TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
1.1.1 Nghiên cứu về các cây dược liệu
Thực vật là nguồn dược liệu quan trọng, đóng vai trò lớn trong sức khỏe con người và kinh tế toàn cầu, với khoảng 85% bài thuốc truyền thống sử dụng thực vật (Constable, 1990; Srivastava et al., 1995; Vieira và Skorupa, 1993) Sự nghiên cứu và sử dụng thực vật trong chăm sóc sức khỏe đã gia tăng trong những thập niên gần đây, cùng với nhận thức về tầm quan trọng của cây dược liệu (Hoareau và DaSilva, 1999) Tuy nhiên, nhu cầu thảo dược đang tăng lên trong khi khả năng cung cấp đang có nguy cơ suy giảm toàn cầu (Bodeker, 2002).
Trên thế giới, nhiều loài thực vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do mất môi trường sống, phá rừng và khai thác bừa bãi Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia Nam và Đông Nam Á, nơi có mật độ dân số cao và tốc độ đô thị hóa nhanh Theo nghiên cứu, trong hơn một thế kỷ qua, khoảng 1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng, và 60.000 loài khác đang gặp rủi ro Các loài cây thuốc như Tylopora cindica ở Bangladesh và Rauvolfia serpentina ở Ấn Độ đã bị khai thác quá mức, dẫn đến tình trạng cạn kiệt Do đó, việc bảo tồn nguồn gen cây thuốc là vô cùng cấp bách để phục vụ cho nghiên cứu và sử dụng hiệu quả trong tương lai.
1993 tại Chieng Mai, Thái Lan, hàng loạt các công trình nghiên cứu về tính đa dạng và việc bảo tồn cây thuốc được đặt ra một cách cấp thiết
Trong y học hiện đại, thực vật được sử dụng như nguồn cung cấp thuốc chữa bệnh và các hợp chất tổng hợp mới, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất hóa chất bán tổng hợp Chất lượng và thành phần dược phẩm trong các bài thuốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn trồng trọt, mùa thu hoạch, và sự pha trộn với các loài thực vật chưa được nhận diện Các bài thuốc dược thảo thường được chiết xuất từ thực vật mọc hoang, dễ bị ảnh hưởng bởi vi khuẩn, nấm, và côn trùng, dẫn đến sự biến đổi thành phần dược liệu Việc đảm bảo chất lượng thuốc từ dược thảo tự nhiên gặp nhiều khó khăn, và việc nhận diện cũng như định lượng các thành phần hoạt hóa là thách thức lớn Thực tế cho thấy, nguồn cung thực vật cho dược phẩm truyền thống chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Một giải pháp hiệu quả cho những thách thức trong ngành công nghiệp dược là phát triển hệ thống nuôi In Vitro, nhằm đáp ứng nhu cầu về dược thảo và các chất tiết từ chúng (Nalawade và Tsay, 2004).
Thực vật làm thuốc có tính đa dạng cao và nhiều loài phát triển tốt trong tự nhiên, nhưng các nỗ lực bảo tồn và phát triển chúng vẫn còn hạn chế Cần xác định các yêu cầu sinh lý và sinh thái của từng loài trước khi trồng, nhằm tối ưu hóa khả năng sinh tồn ngoài tự nhiên Hoạt động bảo tồn tại chỗ cần được ưu tiên hơn trong chính sách sử dụng đất để bảo vệ hiệu quả các loài thực vật này Mặc dù một số nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Nepal đã trồng cây thuốc với mục đích thương mại, nhưng quy mô trồng vẫn còn nhỏ và chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa.
Sự phát triển của công nghệ sinh học đã thúc đẩy việc nhân giống các loài cây dược liệu bằng phương pháp In Vitro tại nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và Đài Loan, mang lại kết quả tích cực cho năng suất và chất lượng sản xuất dược liệu Để phục vụ sức khỏe con người và phát triển xã hội, cần thiết phải kết hợp giữa Đông và Tây y, cũng như y học hiện đại và kinh nghiệm cổ truyền Kinh nghiệm truyền thống chính là chìa khóa để khám phá các loại thuốc chống lại bệnh nan y, do đó việc khai thác và bảo tồn các loài cây thuốc là vô cùng quan trọng Nhiều quốc gia hiện đang triển khai chương trình quốc gia nhằm kết hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển cây thuốc.
1.1.2 Nghiên cứu về loài cây Xạ đen
Nghiên cứu hiện tại về loài Xạ đen chủ yếu tập trung vào công dụng làm thuốc, trong khi các khía cạnh sinh thái và kỹ thuật trồng trọt vẫn còn hạn chế Tổng hợp tài liệu liên quan đã giúp xác định một số đặc điểm quan trọng của loài Xạ đen.
Cây dây leo này có cành non màu đỏ, sau chuyển sang nâu xám và phủ lông cứng Lá dài từ 3-15 cm, rộng 0,8-5,5 cm, có cuống dài 0,5-1,5 cm, với hình dạng thuôn hoặc mũi mác, mép lá có răng cưa và mặt lá lượn sóng Hoa mọc ở đầu cành, hình chùy, có lông và cuống hoa nhỏ dài 0,8-3 mm Đài hoa hình chén, dài 1,2-1,5 mm và rộng 2,5-3 mm, với thùy hình tam giác, lông ngắn và dày Tràng hoa màu trắng, hình chuông, dài 1,5-1,8 mm và đường kính 3,5-4 mm, với thùy gần tròn Nhụy hoa dài 3,5 mm và quả hình cầu, đường kính trung bình 3,5 mm.
Xạ đen phân bố ở Trung Quốc, Việt Nam; Malaysia, Myanma và một số nước ở Nam và Đông Nam Á khác
Xạ đen là một loại cây thường mọc tự nhiên ở độ cao từ 1000 đến 1500m trong rừng nguyên sinh Loài cây này phát triển mạnh mẽ ở những khu vực có đất ẩm và giàu chất dinh dưỡng.
Xạ đen là một loại cây thuốc quý với nhiều tác dụng, đang thu hút sự chú ý của các nhà khoa học toàn cầu nhờ vào các hợp chất quý như flavonoid, saponin triterpenoid và sterol Flavonoid nổi bật với khả năng chống oxy hóa và phòng ngừa ung thư, trong khi saponin triterpenoid có tác dụng kháng khuẩn hiệu quả Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khám phá tiềm năng của xạ đen trong y học.
Nghiên cứu của Huang HC và cộng sự năm 2000 đã phát hiện nhiều hợp chất hóa học trong cây xạ đen, bao gồm Agarofuran sesquiterpene polyol ester và các dẫn xuất của dihydroagarofuran như celahin D Hai hợp chất tương tự được tìm thấy là 1 beta-axetoxy-8beta, 9alpha-dibenzoyloxy-4alpha6alpha-dihydroxy-2beta và beta-axetoxy-8beta, 9alpha-dibenzoyloxy-6alpha-hydroxy-2beta Ngoài ra, sesquiterpene pyridin alkaloid emarginatine E, một chất gây độc tế bào, cũng được phân lập từ thân cây xạ đen Các hợp chất khác như loranthol, lupenone và friedelinol cũng được chiết xuất từ thân cây này Nghiên cứu còn làm sáng tỏ cấu trúc của hợp chất 1 thông qua tia quang phổ 2D NMR.
Theo Tram Ngoc Ly, Makoto Shimoyamada , and Ryo Yamauchi, năm
2006 đã tìm ra các hợp chất chống oxy hóa được phân lập từ 50% methanol chiết xuất từ lá khô của loài Xạ đen
Các nhà khoa học Yao-Haur Kuo và Li-Ming Yang Kuo (1997) tại Viện nghiên cứu y học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu về chất chống ung thư và triterpenes có khả năng chống AIDS từ cây Xạ đen Nghiên cứu đã phát hiện bốn hợp chất triterpene mới, bao gồm celasdin-A, celasdin-C, celasdin-B với khả năng chống AIDS, và độc tế bào maytenfolone-A, tất cả đều được chiết xuất từ loài Xạ đen.
Ở Việt Nam
1.2.1 Nghiên cứu về cây dược liệu Ở nước ta, công tác điều tra dược liệu trải qua nhiều giai đoạn Ở miền Bắc, hoạt động này bắt đầu được tiến hành từ năm 1961 do Viện dược liệu chủ trì Ở miền Nam, do Phân Viện dược liệu TP Hồ Chí Minh kết hợp với các trạm dược liệu tỉnh thực hiện từ năm 1980 – 1985 ở hầu hết các tỉnh thành phía nam từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào Gần đây, là việc tái điều tra lại nguồn dược liệu trong cả nước do Viện dược liệu và Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM thực hiện phối hợp với địa phương tập trung ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên Kết quả ghi nhận được cho đến năm 2005 trong cả nước có tất cả 3.948 loài cây thuốc thuộc 1.572 chi và 307 họ thực vật vượt qua con số 3.200 loài được ghi nhận trong Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 1997) Trong số đó trên 90% là cây hoang dại và có 144 loài đã được đưa vào “Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006” và “Cẩm nang Cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam” (Nguyễn Tập, 2006) Điều này cho thấy tiềm năng cây thuốc rất phong phú mà chúng ta vẫn chưa phát hiện hết trong tự nhiên và việc sử dụng chúng trong dân gian cũng như từ những nền y học cổ truyền khác của thế giới
Theo thống kê của ngành Lâm nghiệp, diện tích rừng ở Việt Nam đã giảm từ 14,3 triệu héc ta vào năm 1943 xuống còn khoảng 9,3 triệu héc ta vào năm 1993, với diện tích rừng nguyên sinh còn lại không tới 1% tổng diện tích lãnh thổ Sự phá hủy rừng không chỉ làm mất đi các nguồn tài nguyên quý giá, bao gồm cây thuốc, mà còn dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng khác Trong bối cảnh xu hướng tìm kiếm nguồn thuốc mới từ thiên nhiên ngày càng tăng, nhiều công trình nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc Việt Nam đã được thực hiện, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Năm 1976, dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã cho ra đời cuốn “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu, và năm 1980, Đỗ Huy Bích cùng Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”.
Viện Dược liệu đã công bố cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I và II, tổng kết nghiên cứu về 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới Các tài liệu như “Danh lục cây thuốc miền Bắc Việt Nam” và “Atlas – Bản đồ cây thuốc” đã thống kê 1.114 loài ở miền Bắc (1961-1972) và 1.119 loài ở miền Nam (1977-1985) Kết quả cho thấy, gần 90% trong số hơn 2.000 loài cây thuốc hiện nay ở Việt Nam chủ yếu được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian và mọc tự nhiên, phân bố trong các quần thể rừng, trong khi khoảng 10% là cây thuốc được trồng trong vườn hộ gia đình.
Võ Văn Chi là một nhà nghiên cứu nổi bật trong lĩnh vực thực vật học tại Việt Nam, ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và phân loại các loài thực vật Đặc biệt, ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt,” giúp ghi lại và bảo tồn kiến thức về cây thuốc quý giá của đất nước.
Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở
Việt Nam bao gồm 3.200 cây (1996) Ngoài ra, cuốn“Cây cỏ có ích ở
Việt Nam” tập I, II, đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm nguyên liệu thủ công mỹ nghệ, làm lương thực, làm thuốc
Trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu khoa học đã được công bố, nổi bật là cuốn "Tài nguyên cây thuốc Việt Nam" (1993) của Viện Dược liệu, giới thiệu khoảng 300 loài cây thuốc Bên cạnh đó, Trần Đình Lý cũng đã có đóng góp quan trọng với cuốn "1900 loài cây có ích" (1995), trong đó thống kê Việt Nam có khoảng 76 loài cây cho nhựa thơm.
260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây
Từ năm 2000 đến nay, nhiều cuốn sách và tài liệu về cây thuốc đã được xuất bản để phục vụ nhu cầu tìm hiểu của người dân Việt Nam Một số tác phẩm nổi bật bao gồm “577 bài thuốc dân gian gia truyền” của Âu Anh Khâm, “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh” (2001), và “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa”.
Trong năm 2006, Tào Duy Cần đã xuất bản tác phẩm "Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược", cung cấp cái nhìn sâu sắc về các loại thảo dược Phạm Hoàng Hộ cũng đã tập hợp thông tin trong cuốn sách "Cây có vị thuốc ở Việt Nam", làm nổi bật vai trò của cây thuốc trong y học cổ truyền Ngoài ra, "Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược" của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) cũng đề cập đến mối liên hệ giữa cây thuốc và các bài thuốc, góp phần làm phong phú thêm kiến thức về dược liệu tại Việt Nam.
Có 327 loại cây thuốc phổ biến được nghiên cứu và công bố trên nhiều tạp chí chuyên ngành như Tạp chí cây thuốc quý, Tạp chí Dược liệu và Tạp chí Đông y Những công trình nghiên cứu này góp phần nâng cao hiểu biết về giá trị và ứng dụng của cây thuốc trong y học.
Trong hội thảo tổng kết 12 năm thực hiện dự án bảo tồn nguồn cây thuốc cổ truyền tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế, Viện Dược liệu đã trình bày về các loài cây thuốc và bài thuốc của cộng đồng dân tộc, đặc biệt là người Dao ở khu vực Vườn Quốc gia Sự kiện diễn ra vào ngày 10/04/2010, nhằm tôn vinh giá trị của cây thuốc truyền thống và thúc đẩy việc bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này.
Ba Vì): 579 loài và 125 bài thuốc; người Mường (Cẩm Liên, Cẩm Thủy,
Thanh Hóa): 136 loài và 102 bài thuốc; người H'mông (Kỳ Sơn, Nghệ An):
Trong nghiên cứu về dược liệu truyền thống, người Tày tại Vị Xuyên, Hà Giang đã ghi nhận 206 loài và 32 bài thuốc Tại Tràng Định, Lạng Sơn, người Tày - Nựng sử dụng 126 loài và 51 bài thuốc Bản Mường ở xã Vĩnh Lạc, Lục Yên, Yên Bái có 40 loài và 40 bài thuốc Cộng đồng người Dao đóng góp 85 bài thuốc, trong khi người H'mông có 72 bài thuốc Ngoài ra, cộng đồng người Thái và Khơ Mỳ cung cấp 16 bài thuốc, và cộng đồng Bru có 11 bài thuốc.
1.2.2 Các nghiên cứu về cây Xạ đen
Kết quả nghiên cứu tài liệu cho phép tổng kết một số đặc điểm quan trọng về loài cây này như sau:
Cây Xạ đen, còn được biết đến với các tên gọi như cây Cùm cụm răng, dây gối Ấn Độ, dây gối bắc, và quả nâu, được dân tộc Mường gọi là cây ung thư.
Xạ đen, với tên khoa học là Ehretia asperula Zoll & Mor, thuộc họ vòi voi (Boraginaceae) Trước đây, một số tài liệu đã ghi nhận tên khoa học của Xạ đen là Celastrus hindsii Benth, thuộc họ dây gối (Celastraceae).
Thân cây leo dài từ 3-10m, với phiến lá hình bầu dục - xoan ngược, kích thước lớn 6-11 x 2,5cm, có gân phụ 7 cặp và răng cưa Cuống lá dài 5-7mm, trong khi chùm hoa xuất hiện ở ngọn hoặc nách lá, dài từ 5-10cm với cuống hoa 2-4mm Hoa có mẫu 5, cánh hoa màu trắng, hoa cái có bầu 3 ô Quả nang hình trứng dài khoảng 1cm, nở thành 3 mảnh, hạt có áo hạt màu hồng Cây ra hoa từ tháng 3 đến tháng 5 và ra quả từ tháng 8 đến tháng 12 Cành cây tròn, lúc còn non có màu xám nhạt, sau chuyển sang màu nâu và có lông, cuối cùng trở thành màu xanh.
- Đặc điểm phân bố và sinh thái:
Xạ đen là loài cây phân bố chủ yếu tại các tỉnh Hà Nam, Quảng Ninh, Ninh Bình và Hòa Bình, đặc biệt tại Vườn Quốc gia Cúc Phương và Vườn Quốc gia Ba Vì Loài cây này ưa ẩm và phát triển tốt ở những vùng đất có tính chất đất rừng.
Cây Xạ đen, với vị đắng chát và tính hàn, có tác dụng hiệu quả trong việc điều trị mụn nhọt, tiêu viêm, giải độc và giảm tiết dịch trong xơ gan cổ chướng, đặc biệt là trong chữa trị ung thư Nó còn giúp thông kinh lợi niệu, điều trị kinh nguyệt không đều, bế kinh, viêm gan và bệnh lậu Ngoài ra, cây Xạ đen có khả năng ức chế và ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư, tiêu hạch, thanh nhiệt, mát gan, hành thủy, điều hòa hoạt huyết, giảm đau, an thần và tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Các nghiên cứu về Tây y:
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
Vườn quốc gia Cúc Phương, với tọa độ địa lý từ 20°14' đến 20°24' vĩ độ Bắc và từ 105°29' đến 105°44' kinh độ Đông, nằm cách Hà Nội 120 km về phía Tây Nam và cách biển Đông 60 km theo đường chim bay Vườn có tổng diện tích 22.200 ha, chiều dài khoảng 30 km và rộng từ 8 đến 10 km, trong đó 11.350 ha (51,1%) thuộc tỉnh Ninh Bình, 5.850 ha (26,4%) thuộc tỉnh Hòa Bình, và 5.000 ha (22,5%) thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Khu vực nghiên cứu loài cây Xạ đen thuộc xã Cúc Phương - Nho Quan
Cúc Phương có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình năm khoảng 24,7ºC Sự ổn định của nhiệt độ bình quân năm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển phong phú của hệ thực vật tại khu vực này.
Địa hình núi đá vôi tại Cúc Phương dẫn đến sự biến động lớn về nhiệt độ, với các đợt lạnh kéo dài 4-5 ngày và nóng chỉ 1-2 ngày Trong 15 năm quan trắc, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối ghi nhận là 0,7°C vào ngày 18/1/1967, trong khi nhiệt độ tối cao tuyệt đối đạt 39,5°C vào ngày 20/7/1979 Chế độ nhiệt tại đây bị ảnh hưởng bởi độ cao và thảm thực vật rừng Cụ thể, tại Trạm Bống, nơi có độ cao từ 300-400 m so với mặt biển và thảm thực vật rừng tươi tốt, nhiệt độ bình quân năm là 20,6°C Trong khi đó, Trạm Đang nằm ở vùng rừng thứ sinh với chất lượng rừng kém do bị khai thác, ảnh hưởng đến điều kiện khí hậu tại khu vực này.
200 - 250 m Nhiệt độ bình quân năm 21,8 0 C, cao hơn ở Bống 1,2 0 C
Lượng mưa bình quân hàng năm tại Cúc Phương dao động từ 1800mm đến 2400mm, với mức trung bình là 2138mm So với các khu vực lân cận, lượng mưa ở đây được coi là tương đối lớn.
Khu vực này trải qua 8 tháng mưa trong năm, với mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11 Tháng 9 ghi nhận lượng mưa cao nhất lên tới 410,9 mm, trong khi các tháng 12, 1, 2 và 3 có lượng mưa dưới 50 mm Mặc dù có 4 tháng mùa khô, sự khác biệt giữa mùa khô và mùa mưa là rất rõ rệt Thời tiết ít mưa và nhiệt độ thấp trong mùa đông tạo ra khí hậu tương đối khắc nghiệt tại Cúc Phương.
2.1.2.3 Độ ẩm không khí Độ ẩm tương đối không khí trung bình năm ở Cúc Phương là 90% và tương đối đều trong năm, tháng thấp nhất không dưới 88% Trong khi đó độ ẩm tuyệt đối biến thiên giống như nhiệt độ trong không khí
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu khí hậu cơ bản ở khu vực
Vườn quốc gia Cúc Phương
Lượng mưa TB (mm) Độ ẩm TB (%)
(Nguồn: Trạm khí tượng - thủy văn Cúc Phương (2012)
Nhiệt độ (00C) Lượng mưa(mm) Ðộ ẩm (%)
Bảng đồ 2.1: Biểu đồ khí hậu 3 nhân tố khu vực VQG Cúc Phương
Vườn quốc gia Cúc Phương có khí hậu đặc trưng chịu ảnh hưởng từ gió mùa Đông Bắc vào mùa đông và gió mùa Đông Nam vào mùa hè Vào mùa hè, gió Lào thường thổi mạnh, nhưng do điều kiện địa hình, gió bị thay đổi hướng và giảm tốc độ khi đi sâu vào rừng, thường chỉ còn 1 - 2 m/s.
Cúc Phương có địa hình Castơ đặc trưng, dẫn đến việc dòng chảy nước ở đây khá hạn chế Chỉ có sông Bưởi và sông Ngang ở phía Bắc là có nước quanh năm, trong khi các khe suối khác thường cạn nước theo mùa Sau những cơn mưa, nước từ các khe suối sẽ chảy ngầm vào lỗ hút và sau đó phun ra ở một số vó nước Tuy nhiên, ở những nơi nước không được hút kịp thời, sẽ xảy ra tình trạng ứ đọng, gây ngập úng tạm thời.
Vườn quốc gia Cúc Phương, tọa lạc ở phần cuối của hai dãy núi đá vôi từ Tây Bắc, có 3/4 diện tích là núi đá vôi với độ cao trung bình từ 300 - 400 m Đỉnh Mây Bạc, cao 656 m, nằm ở phía Tây Bắc và độ cao giảm dần về hai phía Tây Nam và Đông Nam Cúc Phương sở hữu địa hình Castơ nửa che phủ, khác biệt với các vùng Castơ che phủ Đồng Giao và Castơ trọc Gia Khánh, hoàn toàn nằm trong khu vực địa lý Castơ xâm thực Khu vực nghiên cứu của đề tài có địa hình núi đá vôi và núi đất với độ cao từ 100 - 300 m.
2.1.2.7 Thổ nhưỡng Đất Cúc Phương gồm hai nhóm chính:
*) Nhóm A: Đất phát triển trên đá vôi hoặc trên sản phẩm chịu ảnh hưởng nhiều của nước cacbonat Trong nhóm chính này có 4 loại chính và 10 loại phụ
Loại 1: Đất renzin mầu đen trên đá vôi
Loại 2: Đất renzin mầu vàng trên đá vôi
Loại 3: Đất renzin mầu đỏ trên đá vôi
Loại 4: Đất Macgalit - Feralit vàng
*) Nhóm B: Đất phát triển trên đá không vôi hoặc trên sản phẩm ít chịu ảnh hưởng nhiều của nước Cacbonat Trong nhóm này có 3 loại chính và loại phụ
Loại 1: Đất Feralit vàng phát triển trên sa thạch
Loại 2: Đất Feralit vàng, nâu, xám, tím phát triển trên Azgilit
Loại 3: Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên diệp thạch sét
Dựa vào kết quả phân tích có thể Nhận xét về đất Cúc Phương như sau:
- Đất tơi xốp, với độ xốp khá cao (60 - 65%)
- Đất có hàm lượng mùn lớn và thấm sâu (4 - 5%)
- Đất có khả năng hấp thụ khá
- Đất có thành phần cơ giới trung bình
Đất Cúc Phương được đánh giá là có chất lượng tốt và hiếm có, xứng đáng với giá trị của thảm thực vật rừng phong phú tại đây Nghiên cứu diễn ra trên vùng đất Feralit nâu và xám, phát triển trên nền Azgilit.
Vườn quốc gia Cúc Phương có diện tích 20.473 ha rừng, chiếm 92,2% trong tổng diện tích 22.200 ha Nơi đây sở hữu thảm thực vật rừng mưa nhiệt đới thường xanh với sự đa dạng cao về cấu trúc tổ thành loài Mặc dù chỉ chiếm 0,07% diện tích cả nước, Cúc Phương lại có tới 57,93% số họ thực vật, 36,09% số chi và 17,27% số loài trong tổng số họ, chi và loài của toàn quốc.
Cúc Phương là một khu vực đa dạng sinh học, nơi hội tụ của nhiều luồng thực vật di cư và các loài bản địa, bao gồm các họ Long não, Ngọc lan và Xoan Các loài từ phương Nam như họ Dầu và từ phương Bắc như họ Dẻ cũng góp mặt, tạo nên sự phong phú về thành phần loài Khu rừng nguyên sinh tại Cúc Phương, chủ yếu nằm trên vùng núi đá vôi và thung lũng trung tâm, mang lại một môi trường sinh thái đặc biệt Theo điều tra năm 2010, Cúc Phương có 2.103 loài thực vật thuộc 917 chi và 231 họ, trong đó có nhiều loài quý giá như 229 loài cây ăn được, 240 loài cây thuốc, và 118 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và IUCN.
Bảng 2.2: Thống kê số lượng Taxon trong các ngành thực vật bậc cao ở Cúc Phương
TT Ngành Bộ Họ Chi Loài
Theo thống kê, tại Cúc Phương, ngành hạt kín chiếm ưu thế với 87,06% tổng số loài thực vật bậc cao Trong số này, có 10 họ thực vật có số lượng loài lớn nhất.
Bảng 2.3: 10 họ có số loài lớn nhất
TT Họ Số chi Số loài Tỷ lệ % loài
Hệ động vật rừng vô cùng phong phú và đa dạng Kết quả điều tra năm
2001 đã thống kê được: Lưỡng cư có 43 loài, Cá 65 loài, Bò sát 67 loài, Chim
Vườn Quốc gia Cúc Phương, mặc dù chỉ chiếm 0,07% diện tích Việt Nam, nhưng lại sở hữu đến 307 loài động vật, trong đó có 12 loài giáp xác và 119 loài thú Đặc biệt, 30,9% số loài động vật có xương sống tại đây được ghi nhận, với 64 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam, cùng nhiều loài đặc hữu Điều này làm cho Cúc Phương trở thành một khu bảo tồn thiên nhiên độc đáo, nổi bật với tính đa dạng sinh học cao và sự hiện diện của nhiều loài quý hiếm.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập năm 1962 theo quyết định
Theo chỉ thị 72 của Thủ tướng Chính phủ, nhiệm vụ chính là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên rừng, đồng thời tổ chức các hoạt động tham quan du lịch sinh thái và nghiên cứu bảo tồn động thực vật hoang dã.
Vườn quốc gia Cúc Phương nằm trên địa phận 15 xã thuộc 4 huyện của
3 tỉnh (Nho Quan - Ninh Bình, Yên Thủy, Lạc Sơn - Hòa Bình, Thạch Thành
Thanh Hóa có tổng dân số gần 80.000 người, chủ yếu là dân tộc Mường, với mật độ bình quân 138 người/km² Trong khu vực này, bốn xã nằm trong ranh giới của Vườn bao gồm xã Cúc Phương (huyện Nho Quan - Ninh Bình), xã Thạch Lâm (huyện Thạch Thành - Thanh Hóa), xã Ân Nghĩa và Yên Nghiệp (huyện Lạc Sơn - Hòa Bình) Cộng đồng dân cư tại đây có ảnh hưởng đáng kể đến nguồn tài nguyên động thực vật, bao gồm các loài cây thuốc, điều này cần được các nhà khoa học và quản lý khu bảo tồn chú ý.
Những hạn chế của cộng đồng dân cư đối với VQG Cúc Phương:
- Trình độ dân trí thấp, nhận thức và sự hiểu biết về công tác bảo vệ môi trường thiên nhiên còn hạn chế
Diện tích đất sản xuất hạn chế và năng suất cây trồng thấp không đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng của dân số Bên cạnh đó, đời sống của người dân chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và một phần từ lâm sản.
Việc phát rừng để làm nương rẫy, chặt xẻ, săn bắt chim thú và chăn thả gia súc bừa bãi đang diễn ra và trở thành những yếu tố gây áp lực lớn, đe dọa nghiêm trọng đến tài nguyên rừng.
Vườn quốc gia Cúc Phương đang nỗ lực di dời cư dân ra khỏi khu vực ranh giới của Vườn, đồng thời tăng cường tuyên truyền và giáo dục lâm nghiệp để nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của rừng Các hình thức truyền thông như tranh ảnh, sách báo, áp phích và tranh cổ động được sử dụng để phổ biến thông tin Bên cạnh đó, Vườn còn thu hút các dự án trong nước và quốc tế nhằm giải quyết vấn đề vùng đệm, đặc biệt là chuyển đổi phương thức canh tác cũ sang nông lâm kết hợp và tận dụng gỗ củi, từ đó cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân.
Dự án đầu tư phát triển nghề nuôi ong mật tại xã Cúc Phương được tài trợ bởi Công ty Ong Việt Nam và Tổ chức hỗ trợ phát triển Đức.
Dự án nghiên cứu kinh tế xã hội và việc sử dụng tài nguyên rừng Cúc Phương được tổ chức FFI tài trợ nhằm hỗ trợ cộng đồng dân cư sống trong vùng đệm.
Dự án trồng rừng 327 và 661 hiện nay tại các xã vùng đệm đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, giúp người dân tăng thu nhập và cải thiện đời sống.
Hàng năm, Vườn Quốc gia Cúc Phương thu hút từ 70.000 đến 80.000 lượt khách tham quan, tạo nguồn thu đáng kể và góp phần quan trọng vào công tác tuyên truyền giáo dục về bảo vệ môi trường Sự quan tâm của du khách không chỉ giúp bảo tồn tài nguyên thiên nhiên của Cúc Phương mà còn nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
Tóm lại, rừng Quốc Gia Cúc Phương nằm trên 3 tỉnh là Ninh Bình,
Hòa Bình và Thanh Hóa có nhiều cư dân sống ven rừng với diện tích đất canh tác hạn chế Người dân thường xuyên vào rừng để khai thác dược liệu, trong đó có cây Xạ đen Qua điều tra, hiện nay loài cây này chỉ còn tồn tại trong khu vực bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia Cúc Phương.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc bảo tồn và phát triển loài Xạ đen ở Vườn quốc gia Cúc Phương
- Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học làm cơ sở cho việc nhận biết loài;
- Xác định được thực trạng loài Xạ đen ở Vườn quốc gia Cúc Phương về các mặt: diện tích, phân bố, trữ lượng, tình hình khai thác, sử dụng;
- Đề xuất được một số giải pháp bảo tồn, phát triển loài Xạ đen ở Vườn quốc gia Cúc Phương.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là loài Xạ đen tại VQG Cúc Phương, tỉnh Ninh Bình
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia Cúc Phương, đồng thời mở rộng ra khu vực xung quanh để khảo sát tình hình khai thác và sử dụng loài cây này.
Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung vào các nội dung chính sau:
- Nghiên cứu đặc điểm hình thái, vật hậu của loài Xạ đen
- Nghiên cứu đặc điểm sinh thái loài Xạ đen
- Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lập địa tới sinh trưởng của loài
Xạ đen tại VQG Cúc Phương
- Nghiên cứu tình hình khai thác sử dụng Xạ đen tại VQG Cúc Phương
- Phân tích đánh giá cơ hội, thách thức, tiềm năng phát triển của loài Xạ đen
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển loài Xạ đen trong khu vực.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp luận trong nghiên cứu
Xạ đen là loài cây nhỏ, mọc tự nhiên trong rừng già, với số lượng hiện nay còn hạn chế Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là khảo sát các cá thể trong những ô tiêu chuẩn tạm thời trên các tuyến điều tra Mục tiêu là xác định đặc điểm hình thái và sinh trưởng của cây trong các điều kiện sinh thái khác nhau, nhằm tìm ra những yếu tố thích hợp cho sự phát triển của Xạ đen.
3.4.2 Phương pháp thu thập số liệu
3.4.2.1 Phương pháp kế thừa số liệu
Kế thừa các tài liệu từ Vườn Quốc Gia có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như:
- Bản đồ địa hình, bản đồ hiện trạng rừng
- Điều kiện cơ bản của khu vực nghiên cứu (Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn, địa hình, đất và điều kiện dân sinh kinh tế)
- Diện tích tự nhiên từng khu vực nghiên cứu có Xạ đen phân bố
3.4.2.2 Phương pháp điều tra ngoại nghiệp
Thời gian thực hiện điều tra và thu thập dữ liệu diễn ra từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 1 năm 2014 Qua việc tham khảo tài liệu và phỏng vấn cán bộ cùng người dân địa phương, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sự phân bố của loài Xạ đen trong khu vực nghiên cứu thông qua các phiếu điều tra.
Dựa vào bản đồ hiện trạng và địa hình, ranh giới khu vực điều tra được xác định Tiến hành điều tra sơ bộ ngoài thực địa để nhận diện dạng địa hình, độ cao và phạm vi phân bố cụ thể của loài Khu vực phân bố của loài được xác định cho từng vùng, làm cơ sở cho việc lập ô tiêu chuẩn đại diện 20 ô tiêu chuẩn có diện tích mỗi ô 1000 m² (20x50m) được thiết lập phù hợp với địa hình vùng núi đá vôi hiểm trở.
Nghiên cứu đặc điểm thân cây nhằm đánh giá hình dạng và kích thước của cây Đề tài tiến hành đo đếm và mô tả tất cả các cây trong ÔTC dựa trên các chỉ tiêu như chiều cao, dạng thân, số nhánh và màu sắc của thân cây.
+ Điều tra đặc điểm lá Xạ đen
+ Điều tra đặc đặc điểm quả của loài Xạ đen
+ Mô tả và đo kích thước quả của loài Xạ đen
+ Nghiên cứu đặc điểm vật hậu
Do thời gian hạn chế, việc theo dõi đặc điểm vật hậu của loài Xạ đen gặp khó khăn Khóa luận áp dụng phương pháp quan sát thực địa kết hợp với việc thu thập thông tin qua phỏng vấn các cán bộ kỹ thuật tại phòng khoa học và người dân có kinh nghiệm trồng cây.
Xạ đen về các nội dung sau:
- Mùa sinh trưởng trong năm
- Hiện tượng ra chồi, hiện tượng rụng lá, ra lá, ra nụ, hoa nở, hoa tàn, quả non, quả chín, quả già…
+ Nghiên cứu về phẩm chất loài Xạ đen
Để đánh giá tình hình sinh trưởng của cây Xạ đen, một loài cây dây leo nhỏ, chúng tôi tập trung vào các chỉ tiêu như đường kính, chiều cao, hình dạng và chất lượng cây Do kích thước nhỏ của cây, việc phân cấp chất lượng cây là phương pháp chính được áp dụng trong nghiên cứu này.
- Cây tốt: là những cây thân thẳng, sinh trưởng tốt không sâu bệnh
- Cây trung bình: là những cây hình dáng bình thường, sinh trưởng trung bình
- Cây xấu: là những cây cong queo, sinh trưởng kém hoặc sâu bệnh
+ Nghiên cứu điều kiện lập địa thích hợp của loài Xạ đen
Tại các khu vực phân bố Xạ đen, việc điều tra được thực hiện theo tuyến, với mỗi tuyến thiết lập từ 1 đến 3 ô tiêu chuẩn, mỗi ô có diện tích 1000 m2.
- Xác định hướng phơi: Sử dụng địa bàn cầm tay;
- Xác định độ cao: Độ cao được xác định bằng máy GPS;
- Đo độ dốc: Tại mỗi khu vực Xạ đen phân bố bằng địa bàn cầm tay để đo độ dốc;
Cường độ ánh sáng dưới tán rừng được xác định thông qua việc sử dụng máy đo ánh sáng, trong khi nhiệt độ và độ ẩm không khí được đo bằng nhiệt kế và ẩm kế tương ứng.
+ Điều tra đặc điểm cấu trúc rừng nơi loài Xạ đen phân bố
Nghiên cứu điều tra sơ bộ đất dưới tán rừng nhằm tìm hiểu đặc điểm đất nơi Xạ đen mọc đã được thực hiện, kế thừa các kết quả từ trung tâm thí nghiệm thực hành của Trường Đại học Lâm nghiệp.
Nghiên cứu tiểu khí hậu dưới tán rừng nơi loài Xạ đen mọc được thực hiện bằng cách đo nhiệt độ và độ ẩm Đề tài sử dụng nhiệt kế và độ kế để thu thập dữ liệu đồng thời tại các vị trí và độ cao khác nhau Để đảm bảo độ chính xác, nhiều ẩm kế đã được sử dụng cùng lúc tại các điểm nghiên cứu.
Thời gian điều tra là tháng 10 năm 2013 đến tháng 1 năm 2014 Thời gian đo nhiệt độ và độ ẩm không khí là vào lúc 13h trưa
- Điều tra tầng cây cao
Trong mỗi ô tiêu chuẩn được lập xác định tên loài, tiến hành đo đường kính, chiều cao của toàn bộ các cây có D1.3 ≥ 6 cm
+ D1.3 được đo bằng thước kẹp kính theo 2 chiều Đông Tây - Nam Bắc + Dt đường kính tán được đo bằng thước dây theo 2 chiều Đông Tây - Nam Bắc
+ Chiều cao H, chiều cao dưới cành Hdc được đo bằng thước đo cao Blumleiss
- Điều tra lớp cây tái sinh nơi Xạ đen phân bố
Trên mỗi ô tiêu chuẩn, cần lập 05 ô dạng bản thứ cấp với 4 ô ở các góc và 1 ô ở giữa, mỗi ô có diện tích 25m² Trong mỗi ô, cần xác định tên loài, đo chiều cao, phân cấp chất lượng và xác định nguồn gốc của cây tái sinh.
Điều tra cây bụi và thảm tươi nơi Xạ đen phân bố là cần thiết để đánh giá sự tái sinh của hệ sinh thái Các ô điều tra đã được thiết lập nhằm xác định tên loài, chiều cao và độ che phủ của cây bụi và thảm tươi.
Các mẫu vật được chụp ảnh Các thông tin như: Đặc điểm hình thái, đặc điểm sinh thái, đặc điểm sinh học, nơi sống được ghi chép lại
- Xác định độ tàn che Để xác định độ tàn che, dùng ống 3cm để đo ở 100 điểm được lựa chọn một cách hệ thống trong ôtc và cho điểm 0, 0.5, 1
Để xác định nhiệt độ và độ ẩm, cần sử dụng nhiệt kế và độ kế, thực hiện đo cùng một thời điểm tại các vị trí và độ cao khác nhau Việc này đòi hỏi sự tham gia của nhiều người và sử dụng nhiều thiết bị đo để đảm bảo kết quả chính xác.
- Thực trạng khai thác sử dụng loài Xạ đen
Để xác định tần suất và lượng tiêu thụ cây Xạ đen trong một năm, chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn các hộ dân trong xã cũng như những hộ ở các khu vực lân cận xung quanh rừng Phương pháp này giúp thu thập thông tin chính xác về thói quen tiêu thụ của người dân đối với cây Xạ đen.
+ Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia, nhất là việc xác định tên khoa học của loài, phạm vi phân bố của loài
+ Phương pháp thu mẫu và xử lý mẫu vật: Mẫu tiêu bản thu hái về được ép và sấy khô
+ Công thức tính xu thế biến động
Trong đó: X2 lượng khai thác: X1 = lượng sinh trưởng
Xbđ > 0: Trữ lượng suy giảm
Xbđ = 0: Trữ lượng không suy giảm
Khi Xbđ < 0, trữ lượng cây thuốc gia tăng Cần tiến hành phân tích và đánh giá các số liệu liên quan đến loài cây thuốc, bao gồm dạng sống, môi trường sống, tần số sử dụng các bộ phận cũng như số lượng các bộ phận được sử dụng làm thuốc.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm hình thái, vật hậu loài Xạ đen
4.1.1 Đặc điểm hình thái lá cây Xạ đen
Hình 4.1: Lá cây Xạ đen
Lá cây Xạ đen không rụng theo mùa; phiến lá bầu dục - xoan ngược, to:
6 - 11 x 2,5cm, dai, gân phụ 7 cặp, bìa có răng thấp Cuống 5 - 7mm
4.1.2 Đặc điểm hình thái thân cây Xạ đen
Hình 4.2: Thân cây Xạ đen
Cây thường dựa vào các cây lớn để leo lên cao, với thân cây dạng dây dài hàng chục mét Cành cây tròn, lúc còn non có màu xám nhạt, sau đó chuyển sang màu nâu và có lông, cuối cùng trở thành màu xanh Thân cây già có vỏ màu trắng, sạm nâu với các lớp nứt dọc, tạo hình vạch dọc đặc trưng Khi cắt ngang, lõi cây rỗng.
Bảng 4.1: Một số chỉ tiêu kích thước thân cây Xạ đen Ôtc Độ cao
Min Max TB Min Max TB
Theo số liệu điều tra, chiều dài thân cây Xạ đen tại Cúc Phương dao động từ 1 đến 11 m, với chiều dài trung bình là 6.01 m Cây trưởng thành có vỏ trắng, sạm nâu và xuất hiện các lớp nứt dọc, trong khi đường kính gốc của cây dao động từ 2.5 cm.
10 cm, đường kính gốc trung bình là 5.33 cm Số cây trong ôtc là 12.5 cây
4.1.3 Đặc điểm hoa của loài Xạ đen
Hình 4.3: Hoa cây Xạ đen
Do thời gian nghiên cứu không trùng với thời điểm ra hoa của Xạ Đen, hoa và nụ của loài này chưa được thu thập và phân tích đặc điểm giải phẫu Tuy nhiên, tài liệu từ phòng khoa học VQG Cúc Phương cho thấy hoa mọc thành cụm hoặc ở nách lá, với tràng hoa màu trắng, dính liền ở phía dưới và có 5 cánh ở nửa trên, dài từ 5 đến 10cm Cuống hoa có chiều dài từ 2 đến 4mm, hoa mẫu 5, cánh hoa màu trắng, hoa cái có bầu 3 ô, đài và vòi nhị dài 3mm và rộng 2mm.
4.1.4 Đặc điểm của quả cây Xạ đen
Hình 4.4: Quả cây Xạ đen
Xạ đen là loại cây có quả nang hình trứng, dài khoảng 1cm, nứt thành 3 mảnh Hạt của cây có áo hạt màu hồng Thời gian ra hoa từ tháng 3 đến tháng 5, và quả chín từ tháng 8 đến tháng 12, với quả non có màu xanh và khi chín chuyển sang màu đỏ.
4.1.5 Đặc điểm rễ loài Xạ đen
Hình 4.5: Rễ cây Xạ đen
Cây Xạ đen có đặc điểm rễ bàng màu đen, không có rễ cọc và rễ lan rộng xung quanh gốc với chiều dài trung bình khoảng 3,55m Rễ của cây ăn sâu từ 10,5cm đến 22,5cm so với mặt đất Tại các khu vực khác nhau, Xạ đen mọc ở núi đá có chiều dài rễ ngắn hơn, với độ ăn sâu lớn nhất chỉ đạt 12cm, trong khi ở khu vực đồi đất, rễ có thể ăn sâu đến 22,5cm.
4.1.6 Đặc điểm vật hậu của loài Xạ đen
Nghiên cứu đặc điểm loài Xạ đen yêu cầu thời gian dài theo dõi từ khi cây ra nụ đến khi có quả chín, nhưng do thời gian hạn chế, kết quả chủ yếu dựa vào tài liệu nghiên cứu trước và phỏng vấn Kết quả cho thấy Xạ đen tái sinh tốt bằng chồi và hạt, chịu bóng nhẹ, sinh trưởng tốt trong điều kiện độ tàn che thấp và độ ẩm cao tại Vườn Quốc Gia Cúc Phương, đặc biệt phát triển tốt hơn ở đồi đất so với núi đá.
Ảnh hưởng của điều kiện lập địa tới phẩm chất loài Xạ đen
4.2.1 Phẩm chất loài Xạ đen trong khu vực nghiên cứu
Các loài cây có tốc độ sinh trưởng và phẩm chất khác nhau, và ngay cả trong cùng một loại cây, sự phát triển và chất lượng cũng có thể thay đổi tùy thuộc vào điều kiện môi trường.
Kết quả đánh giá chất lượng sinh trưởng cây Xạ đen ở các ÔTC tại các khu vực khác nhau được tổng hợp ở bảng 4.2 như sau:
Bảng 4.2: Phẩm chất của loài Xạ đen ở các ÔTC tại các khu vực khác nhau
Stt Địa điểm Số ôtc
Số cây trên các ÔTC
Số cây % Số cây % Số cây %
Phẩm chất của Xạ đen tại các ÔTC trong Vườn quốc gia Cúc Phương cho thấy cây tốt A chiếm 31.93%, cây trung bình 45.9%, và cây xấu 22.16% Khu vực Đang có phẩm chất tốt nhất với tỉ lệ cây loại A đạt 41.86%, trong khi đó Xóm Mền lại có tỉ lệ cây xấu cao nhất, lên đến 29.1%.
4.2.2 Đánh giá phẩm chất của loài Xạ đen theo độ cao
Kết quả đánh giá chất lượng sinh trưởng cây Xạ đen ở các ÔTC tại các độ cao khác nhau được tổng hợp ở bảng 4.3 như sau:
Bảng 4.3: Phẩm chất của loài Xạ đen ở các ÔTC tại các độ cao khác nhau
Số cây trên các ÔTC
Phẩm chất Tốt (A) Trung bình (B) Xấu (C)
Số cây % Số cây % Số cây %
Phẩm chất của loài Xạ đen tại Vườn quốc gia Cúc Phương cho thấy sự phân bố khác nhau ở các độ cao Ở độ cao 100 m, tỷ lệ cây phẩm chất tốt (A) đạt 38.3%, trong khi số cây trung bình chiếm 44.68% và phẩm chất xấu chiếm 17.02% Ngược lại, ở độ cao 300 m, tỷ lệ cây phẩm chất tốt chỉ đạt 30.56%, trong khi tỷ lệ cây xấu tăng lên 25% Kết quả này cho thấy loài Xạ đen tập trung chủ yếu ở độ cao 100 m.
Đặc điểm phân bố của loài Xạ đen
Mỗi loài cây có khả năng thích nghi và phát triển tốt trong một biên độ sinh thái nhất định, điều này giải thích tại sao một số cây chỉ phát triển mạnh ở vùng này mà lại kém phát triển ở vùng khác.
Nghiên cứu đặc điểm phân bố của loài Xạ đen nhằm xác định các yếu tố như khí hậu, đất đai, địa hình và sinh vật, từ đó tìm ra điều kiện tối ưu cho sự sinh trưởng của cây Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng cho công tác bảo tồn và phát triển loài Xạ đen trong tương lai.
Kết quả điều tra phân bố số cây Xạ đen ở các ÔTC theo các hướng khác nhau tại Vườn quốc gia Cúc Phương được tổng hợp ở bảng sau:
Bảng 4.4: Phân bố Xạ đen ở các ÔTC theo các hướng khác nhau
STT Hướng Số ÔTC Do(tb) cm H(tb) m Số cây trên các ÔTC
Vườn quốc gia Cúc Phương là nơi phân bố chủ yếu của loài Xạ đen, với 115 cây ở hướng Đông Nam, có đường kính gốc trung bình 4,9 cm và chiều cao 6,2 m Hướng Tây Nam có 75 cây, hướng Đông có 40 cây, trong khi hướng Tây có số lượng ít nhất với 21 cây, có đường kính gốc trung bình 5,9 cm và chiều cao trung bình 5,1 m.
Như vậy, có thể nói cây Xạ đen phân bố nhiều ở hướng Đông Nam và Tây Nam
4.3.1 Phân bố loài Xạ đen theo địa hình
Kết quả điều tra mật độ loài Xạ Đen ở các khu vực được tổng hợp ở bảng sau:
Bảng 4.5: Kết quả điều tra mật độ Xạ Đen ở các khu vực khác nhau tại Vườn Quốc Gia Cúc Phương
Diện tích phân bố (ha )
Số cây trong các ÔTC
Số cây trong khu vực
Nhận xét: Cây Xạ đen chủ yếu phân bố ở 6 khu vực trong vùng lõi và lân cận cụ thể như sau:
- Khu vực Xóm Mền: Số cây ghi nhận là 144 cây, mật độ là 60 cây/ha;
- Khu vực Bống: Số cây ghi nhận là 1770 cây, mật độ là 167 cây/ha;
- Khu vực Đang: Số cây ghi nhận là 643 cây, mật độ là 143 cây/ha;
- Khu vực Thung Cau: Số cây ghi nhận là 264 cây, mật độ là 120 cây/ha;
- Khu vực Đồng Cơn: Số cây ghi nhận là 459 cây, mật độ là 90 cây/ha;
Khu vực Quèn Voi ghi nhận 328 cây Xạ đen với mật độ 80 cây/ha Tổng cộng, VQG Cúc Phương đã có 3608 cây Xạ đen được ghi nhận, với mật độ trung bình 125 cây/ha Loài Xạ đen chủ yếu tập trung tại khu vực Bống với 1770 cây và khu vực Đang với 643 cây, trong khi phân bố ít hơn ở các khu vực khác như Xóm Mền (144 cây), Thung Cau (264 cây), Đồng Cơn (459 cây) và Quèn Voi (328 cây).
4.3.2 Phân bố loài Xạ Đen theo độ cao
Bảng 4.6: Phân bố Xạ đen ở các ÔTC theo các độ cao khác nhau
Số cây trong các ÔTC
Số ÔTC Do(tb) (cm) H(tb) (m)
Loài Xạ đen phân bố ở độ cao từ 100 đến 300 m Tại độ cao 100 m, có 141 cây trên các ô tiêu chí (ÔTC), trong khi ở độ cao 200 m, số cây giảm xuống còn 74, và ở độ cao 300 m, chỉ còn 36 cây Đường kính gốc trung bình ở độ cao 100 m và 300 m đều là 4.99 cm Chiều dài thân cây trung bình ở độ cao 100 m là 6.17 m, trong khi ở độ cao 300 m là 5.86 m.
Theo số liệu điều tra tại các ôtc, số lượng cây phân bố chủ yếu ở độ cao 100m, trong khi đường kính gốc trung bình và chiều cao cây có xu hướng giảm dần.
Xạ đen phân bố chủ yếu ở nơi có tầng đất dày
4.3.3 Phân bố cây Xạ đen theo điều kiện thổ nhưỡng Đất là nhân tố sinh thái quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của quần xã thực vật rừng, nó vừa là giá thể vừa là nơi cung cấp nước, dinh dưỡng, muối khoáng cho cây Cây và đất có mối quan hệ tương hỗ thông qua sự trao đổi chất, trải qua thời gian cùng với sự sinh trưởng và phát triển của thực vật thì đất cũng biến đổi theo, tuy nhiên mỗi loài cây chỉ thích ứng với một hoặc một số loại đất nhất định và cũng chỉ trên loại đất đó chúng mới sinh trưởng tốt được Nó ảnh hưởng đến sự phân bố của thực vật, bởi vậy việc nghiên cứu những tính chất của đất nơi loài Xạ đen mọc làm cơ sở để chọn đất trồng loài Xạ đen Do cây Xạ đen là cây bụi có hệ rễ ăn nông ở tầng A0,
A1 và tầng B nên chúng tôi đã điều tra 3 tầng này, kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4.7: Kết quả điều tra sơ bộ đất dưới tán rừng ÔTC Tầng đất Độ dày (cm)
Tỷ lệ đá lẫn (%) Đá lộ đầu (%)
Kết quả điều tra sơ bộ về tầng đất A0, A1 và tầng B nơi loài Xạ đen mọc cho thấy độ dày trung bình của tầng A0 là 2,4 - 3,8 cm, tầng A1 là 11,2 cm, và tầng B là 28 cm Cây Xạ đen phát triển tốt ở những khu vực có lớp thảm mục dày, ẩm ướt, xốp, với thành phần cơ giới thịt trung bình và tỷ lệ đá lẫn thấp Ngoài ra, nhiều nơi còn có đá lộ đầu, tảng đá lớn và địa hình dốc.
Bảng 4.8: Một số tính chất đất nơi phân bố của Xạ đen
STT Mẫu pH (H20) pH (kcl)
Các chất dễ tiêu (mg/100g đất)
Đất nơi Xạ đen mọc có thành phần và hàm lượng chất tương đối đồng nhất, với độ pH hơi chua: pH(H2O) đạt 5,8 và pH(KCl) là 4,4 Hàm lượng mùn trong đất dao động từ 2,5% đến 4,2%, trung bình là 3,4% Ngoài ra, hàm lượng các chất dễ tiêu cũng đáng chú ý, cụ thể là NH4+ với 6,2 mg/100g đất, K2O đạt 18,5 mg/100g đất và P2O5 là 4,3 mg/100g đất.
4.3.4 Phân bố cây Xạ đen theo điều kiện tiểu khí hậu
Bảng 4.9: Một số nhân tố tiểu khí hậu khu vực loài Xạ đen
Phân bố ở Vườn quốc gia Cúc Phương
STT Độ cao (m) Nhiệt Độ (0 0 C) Độ ẩm (%)
Khi độ cao tăng lên, tiểu khí hậu cũng thay đổi, với nhiệt độ giảm dần theo quy luật Cụ thể, ở chân núi 100 m, nhiệt độ trung bình năm là 22,6°C; ở 200 m, nhiệt độ giảm xuống còn 20,4°C; và ở 300 m, nhiệt độ tiếp tục giảm còn 18,5°C Độ ẩm trung bình cũng giảm theo độ cao, với 90,2% ở 100 m, 85,6% ở 200 m, và 80,4% ở 300 m Qua điều tra, cho thấy Xạ đen mọc ở cả ba độ cao này.
3 độ cao khác nhau như vậy có thể nói Xạ đen thích nghi rất tốt với hoàn cảnh khí hậu ở Cúc Phương
Mỗi loài thực vật có mức nhiệt độ và độ ẩm ưa thích riêng, ảnh hưởng đến sự phân bố và quá trình sinh lý sinh hóa của chúng Nhiệt độ là yếu tố quan trọng tác động đến thực vật cả bên trong và bên ngoài, quyết định sự thích nghi của chúng trong các điều kiện môi trường khác nhau.
Kết quả điều tra tiểu khí hậu dưới tán rừng nơi Xạ đen mọc được tổng hợp ở bảng sau:
Bảng 4.10: Tổng hợp các nhân tố tiểu khí hậu dưới tán rừng nơi loài Xạ đen mọc Đai cao
Nhiệt Độ không khí dưới tán ( 0 C)
Nhiệt độ không khí ngoài chỗ trống ( 0 C) Độ ẩm không khí dưới tán (%) Độ ẩm không khí ngoài chỗ trống (%)
Nhận xét: Độ tàn che của rừng nơi Xạ đen có độ tàn che trung bình là 0,7 đã tạo nên tiểu khí hậu dưới tán rừng như sau
Kết quả điều tra cho thấy nhiệt độ trung bình dưới tán rừng trong 20 ÔTC là 17,4°C, thấp hơn 1,4°C so với nhiệt độ ngoài chỗ trống Tuy nhiên, trong khoảng thời gian điều tra từ tháng 10 đến tháng 1, do thời tiết nắng yếu, sự chênh lệch nhiệt độ giữa rừng và ngoài chỗ trống là không đáng kể.
+ Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí dưới tán rừng nơi xuất hiện Xạ đen là 87,2%, cao hơn độ ẩm ngoài chỗ trống là 1,8%.
Phân bố Xạ đen theo tổ thành rừng
4.4.1 Kết quả điều tra tổ thành tầng cây cao nơi Xạ đen mọc
Theo điều tra thực tế, loài Xạ đen chủ yếu phân bố tại Vườn quốc gia Cúc Phương, đặc biệt trên núi đá ở độ cao từ 100m trở lên và trong khu vực có độ tàn che lớn hơn 0,7 Thông tin chi tiết về tổ thành tầng cây cao nơi Xạ đen mọc được trình bày trong bảng 4.11.
Theo bảng 4.11, tổ thành tầng cây cao nơi loài Xạ đen phát triển bao gồm các cây như Ôrô, Nhò vàng, Nhãn rừng, Cà lồ, Vàng anh và Sâng Thành phần loài trong tổ thành tầng cây cao có sự khác biệt ở các khu vực khác nhau, trong đó tại vùng núi đá, tỷ lệ cây Ôrô và Nhò vàng chiếm ưu thế.
Bảng 4.11: Tổ thành tầng cây cao nơi Xạ đen mọc Loài cây Độ cao
2Nr+0,14Bc+0,14Th+0,40Đa+0,20Ma+0,20Ch+0,20Sdb
*3,06Nv+1,02BĐ+0,61S+0,61Sx+0,61G+0,61Hb 0,61Ch+0,61Go+0,61Q+0,40Đk+0,40Th+0,40Va+0,40 Mo+0,40Hol+0,40T+0,40Ch
300 * 4,4Or+1,6Nv+0,69Nha+0,5Bđ+0,41Đe+0,27Tr
Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số loại cây và động vật quý hiếm, bao gồm Nhò vàng (Nv), Ôrô (Or), Bã đậu (Bđ), Bời lời (BL), Nanh chuột (Na), Sơn xã (So), Sảng nhung (Sa), Vàng anh (Va), Cánh kiến (Ck), Tu hú (Th), Sâng (S), Ngái (Ng), Đa bắp bè (Đa), Trương hôi (Tr), Phân mã (Pm), Dẻ (đ), Quế (Q), Bứa (B), Táu nước (Tn), Sung mật (Su), Đẻn 3 lá (Đe), Mò lông (Mo), Chò nhai (Ch), Nhãn rừng (Nr), và Bồ câu (Bc) Những loài này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái mà còn có giá trị kinh tế và văn hóa đáng kể.
4.4.2 Kết quả điều tra tổ thành cây tái sinh nơi Xạ đen mọc
Kết quả điều tra tổ thành cây tái sinh trong các ÔTC nơi loài Xạ đen mọc được tổng hợp ở bảng 4.12:
Bảng 4.12: Tổ thành cây tái sinh nơi Xạ đen mọc Loài cây Độ cao (m) Công thức tổ thành
Khu vực nghiên cứu có sự phong phú về các loài cây tái sinh, đặc biệt là những loài cây chiếm ưu thế tại khu vực núi đá nơi Xạ đen phân bố, như Nhò vàng, Ôrô, Sâng và Nhãn rừng.
4.4.3 Tầng cây bụi, thảm tươi nơi Xạ đen mọc
Kết quả điều tra tầng cây bụi thảm tươi được tổng hợp ở bảng 4.13
Bảng 4.13: Tầng cây bụi, thảm tươi nơi Xạ đen mọc
(m) Loài cây chủ yếu Độ che phủ (%)
Lấu, Vạn niên thanh, Ớt rừng, Trầu rừng, Chuối rừng, Trọng đũa, Lá rong, Ráy, Sắn dây rừng, Địa lan, Sa nhân
Lấu, Vạn niên thanh, Ớt rừng, Trầu rừng, Chuối rừng, Trọng đũa, Lá rong, ráy, Sắn dây rừng, Địa lan, Bông báng 19,6
300 Trọng đũa, Lá rong, ráy, Sắn dây rừng, Địa lan,Trầu rừng… 20,4
Tầng cây bụi nơi Xạ đen phát triển có sự đa dạng loài tương đối đồng nhất, chủ yếu bao gồm các loài như Lấu, Vạn niên thanh, Ớt rừng, Trầu rừng, Chuối rừng và Trọng đũa Độ che phủ của tầng cây bụi này khá thấp, dao động từ 18,2% đến 20,4%.
Thực trạng khai thác sử dụng loài Xạ đen
4.5.1 Thực trạng khai thác loài Xạ đen
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến nhu cầu sử dụng tài nguyên cây cỏ làm thuốc gia tăng, gây áp lực lên nguồn tài nguyên thiên nhiên Việc khai thác quá mức không chỉ làm giảm số lượng cây thuốc trong rừng tự nhiên mà còn đe dọa nguồn gen quý giá của địa phương Thống kê về tần suất và lượng tiêu thụ, cũng như tỷ lệ phần trăm người trong cộng đồng sử dụng cây Xạ đen đã được tổng hợp trong bảng 4.14.
Bảng 4.14: Tần số tiêu thụ Xạ đen
Tần số tiêu thụ (lần/năm)
Tần số thu hái (lần/năm)
Cây Xạ đen được tiêu thụ với tần suất cao, trung bình 30 lần mỗi năm, với tổng số 2,055 người sử dụng, chiếm 2,57% dân số trong khu vực Đối tượng chính tiêu thụ Xạ đen bao gồm du khách và người dân địa phương trong khu vực nghiên cứu.
Qua phỏng vấn, hoạt động thu hái chủ yếu là phụ nữ có độ tuổi trên
Nam giới tham gia vận chuyển Xạ đen từ rừng về nhà thường diễn ra trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều Dụng cụ thu hái chủ yếu là dao, và để nhận biết loài cây này, người thu hái dựa vào màu sắc, mùi vị, hình dạng vỏ cây và lá Cách thu hái Xạ đen bao gồm việc chặt thân cây và hái lá.
Tần suất thu hái Xạ đen của mỗi người là 30 lần mỗi năm, với 23 người thường xuyên tham gia vào hoạt động này, chiếm tỷ lệ 0,23% Điều này cho thấy số lượng người khai thác Xạ đen là khá lớn.
4.5.2 Thực trạng chế biến và sử dụng Xạ đen
Tình trạng buôn bán và chế biến cây Xạ đen hiện đang gia tăng, thể hiện qua số lượng người tham gia vào hoạt động này Kết quả điều tra chi tiết được trình bày trong bảng 4.15.
Bảng 4.15: Số người tham gia mua bán và chế biến loài cây Xạ đen
Số người tham gia mua bán Tỉ lệ % Số người tham gia chế biến Tỉ lệ %
Tại xã Cúc Phương và các xã lân cận, có 33 người tham gia buôn bán cây Xạ đen, chiếm 0,41% dân số Điều này cho thấy số lượng người tham gia vào hoạt động mua bán cây Xạ đen là khá đáng kể.
Có tới 22 người tham gia chế biến cây Xạ đen chiếm 0,27%, như vậy số người chế biến cây Xạ đen là tương đối nhiều.
Giá cả, thu nhập cây Xạ đen
Kết quả điều tra giá bán cây Xạ đen cho thấy giá thành và thu nhập của người dân từ việc buôn bán loài cây này, được trình bày chi tiết trong bảng 4.16.
Bảng 4.16: Thu nhập của người dân
STT Loài cây Lượng thu hái
Giá cả (nghìn đồng/kg)
Thu nhập (nghìn đồng/năm)
Theo điều tra phỏng vấn tại xã Cúc Phương và các xã lân cận, mỗi người có thể thu hái khoảng 100kg cây Xạ đen mỗi năm, mang lại thu nhập khoảng 18.000.000 đồng từ việc buôn bán loại cây này.
Nhận thức, ứng xử của người dân địa phương trước sự suy giảm tài nguyên loài cây Xạ đen
Qua phỏng vấn 30 người dân thường vào rừng, hầu hết cho biết họ chưa có ý thức bảo vệ rừng, mặc dù nhận thức được tình trạng mất rừng ngày càng nghiêm trọng và diện tích rừng thu hẹp Mất rừng và suy thoái rừng dẫn đến sa mạc hoá và làm nghèo đất, gây ra nhiều tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế, xã hội và môi trường, như lũ lụt, hạn hán, khó khăn trong cung ứng lâm sản, và giảm diện tích đất trồng Tình trạng này làm gia tăng nghèo đói và thất nghiệp, đặc biệt là khi suy thoái rừng phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng Dù biết việc khai thác rừng là không hợp pháp, nhưng do nghèo đói và khó khăn kinh tế, người dân vẫn phải vào rừng để kiếm sống.
Xạ đen và các lâm sản khác từ rừng cần được bảo vệ thông qua việc tuyên truyền nâng cao ý thức cho người dân Để tạo ra việc làm ổn định, cần khuyến khích người dân trồng xạ đen tại vườn nhà với quy mô lớn, từ đó mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng.
Thực trạng gây trồng loài Xạ đen
Hiện nay, qua điều tra và phỏng vấn, việc trồng cây Xạ đen chủ yếu diễn ra ở hộ gia đình với quy mô nhỏ, phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân Ngoài ra, trên các nương rẫy và trang trại, số lượng người trồng cây này rất hạn chế; chỉ có 1-2 trang trại trong toàn xã tham gia trồng, nhưng quy mô vẫn còn nhỏ, chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho việc chữa bệnh của người dân.
Xạ đen thường được trồng từ cây con gieo ươm hoặc cành giâm, và khi cây con đạt 6 tháng tuổi với chiều cao 15 - 20 cm, chúng sẽ được đưa vào rừng trồng Thời điểm trồng lý tưởng là vào mùa xuân hoặc mùa thu, trong điều kiện thời tiết mát mẻ và đất rừng còn ẩm Trong giai đoạn đầu, cần che sáng với độ che từ 0,8 - 0,85, sau 2 - 3 tháng cần làm cỏ và mở dần độ che sáng cho đến khi cây trưởng thành với độ che từ 0,6 - 0,7 Là cây leo thân gỗ, Xạ đen có thể leo lên cây cao hoặc giàn Sau 3 năm, cây trưởng thành có thể được khai thác cành và lá bằng dao hoặc kéo Do có giá trị cao, việc khuyến khích người dân nhân rộng và trồng Xạ đen với quy mô lớn không chỉ đáp ứng nhu cầu thuốc mà còn bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này, đồng thời hạn chế việc khai thác tự nhiên.
Dự báo xu thế biến động loài cây Xạ đen
Xu thế biến động là một chỉ số dự báo sự phát triển tương lai của loài cây Xạ đen Để đánh giá xu thế này, nghiên cứu đã thu thập dữ liệu về lượng khai thác trong một năm thông qua việc phỏng vấn người dân.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, số liệu sinh trưởng của loài cây được thu thập từ phòng khoa học Vườn quốc gia Cúc Phương, và kết quả này được trình bày trong bảng 4.17.
Bảng 4.17: Xu thế biến động loài cây Xạ đen
STT Loài cây Số cây
Trữ lượng hiện tại (X) (kg)
Lượng tăng trưởng bình quân/năm (X 1 ) (kg)
Lượng khai thác/năm (X 2 ) (kg)
Tỉ lệ khai thác/năm
Lượng khai thác hàng năm của cây Xạ đen đạt 2300 kg, chiếm 10,7% tổng trữ lượng hiện có Điều này cho thấy mức độ khai thác này là tương đối cao so với nguồn tài nguyên Xạ đen tại Vườn quốc gia Cúc Phương.
Như vậy khối lượng khai thác Xạ đen lớn hơn khối lượng tăng trưởng hàng năm
Trữ lượng khai thác cây Xạ đen tại Vườn quốc gia Cúc Phương đang suy giảm và cạn kiệt dần, cho thấy xu thế biến động của loài này là đáng lo ngại.
Theo điều tra từ các cán bộ phòng khoa học Vườn quốc gia Cúc Phương và ý kiến của người dân, cây Xạ đen từng rất phổ biến trong rừng tự nhiên nhưng hiện nay đang trở nên hiếm hoi do khai thác quá mức Sự nhận thức hạn chế của một số người dân cùng với diện tích đất canh tác nông nghiệp không đủ để đảm bảo cuộc sống đã dẫn đến tình trạng khai thác lâm sản để sinh tồn Nếu tình hình khai thác và buôn bán tiếp tục diễn ra như hiện tại, cây Xạ đen có nguy cơ tuyệt chủng trong rừng Cúc Phương Do đó, cần có các biện pháp bảo vệ loài cây này trước tình trạng suy giảm nghiêm trọng.
Phân tích đánh giá cơ hội, thách thức, tiềm năng phát triển của loài Xạ đen
- Xạ đen là loài cây dễ nhân giống và trồng
- Nhu cầu sử dụng loài cây Xạ đen cao
- Loài cây này có thể trồng dưới tán rừng, xen canh …
- Có giá trị cao về mặt y học cũng như về mặt kinh tế
- Điều kiện lập địa vẫn còn tốt, thích hợp cho loài phát triển
- Cây có thể trồng với mật độ dày Điểm yếu
- Xạ đen tái sinh bằng hạt kém
- Nhận thức của người dân còn hạn chế
- Gây trồng kinh doanh còn ít
- Đất canh tác bị thu hẹp
- Số lượng trong tự nhiên còn ít
- Các hộ gia đình chưa trồng nhiều để kinh doanh
- Sản lượng thấp, chu kỳ kinh doanh dài
- Người dân vào rừng khai thác còn thường xuyên
- Trữ lượng loài cây này còn rất ít
Xạ đen là một loại cây có tiềm năng y học to lớn, được biết đến với khả năng chữa trị nhiều bệnh nguy hiểm như ung thư, tiêu viêm và hỗ trợ mát gan.
- Có giá trị kinh tế cao
- Gây trồng quy mô lớn để kinh doanh
Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển loài Xạ đen
Xạ đen là loài cây phân bố chủ yếu ở khu vực vùng lõi và lân cận của Vườn quốc gia Cúc Phương, thường sống ở những vùng núi đá với độ cao khác nhau Tất cả các bộ phận của cây đều có giá trị sử dụng trong y học Tuy nhiên, hiện nay, sự khai thác quá mức của con người đang đe dọa sự tồn tại của cây xạ đen.
Xạ đen ngày càng cạn kiệt Vườn quốc gia Cúc Phương là khu vực có loài
Xạ đen phân bố chủ yếu ở các vùng núi đất và núi đá với độ cao từ 100 - 300 m, đặc biệt là ở khu vực chân núi, nơi có mật độ Xạ đen cao hơn Mặc dù nằm trong khu vực bảo vệ của Vườn quốc gia Cúc Phương, loài cây này đang đối mặt với nguy cơ xâm hại do nhu cầu nguyên liệu ngày càng tăng Do đó, Vườn quốc gia Cúc Phương cần triển khai các biện pháp bảo tồn và phát triển Xạ đen một cách thiết thực Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho loài cây này, cần có những chính sách phù hợp và được thực hiện đồng bộ, kịp thời tại địa phương.
4.11.1 Bảo tồn nguyên vị (In - situ)
Bảo tồn nguyên vị là việc bảo vệ các loài cây trong môi trường sinh thái tự nhiên của chúng, đặc biệt là các loài cây bản địa có khu phân bố tập trung và khả năng tái sinh tự nhiên tốt Những khu bảo tồn này sẽ được khoanh vùng và bảo vệ, tạo thành các khu rừng giống quan trọng để đáp ứng nhu cầu trồng trọt trong tương lai.
Quy hoạch, xác định vùng phân bố tự nhiên
Bản đồ xác định vùng bảo tồn loài cây Xạ đen
Sau khi điều tra hiện trạng phân bố loài cây Xạ đen tại Vườn quốc gia Cúc Phương, các khu vực cần được bảo tồn nguyên vẹn đã được xác định Cụ thể, những khu vực quan trọng bao gồm Đang, Quèn Voi, Đồng Cơn, Bống, Xóm Nghèo và Thung Cau, tất cả đều nằm trong vùng lõi của VQG Cúc Phương.
- Quản lý và bảo vệ rừng tự nhiên nơi có Xạ đen phân bố
Quản lý và bảo vệ rừng tự nhiên nơi có sự phân bố của cây Xạ đen là rất quan trọng để bảo tồn nguồn gen quý giá, đồng thời tạo ra môi trường sống lý tưởng nhằm nâng cao chất lượng cây Xạ đen.
Để bảo vệ hiệu quả cây Xạ đen, cần chú trọng vào việc bảo vệ các khu vực có địa hình núi đá vôi, nơi cây này phát triển mạnh mẽ nhất Các loại cây đồng sinh như Ôrô, Nhò vàng, Nhãn rừng, Cà lồ, Vàng anh và Sâng cũng cần được bảo vệ Hướng phơi lý tưởng cho cây Xạ đen là Đông Nam và Tây Nam, thường nằm ở độ cao khoảng 100 mét.
Rừng Cúc Phương hiện đang được bảo vệ nghiêm ngặt, tuy nhiên tình trạng khai thác trộm vẫn diễn ra Do đó, cần tăng cường các biện pháp bảo vệ và tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân về việc bảo vệ rừng.
Để bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên cây Xạ đen, việc quản lý hiệu quả các hoạt động khai thác là rất cần thiết Cần xác định ngưỡng khai thác hợp lý để đảm bảo rằng loài cây này không bị suy giảm trong tương lai.
Hiện nay số người khai thác và tần số khai thác cây Xạ đen là tương đối nhiều, vì thế cần phải có biện pháp ngăn chặn
Hướng dẫn xây dựng "Hương ước" về bảo vệ và khai thác Xạ đen (chia sẻ lợi ích và trách nhiệm trong cộng đồng)
4.11.2 Bảo tồn chuyển vị (Ex - situ) Đây là giải pháp mang tính định hướng, là hình thức bảo vệ cây Xạ đen ở ngoài khu vực phân bố tự nhiên Cây Xạ đen được trồng ở các khu vực có điều kiện sinh thái phù hợp để phát triển rộng hơn Tuy nhiên để bảo tồn chuyển vị thành công, cần có những nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm sinh thái, kỹ thuật trồng chăm sóc nhằm nâng cao năng suất và chất lượng
- Cần cấm việc thu hái, khai thác trái phép cây Xạ đen với mục đích thương mại
Chính quyền địa phương cần triển khai các chính sách nhằm phát triển kinh tế, từ đó nâng cao đời sống của người dân Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục cộng đồng về ý thức bảo vệ rừng và cây Xạ đen.
- Cần trồng loài cây Xạ đen ở dưới tán rừng, nơi có độ ẩm cao > 60%
- Trồng Xạ đen ở những khu vực có địa hình đất lẫn đá hoặc đất nâu, vàng, cho leo lên cây khác hoặc làm giàn leo
Cây Xạ đen có thể được nhân giống từ hạt, cây con hoặc cành hom, và rất dễ sống cũng như thích nghi với nhiều điều kiện môi trường khác nhau Loài cây này có thể trồng ở đất trống, dưới tán rừng hoặc bên cạnh bờ rào.
KẾT LUẬN - TỒN TẠI - KIẾN NGHỊ
Từ những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đề tài đưa ra một số kết luận sau:
Xạ đen phân bố chủ yếu tại Vườn quốc gia Cúc Phương, tập trung ở 6 khu vực: Xóm Mền, Bống, Đang, Thung Cau, Đồng Cơn, và Quèn Voi Mật độ trung bình của loài này trong khu vực đạt khoảng 125 cây/ha.
- Loài Xạ đen phân bố chủ yếu ở độ cao 100m;
Hiện nay, cây Xạ đen đang được khai thác mạnh mẽ với tần suất tiêu thụ lên tới 30 lần mỗi năm Số lượng người sử dụng Xạ đen trong xã và các vùng lân cận đạt 2.055 người, chiếm 2,57% tổng dân số.
Mỗi năm, tần số thu hái cây Xạ đen của một người vào rừng đạt 30 lần, với 23 người thường xuyên tham gia, chiếm tỉ lệ 0,23% Tuy nhiên, loài Xạ đen đang dần cạn kiệt, và trữ lượng của nó giảm khoảng 2300 kg mỗi năm.
Các khu vực cần được bảo tồn nguyên vẹn bao gồm Đang, Quèn Voi, Đồng Cơn, Bống và Xóm Nghèo, tất cả đều thuộc vùng bảo vệ nghiêm ngặt của VQG Cúc Phương Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho loài Xạ Đen, mức độ khai thác cần được giữ ở mức an toàn dưới 2,1 tấn mỗi năm Bên cạnh đó, việc trồng bổ sung Xạ Đen dưới tán rừng cũng là một giải pháp khả thi.