR.
- Về thực trạng các mô hình PCCCR trong cộng đồng thôn bản ở Vị Xuyên: Quá trình nghiên cứu đánh giá tại các thôn bản của các xã của huyện
Tại Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, tác giả nhận thấy rằng các cộng đồng dân cư chưa phát triển mô hình PCCCR tự khởi xướng hoặc được định hướng từ bên ngoài Hầu hết các hình thức hiện tại đều do cấp trên chỉ đạo và được thực hiện củng cố hàng năm.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động các mô hình
Để nâng cao hiệu quả công tác PCCCR, cần triển khai các mô hình phù hợp như mô hình PCCCR và BVR theo thôn bản, cũng như mô hình PCCCR và BVR theo nhóm hộ Những mô hình này sẽ giúp tối ưu hóa sự phối hợp và tăng cường trách nhiệm cộng đồng trong việc bảo vệ rừng và phòng chống cháy rừng.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện mô hình PCCCR, cần xây dựng phương án PCCCR rừng với sự tham gia của cộng đồng ở cấp xã và thôn, đồng thời thiết lập quy ước PCCCR tại cấp thôn cũng với sự tham gia của người dân.
Tồn tại
Dù đã nỗ lực hết mình, nhưng do thời gian nghiên cứu hạn chế và trình độ cá nhân còn nhiều yếu kém, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và tồn tại trong quá trình thực hiện.
Phương pháp nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào tính chất đại diện và chưa khám phá toàn diện các xã trong huyện, dẫn đến việc đánh giá đề tài có thể còn thiếu sót và hạn chế.
Thực trạng công tác phòng chống cháy rừng (PCCCR) tại huyện Vị Xuyên hiện nay gặp nhiều khó khăn do yếu tố khách quan Tác giả chỉ có thể cung cấp một số thông tin hạn chế về các hoạt động PCCCR mà huyện đã triển khai, mà chưa thực sự đi sâu vào việc nghiên cứu và đánh giá một cách cụ thể.
- Các giải pháp đưa ra mới dừng lại ở mức đề xuất chưa thực sự có điều kiện để thực hiện trên thực tế
Mặc dù yếu tố dân tộc có ảnh hưởng đến quản lý và bảo vệ rừng, tác giả vẫn chưa có điều kiện để phân tích mối liên hệ này tại địa phương Mỗi dân tộc đều có phương thức quản lý và bảo vệ rừng khác nhau, liên quan đến truyền thống và luật tục của họ Nếu các luật tục có lợi được áp dụng và phát huy, sẽ góp phần tích cực vào quá trình bảo vệ rừng và phòng chống cháy rừng tại địa phương.
Khuyến nghị: 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) tại địa phương, cần thiết phải xây dựng các cơ sở lý luận vững chắc và thực hiện đánh giá rõ ràng, cụ thể về các mô hình PCCCR đang được áp dụng Việc này sẽ giúp tăng cường tính thuyết phục trong công tác PCCCR và đảm bảo các biện pháp được triển khai hiệu quả hơn.
Để nâng cao hiệu quả công tác PCCCR, cần tiếp tục đầu tư thời gian và kinh phí cho việc triển khai và áp dụng thí điểm các mô hình có sự gắn kết, tham gia tích cực của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt
1 Bộ Nông nghiệp và PTNT (2000), Cấp dự báo báo động và các biện pháp tổ chức thực hiện phòng cháy chữa cháy rừng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
2 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Văn bản pháp quy về phòng cháy chữa cháy rừng, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội
3 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2005), Sổ tay kỹ thuật phòng cháy chữa cháy rừng, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội
4 Cục kiểm lâm (2000), Văn bản pháp qui phòng cháy chữa cháy rừng, Nxb
5 Bế Minh Châu (2001), Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đến khả năng cháy của vật liệu dưới rừng thông góp phần hoàn thiện phương pháp dự báo cháy rừng tại một số vùng trọng điểm thông ở Miền Bắc Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Hà Tây
6 Bế Minh Châu (2002),Lửa rừng, NXB Nông nghiệp Hà Nội
7 Ngô Quang Đê, Lê Đăng Giảng, Phạm Ngọc Hưng (1983),Phòng cháy chữa cháy rừng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
8 Phạm Ngọc Hưng (1998), Xây dựng phương pháp dự báo cháy rừng Thông nhựa (Pinus merkusii J.) ở Quảng Ninh, Luận án PTS khoa học Nông nghiệp, Hà Nội
9 Mai Văn Nam (2002), Nghiên cứu về quản lý rừng tràm ở đồng bằng sông
Cửu Long, Luận văn thạc sỹ, Đại học Cần Thơ
10 Phạm Minh Nguyệt (1987), Lửa rừng và biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng, Tổng luận chuyên khảo khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp
11 Phan Thanh Ngọ (1996),Nghiên cứu một số biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng thông ba lá, rừng tràm ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Hà Nội
12 Vương Văn Quỳnh, Bế Minh Châu (2004),Công thức dự báo nguy cơ cháy rừng theo điều kiện thời tiết và kiểu trạng thái rừng tỉnh Hà Tây,
Sản phẩm hợp tác giữa Trường Đại học Lâm nghiệp với Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tây
13 Vương Văn Quỳnh và các cộng tác viên (2005),Nghiên cứu giải pháp phòng chống và khắc phục hậu quả cháy rừng cho vùng U Minh và Tây Nguyên, Đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước, mã số KC0824 Bộ khoa học và công nghệ
14 Vương Văn Quỳnh (2012), “Tác động của biến đổi khí hậu đến nguy cơ cháy rừng ở các vùng sinh thái Việt Nam”,Tạp chí NNPTNT, (Số 10), tr14-15
15 Nguyễn Chí Thành (2002),Đánh giá bước đầu tổn thất về rừng, than bùn sau khi cháy và tình hình tái sinh rừng, Luận văn thạc sỹ, Trường đại học Đà Lạt
16 Đặng Trung Tấn (2002),Kết quả khảo sát bước đầu về tình trạng cháy rừng tràm năm 2002 ở Cà Mau và biện pháp phục hồi, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Trường đại học Đà Lạt
17 Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Viết Phổ (1994), “Cháy rừng và biện pháp phòng chống có hiệu quả”,Tạp chí Lâm nghiệp, (Số 2), tr10-11
18 Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Viết Phổ (1994), “Cháy rừng và biện pháp phòng chống có hiệu quả”, Tạp chí Lâm nghiệp, (số 4+5), tr 8-9, tr 14-15
19 Võ Đình Tiến (1995), “Nghiên cứu phương pháp phân vùng trọng điểm cháy rừng cho tỉnh Bình Thuận”, Tạp chí Lâm Nghiệp, (Số 12), tr 6-7
20 Nguyễn Hải Tuất, Ngô Kim Khôi, Nguyễn Văn Tuấn (2001), Tin học ứng dụng trong lâm nghiệp, Hà Tây
21 Brown A.A (1979),Forest fire control and use, New york - Toronto
22 Mc Arthur A.G (1978), Luke R.H Bush fires in Ausralia,Canberra
23 Gromovist R., Juvelius M., Heikkila T, (19932),Handbook on forest fire,
24 Johnson Edward (1996), A Fire and Vegetation Dynamics, Cambridge
25 Sameer Karki (2002),Sự Tham gia và quản lý của cộng đồng trong công tác phòng cháy chữa cháy Rừng ở Đông Nam Á Dự án phòng cháy phữa cháy pừng Đông Nam Á JKPWB, Jakarta, Inđônêxia
26 Timi V Heikkila, Roy Gronqvist, Mike Jurvelius (2007), Wildland Fire