1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) đánh giá thực trạng rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hóa học và đề cuất giải pháp phục hồi rừng tại vườn quốc gia chư mom rei tỉnh kon tum​

93 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 93
Dung lượng 641,28 KB

Cấu trúc

  • Chương 1. (5)
  • Chương 2. (27)
    • 2.1. Lược sử về cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ tiến hành tại Miền nam Việt nam và trên địa bàn tỉnh Kon tum (5)
      • 2.1.1. Mục đích và quá trình triển khai cuộc chiến tranh hóa học (5)
      • 2.1.2. Các loại chất hoá học dùng trong chiến tranh hoá học tại miền nam Việt nam và Kon tum (6)
      • 2.1.3. Số lượng hoá chất, phương tiện phun rải, cách thức và thời điểm sử dụng các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây (8)
        • 2.1.3.1. Số lượng hóa chất: (8)
        • 2.1.3.2. Phương tiện phun rải: (8)
        • 2.1.3.3. Cách thức sử dụng hóa chất (9)
        • 2.1.3.4. Thời điểm phun rải hóa chất (10)
    • 2.2. Lược sử nghiên cứu về cấu trúc rừng, tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới và các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghèo (11)
      • 2.2.1. Trên thế giới (11)
        • 2.2.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên nhiệt đới (11)
        • 2.2.1.3. Nghiên cứu về các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghÌo (14)
      • 2.2.2. ở Việt nam (14)
        • 2.2.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng (16)
        • 2.2.2.3. Nghiên cứu các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghÌo.” (18)
    • 2.3. Lược sử nghiên cứu về rừng tự nhiên bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và giải pháp phục hồi rừng (20)
    • 3.1. Mục tiêu (27)
    • 3.2. Giới hạn đề tài nghiên cứu (27)
    • 3.3. Nội dung nghiên cứu (27)
      • 3.3.1. Xác định vị trí, diện tích, hiện trạng các loại rừng sau khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và lựa chọn vùng điều tra đối chứng trên bản đồ và thực địa (27)
      • 3.3.2. Điều tra đánh giá một số đặc điểm về cấu trúc và tình hình tái sinh của rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và rừng ở vùng đối chứng (27)
        • 3.3.2.1. Điều tra đánh giá cấu trúc rừng (27)
        • 3.3.2.2. Điều tra đánh giá tình hình tái sinh tự nhiên (28)
      • 3.3.3. Đánh giá hiện trạng rừng sau khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học có so sánh với rừng trên vùng điều tra đối chứng và nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành các trạng thái rừng (28)
      • 3.3.4. Đánh giá ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh hoá học đối với tài nguyên rừng (28)
      • 3.3.5. Đề xuất các giải pháp phục hồi rừng trên một số vùng trọng điểm bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học (28)
    • 3.4. Phương pháp nghiên cứu (28)
      • 3.4.1. Quan ®iÓm (28)
      • 3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu (30)
        • 3.4.2.1. Phương pháp kế thừa (30)
        • 3.4.2.2. Phương pháp thu thập số liệu ngoài nghiệp (30)
      • 3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu nội nghiệp (33)
        • 3.4.3.1 Xác định vùng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học, vùng trọng điểm và vùng điều tra đối chứng (33)
  • Chương 4. (83)
    • 4.1. Giới thiệu khái quát về VQG Chư Mom Rei (38)
    • 4.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội vùng nghiên cứu (40)
      • 4.2.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu (40)
        • 4.2.1.2. Địa hình (40)
        • 4.2.1.3. KhÝ hËu, thuû v¨n (41)
        • 4.2.1.4. Đá mẹ, thổ nhưỡng (42)
        • 4.2.1.5. Thảm thực vật rừng (42)
      • 4.2.2. Tình hình kinh tế- xã hội (45)
      • 4.2.3. Đánh giá tổng quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hôị , tài nguyên rừng ở khu vực nghiên cứu (46)
    • 4.3. Kết quả nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng của các trạng thái rừng trong vùng bị ảnh hưởng bởi CTHH và trên vùng đối chứng (48)
      • 4.3.1. CÊu tróc rõng (48)
        • 4.3.1.1. Cấu trúc tổ thành tầng cây cao (49)
        • 4.3.1.2. Cấu trúc mật độ tầng cây gỗ (54)
        • 4.3.1.3. Cấu trúc tầng thứ (57)
        • 4.3.1.4. Cấu trúc độ tàn che tầng cây gỗ (58)
        • 4.3.1.5. TÇng c©y bôi c©y bụi , thảm tươi (59)
      • 4.3.2. Đặc điểm tái sinh rừng của các trạng thái rừng (60)
        • 4.3.2.1. Tổ thành cây tái sinh (61)
        • 4.3.2.2. Mật độ cây tái sinh (65)
        • 4.3.2.4. Hình thái phân bố cây tái sinh trên mặt đất (69)
    • 4.4. Đánh giá thực trạng rừng trên vùng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và nguyên nhân (71)
    • 4.5. Đánh giá ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh hoá học đối với tài nguyên rõng (78)
    • 4.6. Đề xuất các giải pháp phục hồi rừng (79)
      • 4.6.1. Đề xuất vùng trọng điểm để phục hồi rừng (79)
      • 4.6.2. Đề xuất nhóm giải pháp phục hồi rừng trên vùng trọng điểm (80)
        • 4.6.2.1. Nhóm giải pháp về khoa học và công nghệ (80)
        • 4.6.2.2. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách (81)
        • 4.6.2.3 Nhóm giải pháp về tổ chức quản lý sản xuất (81)
  • Chương 5 (0)
    • 5.1. KÕt luËn: 1. Hiện trạng rừng trên vùng bị ảnh hưởng bởi CTHH (0)
      • 5.1.2. Đánh giá khả năng tự phục hồi của rừng sau khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hóa học (85)
      • 5.1.3. Đề xuất những giải pháp phục hồi rừng ở một số vùng trọng điểm tại Vườn Quốc gia Chư Mom Rei (85)
    • 5.2. Tồn tại (86)
  • Tài liệu tham khảo (87)

Nội dung

2.1.1.Mục đích và quá trình triển khai cuộc chiến tranh hóa học:

Vào ngày 11/5/1961, Tổng thống Mỹ Kennedy đã họp Hội đồng An ninh quốc gia và quyết định sử dụng chất diệt cỏ để ngăn chặn Cộng sản xâm lược Nam Việt Nam, chính thức phê duyệt kế hoạch vào ngày 30/11/1961 với mật danh “Chiến dịch Ranch Hand” Cuộc chiến tranh hóa học bắt đầu từ tháng 8/1961, với tỉnh Kon Tum được chọn làm địa bàn thí điểm đầu tiên Dưới sự hỗ trợ của chính quyền Ngô Đình Diệm, ngày 10/8/1961, Mỹ đã rải chất độc hóa học Dinoxol dọc theo quốc lộ 14 để phá hủy mùa màng Ngày hôm sau, chất Trinoxol được rải lên khu vực đường Kon Tum, nhanh chóng tiêu diệt cây trồng Cuộc thử nghiệm này được đánh giá là thành công và hai loại chất độc này tiếp tục được sử dụng ở nhiều tỉnh miền Nam Việt Nam.

Cuộc chiến tranh hoá học của quân đội Mỹ nhằm mục đích làm trụi lá và tiêu diệt cây rừng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan sát và phát hiện các vị trí trú quân cũng như tiếp vận của quân đội ta Ngoài ra, việc phá hoại mùa màng cũng nhằm cắt đứt nguồn lương thực của quân du kích, buộc người dân địa phương phải rời bỏ nơi ở và di chuyển đến các khu vực mà chính quyền Sài Gòn có thể kiểm soát, đồng thời khai quang các vị trí để xây dựng căn cứ quân sự.

Thời gian diễn ra cuộc chiến tranh hoá học bắt đầu từ năm 1961 đến năm 1975 và được chia thành 3 giai đoạn:

- Từ năm 1961 đến năm 1964 Thử nghiệm và tiến hành phun rải chất độc hoá học trên quy mô nhỏ.

-Từ năm 1965 đến năm 1971 Giai đoạn cao điểm và kết thúc việc phun rải chất độc hoá học của Không lực Hoa kỳ.

- Từ năm 1972 đến năm 1975 Quân đội của chính quyền Sài gòn tiếp tục kéo dài phun rải chất độc hoá học do Mỹ để lại.

2.1.2 Các loại chất hoá học dùng trong chiến tranh hoá học tại miền nam Việt nam và Kon tum.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ, trong thời gian chiến tranh, quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều hóa chất cho các mục đích phá hoại tại miền Nam Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Kon Tum Hóa chất này có thể được phân chia thành bốn nhóm chính.

- Các chất diệt cỏ, làm rụng lá cây( thường được gọi tên chung là chất khai quang) và các tạp chất của nó.

- Các chất diệt côn trùng và diệt muỗi: Bao gồm chủ yếu là chất Malathion( Phốt pho hữu cơ) và DDT.

Các hóa chất khác, bao gồm các vũ khí gây cháy như bom, pháo, bom Napan và phốt pho trắng, có thể gây ra cháy rừng nghiêm trọng Những hóa chất này thường được sử dụng sau khi đã rải chất diệt cỏ, dẫn đến việc làm rụng lá cây và tạo điều kiện cho việc cháy lan rộng trên diện tích lớn.

Trong bốn nhóm hóa chất, chất diệt cỏ và làm rụng lá cây, cùng với các tạp chất của chúng, được sử dụng chủ yếu để phun rải trên thảm thực vật rừng và là loại hóa chất phổ biến nhất trong cuộc chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam Những hóa chất này được biết đến qua các mật danh dễ nhận diện như chất trắng, chất xanh, chất tím, chất hồng, chất xanh lục, chất da cam và chất da cam II, trong đó chất da cam là nguy hiểm nhất do chứa Dioxin - một hợp chất độc hại và bền vững Chất da cam thường được phun kết hợp với chất trắng và chất xanh, và bài viết này sẽ tóm tắt một số đặc điểm và tính năng của ba loại hóa chất này, được gọi chung là chất độc hóa học.

Chất trắng là dung dịch màu nâu đen, hòa tan trong nước nhưng không hòa tan trong dầu, dầu Diesel hoặc dung môi hữu cơ Nó là hỗn hợp theo tỷ lệ 1:4 của hai chất Pichloram và 2,4 D (2,4 Dichloro phenoxy acetic acid) Khi được sử dụng không pha loãng với liều lượng 28,06 lít/ha, chất này thẩm thấu vào tế bào lá và gây rụng lá cây hiệu quả.

Chất xanh là dung dịch màu vàng nhạt, hòa tan trong nước nhưng không hòa tan trong dung môi hữu cơ, dầu và dầu Diesel, bao gồm acid cacodylic và natricocadylat Khi được rải với liều lượng 28,06 lít/ha, chất xanh tác động lên cây bằng cách rút nước từ lá, gây héo khô Nó thấm qua màng tế bào, hòa tan trong nước và có thể di chuyển xuống rễ, dẫn đến cái chết của cây Vì vậy, chất xanh thường được sử dụng để khai thác rừng già, gây hại cho các loại cây trồng, đặc biệt là lúa.

Chất da cam là một dung dịch màu hồng nâu, hòa tan trong dầu, dầu Diesel và các dung môi hữu cơ, nhưng không hòa tan trong nước Nó bao gồm hỗn hợp 50:50 của hai chất n-butyl este 2,4 D và 2,4,5 T (2,4,5 Trichloro phenoxy acetic acid) Khi được rải không pha loãng với lượng trung bình 28,06 lít/ha, chất này chứa khoảng 107 mg Dioxin Chất da cam II tương tự như chất da cam, nhưng có sự thay thế n-butyl este 2,4,5 T bằng iso-octyl este 2,4,5.

Chất da cam có khả năng thẩm thấu qua màng tế bào, gây ra hiện tượng rụng lá ở cây cối Do đó, nó thường được sử dụng để khai thác rừng già và phá hoại mùa màng.

2.1.3 Số lượng hoá chất, phương tiện phun rải, cách thức và thời điểm sử dụng các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây

Theo thống kê của Lê Cao Đài, tổng lượng hóa chất diệt cỏ và làm rụng lá mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam lên tới 72.354.000 lít, bao gồm 44.338.000 lít chất da cam, 19.835.000 lít chất trắng và 8.182.000 lít chất xanh, trên diện tích 1,7 triệu ha Tuy nhiên, Viện điều tra quy hoạch rừng cho biết tổng diện tích rừng bị rải thực tế là 3,1 triệu ha, trong đó 2,95 triệu ha là rừng nội địa và 150.000 ha là rừng ngập mặn Tại tỉnh Kon Tum, hai huyện Sa Thầy và Ngọc Hồi là vùng bị ảnh hưởng nặng nề, với 374 phi vụ rải tổng cộng 954.459 gallons (khoảng 4,3 triệu lít) hóa chất trên diện tích 129.000 ha Bản đồ các băng phun rải cho thấy VQG Chư Mom Rei hiện nay nằm trong vùng bị ảnh hưởng nặng nề, thuộc lưu vực sông.

Sê san, trên một dải kéo dài từ khu vực ngã ba biên giới Việt nam- Lào- Campuchia, xuống tận phía nam, qua phía đông bắc huyện Sa thầy

2.1.3.2 Phương tiện phun rải: Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà quân đội

Mỹ áp dụng nhiều loại phương tiện phun rải khác nhau, bao gồm máy bay có cánh cố định, máy bay trực thăng, máy phun trên xe cơ giới và máy phun cầm tay Đối với những khu vực rộng lớn, yêu cầu tối thiểu chiều dài 5000m và chiều rộng phù hợp.

Để mở hành lang hoặc khai quang rừng rậm, phương tiện chính được sử dụng là máy bay có cánh cố định C-123, trang bị hệ thống rải Honglass MC1 Hệ thống này có khả năng rải 240 gallons mỗi phút khi máy bay bay ở độ cao 50 mét và tốc độ 210 km/h, tạo ra vệt rộng khoảng 80 mét Thời gian rải mất khoảng 3,5 đến 4 phút, đủ để rải 950 gallons hóa chất trên vệt dài khoảng 14 km.

Quân đội Mỹ nghiên cứu cách sử dụng hóa chất một cách cẩn thận và chính xác, bao gồm lựa chọn loại hóa chất, nồng độ, số lần và thời điểm phun rải, nhằm đạt hiệu quả hủy hoại cao nhất Đối với rừng gỗ và tre nứa, chất da cam và chất trắng chủ yếu làm rụng lá, trong khi chất xanh cần thiết để tiêu diệt hoàn toàn cây Nếu chỉ phun rải một lần, khoảng 10% cây rừng sẽ chết; phun hai lần, tỷ lệ này tăng lên 25%; và phun từ ba lần trở lên có thể đạt 70%-90% số cây chết Do đó, để tối ưu hóa mức độ phá hủy, quân đội Mỹ thường sử dụng kết hợp cả ba loại hóa chất và thực hiện từ hai đến ba lần phun rải.

Lần đầu tiên, chất da cam và chất trắng được sử dụng để làm rụng lá cây Tiếp theo, lần thứ hai, hai loại chất này tiếp tục được áp dụng để làm rụng trụi lá và cành trên thân cây.

+ Lần thứ ba: Dùng chất xanh để thuốc thấm đến rễ, làm cho cây chết hoàn toàn.

Thời gian giữa lần phun hóa chất thứ nhất và thứ hai là khi lá cây bắt đầu rụng, trong khi lần phun thứ ba được thực hiện khi có dấu hiệu kết quả trên thân và cành cây Để tiêu diệt hoàn toàn thảm thực vật rừng, sau khi cây đã chết khô, quân đội Mỹ sử dụng hóa chất gây cháy như bom napan và bom xăng để thiêu rụi thân và lá cây, biến khu rừng rậm rạp thành những vùng đất trống.

Lược sử về cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ tiến hành tại Miền nam Việt nam và trên địa bàn tỉnh Kon tum

2.1.1.Mục đích và quá trình triển khai cuộc chiến tranh hóa học:

Ngày 11/5/1961, Tổng thống Mỹ Kennedy đã họp Hội đồng An ninh quốc gia và tuyên bố sử dụng chất diệt cỏ để ngăn chặn Cộng sản xâm lược Nam Việt Nam Kế hoạch này được chính thức phê duyệt vào ngày 30/11/1961 với tên gọi “Chiến dịch Ranch Hand”, mặc dù thực tế đã bắt đầu từ tháng 8/1961 tại tỉnh Kon Tum Dưới sự ủng hộ của chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã chọn quận Đăk Tô làm nơi thử nghiệm đầu tiên để rải chất độc hóa học Vào ngày 10/8/1961, chuyến bay đầu tiên đã rải Dinoxol dọc theo quốc lộ số 14, tiếp theo là Trinoxol vào ngày 11/8/1961, nhằm phá hủy mùa màng Cuộc thử nghiệm này đã thành công, dẫn đến việc tiếp tục sử dụng hai loại chất độc này tại nhiều khu vực khác ở miền Nam Việt Nam.

Mục đích của cuộc chiến tranh hóa học do quân đội Mỹ thực hiện là nhằm tiêu diệt cây cối và làm trụi lá, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan sát và phát hiện các vị trí trú quân, tiếp vận của quân đội ta Họ cũng phá hoại mùa màng để cắt đứt nguồn lương thực của quân du kích, buộc người dân địa phương phải rời bỏ nơi ở của mình đến những khu vực mà chính quyền Sài Gòn có thể kiểm soát, đồng thời khai quang các vị trí để xây dựng căn cứ quân sự.

Thời gian diễn ra cuộc chiến tranh hoá học bắt đầu từ năm 1961 đến năm 1975 và được chia thành 3 giai đoạn:

- Từ năm 1961 đến năm 1964 Thử nghiệm và tiến hành phun rải chất độc hoá học trên quy mô nhỏ.

-Từ năm 1965 đến năm 1971 Giai đoạn cao điểm và kết thúc việc phun rải chất độc hoá học của Không lực Hoa kỳ.

- Từ năm 1972 đến năm 1975 Quân đội của chính quyền Sài gòn tiếp tục kéo dài phun rải chất độc hoá học do Mỹ để lại.

2.1.2 Các loại chất hoá học dùng trong chiến tranh hoá học tại miền nam Việt nam và Kon tum.

Theo tài liệu từ các nhà khoa học Mỹ, trong thời gian chiến tranh, quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều loại hóa chất cho các mục tiêu phá hoại khác nhau tại miền Nam Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Kon Tum Các hóa chất này có thể được phân chia thành bốn nhóm chính.

- Các chất diệt cỏ, làm rụng lá cây( thường được gọi tên chung là chất khai quang) và các tạp chất của nó.

- Các chất diệt côn trùng và diệt muỗi: Bao gồm chủ yếu là chất Malathion( Phốt pho hữu cơ) và DDT.

Các hóa chất khác bao gồm các loại vũ khí gây cháy như bom, pháo, bom Napan và phốt pho trắng Những hóa chất này có khả năng gây cháy rừng trên diện rộng, đặc biệt sau khi đã được rải chất diệt cỏ và làm rụng lá cây.

Trong 4 nhóm hoá chất trên thì các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây cùng các tạp chất của nó được sử dụng chủ yếu để phun rải trên thảm thực vật rừng và là những loại hóa chất được dùng nhiều nhất trong cuộc chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt nam Những hoá chất phổ biến này được gọi tên bằng các mật danh dễ nhận biết qua ký hiệu màu sắc trên thùng chứa như: Chất trắng, chất xanh, chất tím, chất hồng, chất xanh lục, chất da cam, chất da cam II, trong đó nguy hiểm nhất là chất da cam vì nó có chứa một loại tạp chất rất độc và bền vững được gọi tên là Dioxin- một hợp chất được xem là hoá chất độc nhất trong các loại hoá chất mà con người tổng hợp ra được cho đến nay Chất da cam thường được phun rải trên thảm thực vật rừng kết hợp với chất trắng và chất xanh Do vậy, trong giới hạn của đề tài cũng chỉ giới thiệu tóm tắt một số đặc điểm, tính năng của 3 loại hóa chất này và gọi tên chung là chất độc hoá học:

Chất trắng là một dung dịch màu nâu đen, hòa tan trong nước nhưng không hòa tan trong dầu, dầu Diesel hoặc dung môi hữu cơ Đây là hỗn hợp theo tỷ lệ 1:4 của hai chất Pichloram và 2,4 D (2,4 Dichloro phenoxy acetic acid) Khi sử dụng, cần rải không pha loãng với liều lượng 28,06 lít/ha, chất này có khả năng thấm vào tế bào lá và gây ra hiện tượng rụng lá ở cây.

Chất xanh là dung dịch màu vàng nhạt, hòa tan trong nước nhưng không hòa tan trong dung môi hữu cơ, dầu và dầu Diesel, bao gồm hỗn hợp acid cacodylic và natricocadylat Khi được rải với liều lượng 28,06 lít/ha, chất xanh gây ra hiện tượng héo khô lá cây bằng cách rút nước từ lá Nó thấm qua màng tế bào, hòa tan trong nước và có thể đi xuống tận rễ, dẫn đến cái chết của cây Vì vậy, chất xanh thường được sử dụng để khai thác rừng già, gây hại cho màu màng, đặc biệt là lúa.

Chất da cam là dung dịch màu hồng nâu, hòa tan trong dầu, dầu Diesel và các dung môi hữu cơ, nhưng không hòa tan trong nước Nó bao gồm hỗn hợp 50:50 của hai chất n-butyl este 2,4 D và 2,4,5 T (2,4,5 Trichloro phenoxy acetic acid) Khi được rải không pha loãng với lượng trung bình 28,06 lít/ha, chất này chứa khoảng 107 mg Dioxin Chất da cam II tương tự như chất da cam, nhưng khác ở chỗ thay thế n-butyl este 2,4,5 T bằng iso-octyl este 2,4,5.

T Chất da cam dễ thấm qua màng tế bào làm rụng lá cây, do vậy nó được sử dụng chủ yếu để khai quang rừng già và phá hoại mùa màng.

2.1.3 Số lượng hoá chất, phương tiện phun rải, cách thức và thời điểm sử dụng các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây

2.1.3.1 Số lượng hóa chất: Theo số liệu thống kê của Lê Cao Đài [4] thì tổng cộng chất diệt cỏ và làm rụng lá cây quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt nam là 72.354.000 lít, trong đó có 44.338.000 lít chất da cam; 19.835.000 lít chất trắng và 8.182 chất xanh, trên diện tích là 1,7 triệu ha.Tuy nhiên, theo tính toán của Viện điều tra quy hoạch rừng thì tổng diện tích rừng bị rải là 3,1 triệu ha, trong đó rừng nội địa bị rải là 2,95 triệu ha, còn lại 150.000 ha là diện tích rừng ngập mặn Riêng trên địa bàn tỉnh Kon tum, vùng bị rải chủ yếu ở 2 huyện Sa thầy và Ngọc hồi, các tài liệu cho biết quân đội Mỹ đã tiến hành 374 phi vụ rải 954.459 gallons tức khoảng 4,3 triệu lít hoá chất gồm chất da cam, chất trắng và chất xanh trên diện tích 129.000 ha Trên bản đồ các băng phun rải cho thấy VQG Chư Mom Rei hiện nay nằm trong vùng bị ảnh hưởng nặng nề, tức là thuộc lưu vực sông

Sê san, trên một dải kéo dài từ khu vực ngã ba biên giới Việt nam- Lào- Campuchia, xuống tận phía nam, qua phía đông bắc huyện Sa thầy

2.1.3.2 Phương tiện phun rải: Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà quân đội

Mỹ áp dụng nhiều loại phương tiện phun rải khác nhau, bao gồm máy bay có cánh cố định, máy bay trực thăng, máy phun trên xe cơ giới và máy phun cầm tay, để phù hợp với từng khu vực Đặc biệt, đối với các khu vực rộng lớn, yêu cầu chiều dài tối thiểu 5000m và chiều rộng tương ứng.

Để mở hành lang hoặc khai quang rừng rậm, phương tiện chính được sử dụng là máy bay có cánh cố định C-123, trang bị hệ thống rải Honglass MC1 Hệ thống này có khả năng rải 240 gallons mỗi phút từ độ cao 50 mét, với tốc độ bay 210 km/h, tạo ra vệt rải rộng khoảng 80 mét Thời gian rải kéo dài từ 3,5 đến 4 phút, cho phép rải 950 gallons hóa chất trên một vệt dài khoảng 14 km.

2.1.3.3 Cách thức sử dụng hóa chất: Do tính năng tác dụng của từng loại hoá chất khác nhau, tính mẫn cảm của từng loài cây rừng đối với các hoá chất cũng khác nhau, điều kiện thời tiết khí hậu biến đổi theo từng vùng, từng thời điểm, yêu cầu và mục đích phun rải trên từng đối tượng có khác nhau cho nên quân đội Mỹ phải nghiên cứu lựa chọn cách thức sử dụng loại hoá chất, nồng độ, số lần phun rải và thời điểm phun rải hết sức cẩn thận, chính xác, để có thể đạt mức độ phá hủy mạnh nhất Đối với rừng gỗ và tre nứa, theo tài liệu của các nhà khoa học cho biết: do chất da cam và chất trắng có tác dụng làm rụng lá cây mạnh hơn là làm chết cây, cho nên để làm chết cây hoàn toàn cần phải kết hợp sử dụng chất xanh; mặt khác nếu chỉ phun rải 1 lần thì số cây chết chỉ chiếm khoảng 10% số cây rừng, nếu phun rải 2 lần thì số cây chết chiếm khoảng 25% số cây rừng, chủ yếu là các cây ở tầng nhô và tầng sinh thái, nhưng nếu phun rải từ 3 lần trở lên thì số cây chết lên đến 70%-90% số cây rừng Do vậy, để đạt mức độ hủy hoại cao nhất, khi điều kiện có thể, quân đội Mỹ sử dụng cả 3 loại hóa chất là chất cam, chất trắng và chất xanh để phun rải và phun rải 2 đến 3 lần rải trở lên theo trình tự quy định:

Lần đầu tiên, chất da cam hoặc chất trắng được sử dụng để làm rụng lá cây Tiếp theo, trong lần thứ hai, hai loại chất này tiếp tục được áp dụng để làm rụng hoàn toàn lá và cành trên thân cây.

+ Lần thứ ba: Dùng chất xanh để thuốc thấm đến rễ, làm cho cây chết hoàn toàn.

Thời gian giữa các lần xử lý thực vật rừng được xác định bằng dấu hiệu lá rụng và sự xuất hiện kết quả trên thân và cành cây Để tiêu diệt hoàn toàn thảm thực vật, sau khi cây rừng đã chết, quân đội Mỹ sử dụng hóa chất cháy như bom napan và bom xăng để đốt cháy thân cây, biến khu rừng rậm thành vùng đất trống.

Lược sử nghiên cứu về cấu trúc rừng, tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới và các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghèo

2.2.1.1 Nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên nhiệt đới.

Từ đầu thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên, tập trung vào cả cấu trúc sinh thái và hình thái Phương pháp nghiên cứu chia thành hai hướng: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, ứng dụng toán thống kê và tin học Mục tiêu chính là tìm ra cấu trúc mẫu nhằm xây dựng các khu rừng hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời đảm bảo tính ổn định Các công trình nghiên cứu tiêu biểu đã đóng góp đáng kể vào lĩnh vực này.

- Nghiên cứu về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng: Đại diện là

Baur.G.N (1964) đã nghiên cứu cơ sở sinh thái của kinh doanh rừng mưa, trong khi Odum.F.P tập trung vào cơ sở sinh thái học Richard.P.W (1952) đã phân tích cấu trúc tổ thành của rừng mưa nhiệt đới và chia thành hai loại: rừng mưa đơn ưu với tổ thành loài cây đơn giản và rừng mưa hỗn hợp với tổ thành loài cây phức tạp Mặc dù những nghiên cứu này chủ yếu mang tính chất định tính và mô tả, nhưng chúng đã đóng góp quan trọng trong việc đặt nền móng cho các nghiên cứu tiếp theo.

- Nghiên cứu về hình thái cấu trúc rừng:

Các nhà khoa học như Richard.P.W (1939), Catinot (1965), Rollet (1971) và Plaudy.J (1987) đã nghiên cứu hình thái cấu trúc rừng theo hướng định tính, sử dụng phẫu đồ ngang và đứng để biểu diễn cấu trúc rừng trong không gian Những phẫu đồ này cung cấp hình ảnh khái quát về phân bố cây rừng và cấu trúc tầng thứ, từ đó giúp các nhà lâm học đưa ra nhận xét và biện pháp ứng dụng thực tế Đặc biệt, Richard.P.W đã phân loại rừng ở Nigeria thành 5 tầng và phương pháp biểu đồ của ông đã được cải tiến bởi các nhà khoa học sau này để mô tả chính xác hơn về hình thái cấu trúc rừng.

Các nhà khoa học nghiên cứu hình thái cấu trúc rừng theo phương pháp định lượng đã sử dụng các hàm toán học để mô tả quy luật kết cấu và tương quan giữa các yếu tố cấu thành lâm phần.

Trong lĩnh vực nghiên cứu quy luật kết cấu cây rừng, quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D) và quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N-H) là hai yếu tố quan trọng Mayer (1934) đã mô tả quy luật N-D bằng hàm phân bố giảm liên tục, trong khi Balley (1931) áp dụng hàm Weibull Shiffel (1934) đã tính toán phần trăm số cây cộng dồn, và Prôdan.M cùng Patascase (1964) cũng như Bill và Kem.K.A đã sử dụng phương trình logarit để biểu diễn Diatchenco Z.N đã sử dụng phân bố Gamma để thể hiện phân bố số cây theo đường kính trong rừng ôn đới, còn Loesch đã áp dụng hàm Beta cho phân bố thực nghiệm Nhiều tác giả cũng đã sử dụng các hàm toán học để mô tả quy luật phân bố N-H.

Các tác giả nghiên cứu quy luật tương quan giữa các nhân tố cấu trúc, đặc biệt chú trọng vào mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính tại độ cao 1,3m (H-D1.3), cũng như tương quan giữa đường kính tán và đường kính 1,3m (Dtán-D1.3) Họ còn xem xét các đại lượng tính toán thể tích và mối liên hệ của chúng với các yếu tố cấu thành như D1.3, H và F Đối với tương quan H-D, nhiều tác giả đã áp dụng phương pháp giải thích toán học để xác định các phương trình tương quan phù hợp, trong đó nổi bật có Naslund (1929), KrenK (1946) và Mayer (1952).

2.2.1.2 Nghiên cứu về tái sinh rừng nhiệt đới: Nghiên cứu về tái sinh rừng đã được tiến hành từ hàng trăm năm trước, tuy nhiên nghiên cứu về tái sinh rừng nhiệt đới thì chỉ bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ XX Các công trình nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới đã tập trung vào việc khám phá các đặc điểm và quy luật tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới, sự ảnh hưởng cúa các nhân tố sinh thái đến tái sinh rừng làm cơ sở để sản xuất các biện pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên.

Nghiên cứu về đặc điểm tái sinh rừng nhiệt đới, Van Steenis J.

Năm 1956, nghiên cứu đã chỉ ra hai đặc điểm tái sinh phổ biến trong rừng, bao gồm tái sinh phân tán và liên tục dưới tán rừng của cây chịu bóng, cùng với tái sinh vệt của các cây tiên phong ưa sáng, giúp hàn gắn các lỗ trống do cây già đổ hoặc bị gió bão Obrevin.A (1938) đã phát triển lý thuyết bức khảm tái sinh, cho rằng thành phần ưu hợp trong rừng mưa không cố định và không có loài nào đạt được sự cân bằng sinh thái vĩnh viễn Tại một thời điểm nhất định, xã hợp của các loài ưu thế sẽ được thay thế bởi một xã hợp khác, hiện tượng này được xem là ngẫu nhiên nhưng cũng mang tính tuần hoàn Các nghiên cứu của Davis.T.A.W, Richards.P.W, Beard, Schuntz và Rollet cho thấy rằng trong rừng nhiệt đới Nam Mỹ, các loài cây có mặt ở cấp thể tích lớn cũng đồng thời xuất hiện nhiều ở cấp thể tích nhỏ, chứng tỏ hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục, cho phép tổ thành loài cây duy trì ổn định trong thời gian dài.

Nghiên cứu về các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh rừng nhiệt đới đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học G.Baur (1962) chỉ ra rằng sự thiếu hụt ánh sáng chủ yếu ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây con Ghent A.W (1969) cho rằng thảm mục, chế độ thuỷ nhiệt và tầng đất mặt có mối quan hệ khác nhau với tái sinh rừng Andel.S (1981) xác định rằng độ đầy tối ưu cho sự phát triển bình thường của cây gỗ là 0,6-0,7, và độ khép tán của quần thụ có liên quan đến mật độ và sức sống của cây con Nghiên cứu của Bannikov (1967) và Vipper (1973) cho thấy cỏ và cây bụi, qua việc thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng từ tầng đất mặt, đã ảnh hưởng tiêu cực đến cây tái sinh của các loài cây gỗ, đặc biệt ở những lâm phần thưa và rừng đã qua khai thác, nơi mà thảm cỏ phát triển mạnh mẽ, gây trở ngại lớn cho quá trình tái sinh rừng.

2.2.1.3 Nghiên cứu về các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghèo Có nhiều nghiên cứu áp dụng các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghèo kiệt như : Kỹ thuật làm giàu bằng phương pháp trồng cây theo rạch do Aubreville ( 1937) đề xuất áp dụng ở Châu Phi; Nghiên cứu cơ sở sinh thái học của các biện pháp xử lý rừng mưa của George Baur (1962); Phương pháp trồng theo rạch cải tiến của Catinot (1965); Phương pháp trồng theo đám nhỏ trên rạch của Anderson; Phương pháp Caimital do Finot ( 1969) đề xuất làm giàu rừng bằng cách mở rạch bằng cơ giới ( máy ủi) đề xuất tái sinh tự nhiên hoặc kỹ thuật cải tạo rừng theo phương pháp limba được áp dụng ở Công gô Brazaville; Phương pháp Okoume ở Gabon; Phương pháp Taungya ở Myanmar; Phương pháp Sylvo bananer ở Zaie.

2.2.2.1 Nghiên cứu về cấu trúc rừng :

Nghiên cứu cấu trúc rừng ở Việt Nam bắt đầu từ giữa những năm 1970, tuy muộn hơn so với các nước khác, nhưng các nhà khoa học Việt Nam chủ yếu áp dụng phương pháp định lượng Các công trình tiêu biểu như của Đồng Sỹ Hiền (1974) với đường cong Pearson để biểu diễn phân bố N-D, Nguyễn Hải Tuất (1975, 1982, 1990) ứng dụng phân bố khoảng cách và quá trình Poisson, và Trương Hồ Tố (1985) nghiên cứu cấu trúc rừng thông cũng như nhiều nghiên cứu khác về rừng lá rộng và rừng khộp Những nghiên cứu này đã lựa chọn các hàm toán học như hàm Weibull và hàm hồi quy để mô phỏng quy luật cấu trúc rừng, từ đó xây dựng mô hình cấu trúc mẫu nhằm đề xuất các biện pháp lâm sinh phù hợp với từng loại rừng và mục tiêu kinh doanh cụ thể.

Thái Văn Trừng (1978) đã nghiên cứu và phân chia cấu trúc tầng thứ của rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở Việt Nam thành 5 tầng khác nhau Ông sử dụng các phẫu đồ ngang và thẳng đứng để biểu diễn cấu trúc này, áp dụng phương pháp của Richard P.W với những cải tiến phù hợp.

2.2.2.2 Nghiên cứu về tái sinh rừng: ở Việt nam nghiên cứu về tái sinh rừng bắt đầu từ những năm 1960 của thế kỷ XX Một số tác giả có những công trình nổi bật phải kể đến là: Thái Văn Trừng( 1963,1978,1998 ) khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt nam đã khẳng định: Trong quá trình tái sinh tự nhiên của các xã hợp tự nhiên nguyên sinh hay thứ sinh, có

Có hai cách tái sinh rừng: thứ nhất là tái sinh liên tục dưới tán cây rậm rạp, thường thưa thớt và yếu ớt do thiếu ánh sáng; thứ hai là tái sinh theo vệt để lấp đầy các khoảng trống trong tán rừng do cây già ngã đổ hoặc bị gió bão làm gãy Cây tiên phong được phân thành hai loại: cây tiên phong tạm thời có tuổi thọ ngắn, tự tiêu vong sau khi hoàn thành nhiệm vụ, và cây tiên phong định cư có tuổi thọ dài, tồn tại trong các xã hợp tái sinh tự nhiên Ánh sáng là yếu tố sinh thái quan trọng, điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng Vũ Đình Huề (1975) đã chỉ ra rằng tái sinh rừng miền Bắc Việt Nam có đặc điểm tương tự như rừng nhiệt đới, trong khi rừng thứ sinh thường có nhiều cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo đám tạo ra sự phân bố không đều của cây Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã xây dựng tiêu chuẩn đánh giá tái sinh tự nhiên cho rừng lá rộng ở miền Bắc Việt Nam.

Nghiên cứu về bảo đảm tái sinh trong khai thác rừng cho thấy rằng cây mạ có khả năng chịu bóng, dẫn đến sự phân bố chủ yếu của cây tái sinh ở chiều cao thấp, ngoại trừ một số loài ưa sáng cực đoan Tổ thành loài tái sinh dưới tán rừng có sự tương đồng với tổ thành tầng cây cao của quần thể Khai thác rừng có ảnh hưởng quyết định đến quá trình tái sinh, vì vậy cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật để đảm bảo tái sinh rừng cho các chu kỳ khai thác tiếp theo.

Lược sử nghiên cứu về rừng tự nhiên bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và giải pháp phục hồi rừng

Theo tài liệu của Võ Quý (1983), trong thời kỳ chiến tranh hóa học tại Việt Nam, Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng các chất diệt cỏ không gây hại về mặt sinh thái Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra những ý kiến trái ngược về hậu quả của cuộc chiến này đối với rừng, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, mùa màng và môi trường Việt Nam.

Năm 1967, Viện nghiên cứu Midwest của Mỹ đã cử nhà khoa học P.H.Tachirley đến Việt Nam để nghiên cứu tác động sinh thái của chất diệt cỏ, và ông đã nhận định rằng việc Mỹ sử dụng chất này đã gây tổn hại nghiêm trọng đến hệ thực vật tại đây (Science, 1969) Nhận định của ông được hai nhà khoa học E.W.Pfeiffer và G.H.Orian xác nhận (Science, 1970) Sau đó, nhiều nhà khoa học khác cũng đã đến Việt Nam để nghiên cứu và đồng thuận rằng cuộc chiến tranh này mang tính chất hủy diệt sinh thái Tuy nhiên, do hạn chế trong việc nghiên cứu hiện trường và thiếu hiểu biết về điều kiện tự nhiên của Việt Nam, một số ý kiến vẫn chưa chính xác hoặc chưa đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng của vấn đề.

Sau khi miền Nam được giải phóng vào tháng 10 năm 1980, Chính phủ đã quyết định thành lập Uỷ ban quốc gia Điều tra hậu quả chất hoá học sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Uỷ ban 10-80) Trong nhiều năm, Uỷ ban 10-80 đã thực hiện nhiều nghiên cứu khoa học, hợp tác với các nhà khoa học và các tổ chức trong và ngoài nước, bao gồm Mỹ, Pháp, Nhật Bản và Canada Kết quả nghiên cứu đã được trình bày tại ba hội thảo khoa học, trong đó có hai hội thảo quốc tế vào năm 1983 và 1993, cùng một hội thảo quốc gia.

Năm 1986, bài luận văn này tóm tắt những kết quả nghiên cứu quan trọng từ các nhà khoa học trong và ngoài nước, được trình bày tại các hội thảo liên quan đến tác động của chiến tranh hóa học đối với rừng nội địa ở Việt Nam.

Nghiên cứu quan trọng đầu tiên được nhắc đến là của nhà khoa học Westing A.H trong tác phẩm “Chất độc hoá học – hậu quả lâu dài cho con người và sinh thái” (1984) Tác phẩm này tổng hợp đầy đủ về cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ tại miền Nam Việt Nam và những hậu quả nghiêm trọng mà nó để lại Nhiều tư liệu giá trị trong nghiên cứu này đã được các nhà khoa học khác sử dụng làm căn cứ cho các nghiên cứu tiếp theo.

Nghiên cứu của nhà khoa học Paul W Richards (1983) cho thấy rằng thiệt hại từ chất diệt cỏ đối với rừng nội địa ở Việt Nam có những đặc điểm khác biệt so với ảnh hưởng thông thường từ khai thác gỗ và canh tác du canh.

Vùng bị ảnh hưởng bởi chất diệt cỏ có phạm vi rộng lớn, trong khi các yếu tố phá hoại khác như hố bom và mảnh bom cũng góp phần gây hại Điều quan trọng là xác định xem tác hại của chất diệt cỏ có khác biệt so với các hình thức đảo lộn khác hay không, khi mà nhiều cây cối bị chết hoặc thiệt hại nặng nề Theo tác giả, khả năng phục hồi rừng phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam, nơi có mùa khô rõ rệt, dẫn đến sự hình thành các dải cây cỏ rậm rạp như cỏ tranh và tre nứa Nếu những dải này bị đốt, chúng sẽ ít thay đổi, nhưng nếu được bảo vệ khỏi đảo lộn, cây gỗ có thể phát triển và hình thành rừng tự nhiên Tuy nhiên, tác giả cũng lưu ý rằng các chất diệt cỏ phổ biến như 2,4-D và 2,4,5-T không tồn tại lâu trong đất và sẽ không còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến thực vật sau 10 năm.

Nghiên cứu của Peter S Ashton (1983) về sự tái sinh rừng thường xanh nhiệt đới bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hóa học cho thấy rằng thành phần và cấu trúc loài cây đã thay đổi đáng kể ở các khu vực bị rải hóa chất Số lượng nhiều loài thực vật và động vật đã giảm mạnh hoặc hoàn toàn biến mất, đặc biệt là ở các khu rừng nhiệt đới hạ du, nơi hầu hết các loài cây và cây con đã bị triệt hạ Hiện tại, những diện tích rừng này chủ yếu biểu hiện đặc trưng của loại sa van, với sự thống trị của các cây lá cứng trên bề mặt đất Hiện tượng tái sinh tự nhiên của cây gỗ và các loài cây nhỏ không diễn ra tại đây, và tác giả chỉ ra rằng hậu quả của việc sử dụng hóa chất và máy móc đã gây ra sự tàn phá rừng nghiêm trọng.

Vũ khí "La mã" với sức ép mạnh đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho thiên nhiên Việt Nam, làm suy giảm các nguồn tài nguyên rừng và giá trị tiềm tàng của chúng trong suốt nhiều năm, vượt xa tổn thất kinh tế Để phục hồi sản xuất lâm nghiệp, giải pháp hiệu quả là thông qua việc trồng trọt.

Nghiên cứu về tự khôi phục rừng ở miền nam Việt Nam cho thấy rằng, để phục hồi hoàn toàn giá trị sinh thái của rừng mưa nhiệt đới, cần hàng trăm năm, theo phân tích của V.Y.E.Solokov và YU.G.Puzachenko (1983) Họ chỉ ra rằng các yếu tố như địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng và mức độ xói mòn đất ảnh hưởng lớn đến quá trình này Mặc dù có thể khôi phục tiềm năng kinh tế của vùng trong khoảng 40-100 năm, điều này yêu cầu đầu tư lớn và có thể giảm thiểu xói mòn đất trong giai đoạn này.

Nghiên cứu của Lê Trọng Cúc (1983) đã chỉ ra tác hại lâu dài của chiến tranh hóa học lên môi trường huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế Trước khi bị ảnh hưởng, thung lũng A Lưới có hệ thực vật phong phú và ổn định Tuy nhiên, sau khi bị rải chất độc vào năm 1965, đến năm 1982, thảm thực vật rừng đã bị thay thế bằng cỏ dày đặc, chủ yếu là các loài cây thân cứng và sống dai như Chít, Chè vè, Cỏ tranh, và Lau, cao đến 3-4m Tình trạng tái sinh cây gỗ rất kém, không tìm thấy mầm cây gỗ nào dưới lớp cỏ, cho thấy khả năng phục hồi rừng ở khu vực này có thể là rất hạn chế hoặc vĩnh viễn không thể xảy ra.

Nghiên cứu của Hoàng Hoè (1983) về tác động của chiến tranh hóa học đối với rừng Mã Đà, Đồng Nai cho thấy khoảng 5.000 ha rừng nhiệt đới giàu có đã bị chuyển đổi thành trảng cỏ tranh và cỏ đuôi chồn sau khi bị rải chất độc Chỉ một số loài như cây Kơ nia và Cám có khả năng chịu đựng và phục hồi nhanh chóng Các khu vực xung quanh băng rải cũng bị thay đổi cấu trúc, với 20-25% số cây bị cụt ngọn và sâu bệnh Khả năng phục hồi tự nhiên của khu rừng Mã Đà hiện chỉ còn khoảng 20%, với hơn 1.000 cây tái sinh/ha, nhưng cần hàng trăm năm để khôi phục Diện tích còn lại gần như không có khả năng phục hồi tự nhiên, do các yếu tố thuận lợi của rừng nhiệt đới đã bị thay đổi Để phục hồi rừng ổn định tại Mã Đà và miền Nam Việt Nam, cần áp dụng biện pháp tái sinh nhân tạo và trồng lại rừng.

Nghiên cứu của Nguyễn Quang Hà và Phùng Tửu Bôi (1985) về phục hồi rừng nội địa sau chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam đã chỉ ra kết quả điều tra tái sinh tại một số khu vực như Sa Thầy (Kon Tum) và Mã Đà (Đồng Nai).

A Lưới và Bạch Mã (Thừa Thiên – Huế) đã chỉ ra rằng quá trình tái sinh tự nhiên trên các khu vực bị ô nhiễm chất độc không diễn ra dễ dàng như một số nghiên cứu trước đây Họ khuyến cáo rằng việc tận dụng tái sinh tự nhiên có thể giúp phục hồi rừng ở những khu vực còn sót lại, có nguồn hạt giống, nhưng cần thời gian từ 80 đến 100 năm Do đó, việc trồng rừng mới được xem là giải pháp tích cực nhất để phục hồi rừng.

Nghiên cứu của Hoàng Văn Huây và Nguyễn Xuân Cự (1983) đã chỉ ra rằng chất độc hoá học có ảnh hưởng tiêu cực đến các tính chất hoá học của đất tại nhiều vùng ở miền Nam Việt Nam Kết quả nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết phải đánh giá và quản lý tác động của chất độc hoá học đối với môi trường đất.

Mục tiêu

Bài viết đánh giá thực trạng rừng tại VQG Chư Mom Rei sau ảnh hưởng của chiến tranh hóa học, nhằm làm rõ tác động của chiến tranh hóa học đối với tài nguyên rừng Nghiên cứu này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về tình hình rừng hiện tại mà còn góp phần nâng cao nhận thức về sự cần thiết bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái rừng trong khu vực.

Đánh giá khả năng tự phục hồi của rừng sau tác động của chiến tranh hóa học là rất quan trọng, đặc biệt tại VQG Chư Mom Rei Nghiên cứu cho thấy một số khu vực rừng vẫn có khả năng phục hồi tự nhiên, nhưng cần có các giải pháp can thiệp để tăng cường quá trình này Đề xuất các biện pháp phục hồi rừng như trồng cây bản địa, kiểm soát xói mòn đất và bảo vệ các loài động thực vật quý hiếm sẽ góp phần cải thiện sinh thái rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.

Giới hạn đề tài nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Thảm thực vật rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và rừng trên vùng điều tra đối chứng.

- Địa điểm nghiên cứu: Khu vực rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và vùng điều tra đối chứng tại VQG Chư Mom Rei, tỉnh Kon tum.

Nội dung nghiên cứu

3.3.1 Xác định vị trí, diện tích, hiện trạng các loại rừng sau khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và lựa chọn vùng điều tra đối chứng trên bản đồ và thực địa

3.3.2 Điều tra đánh giá một số đặc điểm về cấu trúc và tình hình tái sinh của rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học và rừng ở vùng đối chứng

3.3.2.1 Điều tra đánh giá cấu trúc rừng :

+ Tổ thành tầng cây gỗ.

+ Mật độ tầng cây gỗ.

+Tầng thứ tầng cây gỗ.

+ Độ tàn che tầng cây gỗ.

+ Đặc điểm tầng cây bụi và thảm tươi.

3.3.2.2 Điều tra đánh giá tình hình tái sinh tự nhiên.

+ Tổ thành loài cây tái sinh.

+ Mật độ cây tái sinh.

+ Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao và cấp chất lượng

+ Phân bố cây tái sinh trên mặt đất.

3.3.3 Đánh giá hiện trạng rừng sau khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học có so sánh với rừng trên vùng điều tra đối chứng và nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành các trạng thái rừng

3.3.4 Đánh giá ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh hoá học đối với tài nguyên rừng

3.3.5 Đề xuất các giải pháp phục hồi rừng trên một số vùng trọng điểm bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học.

Phương pháp nghiên cứu

Rừng là một hệ sinh thái phức tạp bao gồm quần thể thực vật, động vật, vi sinh vật và đất rừng, trong đó cây gỗ là thành phần chủ yếu Rừng tự nhiên ở Việt Nam mang đặc điểm của rừng nhiệt đới với sự đa dạng và phong phú về loài cây, tuy có tính ổn định cao nhưng lại nhạy cảm với tác động tiêu cực từ bên ngoài Sự phá hủy thảm thực vật rừng sẽ làm đảo lộn quá trình trao đổi vật chất và năng lượng, gây khó khăn cho quá trình tái sinh và phục hồi Việc phục hồi rừng đồng nghĩa với việc phục hồi một hệ sinh thái hoàn chỉnh, bắt đầu từ việc khôi phục thảm thực vật cây gỗ, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển của các thành phần khác như cây bụi, cỏ quyết và hệ động vật, vi sinh vật, đảm bảo các quá trình sinh thái diễn ra liên tục và ổn định.

Rừng tự nhiên ở miền Nam Việt Nam đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi chiến tranh hóa học, làm tổn hại đến hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới gió mùa vốn được xem là cực đỉnh Việc rải chất diệt cỏ với nồng độ cao đã dẫn đến hiện tượng rụng lá hàng loạt, phá vỡ tán rừng và làm chết nhiều cây, gây ra sự mất cân bằng trong quá trình trao đổi vật chất và năng lượng của hệ sinh thái Mức độ thiệt hại không đồng đều, phụ thuộc vào loại cây, địa hình và số lần rải hóa chất, dẫn đến tình trạng một số khu vực vẫn còn cây sống sót, trong khi những nơi khác bị tàn phá hoàn toàn Sau chiến tranh, hệ sinh thái rừng tiếp tục chịu tác động tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng đến khả năng và tốc độ phục hồi của rừng Những khu vực có cây sống sót nhiều và điều kiện thuận lợi sẽ phục hồi nhanh hơn so với những nơi bị tàn phá nặng nề, nguồn hạt giống khan hiếm và địa hình khó khăn.

Khi phân tích tác động của chiến tranh hóa học đối với tài nguyên rừng và khả năng phục hồi của chúng, cần xem xét một cách toàn diện các quan điểm lịch sử, địa lý, sinh vật học và sinh thái học Điều này giúp giải quyết các vấn đề nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phục hồi rừng cho những khu vực trọng điểm.

3.4.2 Phương pháp thu thập số liệu:

3.4.2.1 Phương pháp kế thừa: Thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài như:

Khu vực nghiên cứu có điều kiện tự nhiên và dân sinh kinh tế đặc trưng, với sự đa dạng về tài nguyên và môi trường Các loại bản đồ quan trọng bao gồm bản đồ địa hình hệ UTM tỷ lệ 1/50.000, bản đồ các băng rải chất khai quang của quân đội Mỹ, và bản đồ chuyên đề thể hiện độ che phủ rừng trước khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hóa học Ngoài ra, bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng và sử dụng đất năm 2005 ở tỉnh Kon Tum và phạm vi VQG Chư Mom Rei cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và quản lý tài nguyên thiên nhiên.

Các tài liệu nghiên cứu về cấu trúc rừng và tài nguyên rừng, cùng với các báo cáo khoa học, đã đánh giá ảnh hưởng của chiến tranh hóa học đối với sức khỏe con người, cảnh quan và môi trường tại tỉnh Kon Tum và Vườn Quốc gia Chư Mom Rei.

3.4.2.2 Phương pháp thu thập số liệu ngoài nghiệp: Sử dụng phương pháp lập ô tiêu chuẩn điển hình tạm thời Trên mỗi trạng thái rừng trong vùng nghiên cứu và vùng đối chứng lập 5 ô tiêu chuẩn điển hình tạm thời với diện tích mỗi ô là 2500 m 2 ( 50m x50m ) Trong mỗi ô tiêu chuẩn thu thập các chỉ tiêu sau:

-Đối với tầng cây gỗ:

+Xác định tên cây từng cá thể theo tên phổ thông và tên khoa học. Đối với những loài cây không biết tên lấy tiêu bản để giám định.

Đo đường kính cây gỗ ở vị trí 1.3m (D1.3) cho tất cả các cây có đường kính từ 8 cm trở lên (đối với rừng non là từ 6 cm trở lên), bao gồm các cây thuộc tầng A1, A2, A3, bằng thước kẹp kính với đơn vị đo là cm.

Đo chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc) của các cây đã đo đường kính được thực hiện bằng thước đo cao, với đơn vị đo là mét, chính xác đến 1/10 mét.

+Đo đường kính tán (Dt) bằng thước dây theo 2 chiều Đông-Tây và Nam-Bắc sau đó lấy giá trị trung bình.

+Xác định các tầng cây gỗ A1.A2,A3 như sau:

Cây tầng A1 là những cây có chiều cao vượt hẳn tán rừng.

Cây tầng A2 là những cây có chiều cao bằng tán rừng.

Cây tầng A3 là những cây có chiều cao đã tham gia vào tán rừng nhưng thấp hơn các cây ở tầng A2.

Cấu trúc tầng thứ trong cây gỗ được thể hiện qua trắc đồ dọc của phẫu đồ lát cắt, phản ánh các trạng thái khác nhau của quần thể thực vật rừng trong ÔTC.

Để xác định độ tàn che, cần vẽ phẫu đồ bao gồm trắc đồ dọc và trắc đồ ngang theo phương pháp của Richard, được hướng dẫn bởi Viện Điều tra quy hoạch rừng Dải rừng được chọn để vẽ có chiều dài 50m và chiều rộng 10m, lấy từ cạnh đại diện cho ÔTC Phẫu đồ sẽ được vẽ trên giấy kẻ ly với tỷ lệ 1/200, và mỗi trạng thái rừng sẽ có một phẫu đồ riêng, trong khi rừng tre nứa sẽ không được vẽ.

Trong mỗi ô tiêu chuẩn điều tra 15 ô dạng bản, diện tích mỗi ô cây bụi (ÔDB) là 4m², được bố trí theo tuyến song song và cách đều với ô tiêu chuẩn (ÔTC) Cần xác định các thông số quan trọng trong mỗi ÔDB để đảm bảo tính chính xác của điều tra.

+ Xác định tên cây từng cá thể theo tên phổ thông và tên khoa học. Đối với những loài cây không biết tên lấy tiêu bản để giám định.

+Mật độ cây bụi trên ÔDB.

+ Đo chiều cao cây bình quân và cây cao nhất của loài bằng thước mét, đơn vị đo là mét, lấy đến 1/10 m.

+ Xác định độ che phủ của tầng cây bụi: là tỷ lệ phần trăm diện tích đất rừng ở ODB được che phủ.

+ Đánh giá tình trạng sinh trưởng của cây bụi: chia làm 3 cấp : tốt, trung bình và xấu.

Trong mỗi ô điều tra tầng thảm tươi, mức độ ODB vẫn duy trì trên 15, cho thấy sự phong phú của hệ sinh thái Bên cạnh đó, việc khảo sát tầng cây bụi cũng đã được thực hiện để đánh giá sự đa dạng sinh học trong khu vực này.

+ Xác định tên loài cây.

+ Xác định độ nhiều của tầng thảm tươi.độ nhiều của tầng thảm tươi được đánh giá theo phân cấp của Drude như sau:

Soc: Cây phủ kín hoặc gần kín ÔDB Cây rất nhiều và các cá thể lồng vào nhau Độ che phủ lớn hơn hoặcbằng 90% mặt đất.

Cop 3: Cây rất nhiều nhưng các cá thể không lồng nhau toàn bộ Độ che phủ từ 60-90% mặt đất.

Cop 2: Cây tương đối nhiều Độ che phủ từ 30-60% mặt đất.

Cop 1: Cây hơi nhiều, độ che phủ từ 10-30% mặt đất.

Sp: Cây mọc phân tán, số lượng không nhiều lắm Độ che phủ nhỏ hơn 10% mặt đất.

Sol: Thỉnh thoảng gặp vài cây.

+ Tình hình sinh trưởng của thảm tươi: Phân theo 3 cấp: Tốt, Trung bình và Xấu.

Kết quả điều tra cây bụi thảm tươi ghi vào biểu thống kê cây bụi thảm tươi.

Đối với tầng cây tái sinh, việc điều tra cây tái sinh được thực hiện trên 30 ô điều tra (ÔDB) cho mỗi ô tổng cộng (ÔTC), với diện tích mỗi ô là 4m² (2x2m) Các ô này được bố trí theo các tuyến song song, cách đều và sắp xếp so le trên tuyến Cây tái sinh sẽ được điều tra từ giai đoạn cây mạ đến giai đoạn cây tái sinh chưa tham gia vào tầng A3 Trong mỗi ô điều tra, cần xác định các yếu tố liên quan đến sự phát triển của cây tái sinh.

+Tên loài cây phổ thông và tên khoa học Những cây chưa biết tên được lấy tiêu bản để giám định.

+ Xác định chiều cao cho từng cây tái sinh.

Cây tái sinh được phân cấp chất lượng thành ba loại: tốt, trung bình và xấu Kết quả điều tra về cây tái sinh sẽ được ghi lại trong biểu thống kê của tầng cây tái sinh.

3.4.3 Phương pháp xử lý số liệu nội nghiệp

3.4.3.1 Xác định vùng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học, vùng trọng điểm và vùng điều tra đối chứng.

Vùng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hóa học bao gồm các băng rải chất độc hóa học Để xây dựng Bản đồ Vùng bị rải chất độc hóa học tại VQG Chư Mom Rei, chúng tôi đã sử dụng phương pháp chồng ghép các bản đồ đơn tính như bản đồ địa hình hệ UTM tỷ lệ 1/50.000, bản đồ hiện trạng rừng, và bản đồ quy hoạch ba loại rừng tỉnh Kon Tum Bên cạnh đó, bản đồ các băng rải chất khai quang của quân đội Mỹ cũng được phóng tỷ lệ 1/50.000 và kết hợp với điều tra thực địa Bản đồ này đã được số hóa và đưa vào phần mềm máy tính, giúp xác định rõ ranh giới và tính toán diện tích các trạng thái rừng trong khu vực bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học.

Ngày đăng: 09/04/2022, 20:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Baur. G.N (1964), Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa, Vương Tấn Nhị dịch. NXB khoa học kỹ thuật, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa
Tác giả: Baur. G.N
Nhà XB: NXB khoa học kỹ thuật
Năm: 1964
2. Bộ lâm nghiệp (1998), Quy phạm các giải pháp kỷ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ, tre nứa (QPN 14-92). NXB Nông nghiệp, Hà néi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy phạm các giải pháp kỷ thuật lâm sinh ápdụng cho rừng sản xuất gỗ, tre nứa (QPN 14-92)
Tác giả: Bộ lâm nghiệp
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 1998
3. Bộ Nông nghiệp &PTNT (2001), Văn bản tiêu chuẩn kỷ thuật lâm sinh, tập I và tập II. NXB Nông nghiệp, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn bản tiêu chuẩn kỷ thuật lâm sinh
Tác giả: Bộ Nông nghiệp &PTNT
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 2001
4. Lê Cao Đài (1999), Chất da cam trong chiến tranh Việt nam, tình hình và hậu quả. Sách tham khảo nội bộ. Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chất da cam trong chiến tranh Việt nam, tình hìnhvà hậu quả
Tác giả: Lê Cao Đài
Năm: 1999
5. Nguyễn Quang Hà, Phùng Tửu Bôi (1990), Điều tra đánh giá hậu quảcủa chiến tranh hoá học đối với rừng nội địa-Biện pháp khắc phục. Khoa học kỷ thuật lâm nghiệp, Viện Khoa học kỷ thuật Việt nam (1961-1995), NXB Nông nghiệp. Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra đánh giá hậu quả"của chiến tranh hoá học đối với rừng nội địa-Biện pháp khắc phục
Tác giả: Nguyễn Quang Hà, Phùng Tửu Bôi
Nhà XB: NXB Nông nghiệp. Hà nội
Năm: 1990
6. Võ Đại Hải (1996), Nghiên cứu dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng hộđầu nguồn ở Việt nam. Luận án PTS nông nghiệp. Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng hộ"đầu nguồn ở Việt nam
Tác giả: Võ Đại Hải
Năm: 1996
7. Võ Đại Hải, Nguyễn Đình Quế, Phạm Ngọc Thường (2003), Canh tác nương rẫy và phục hồi, NXB Nghệ an Sách, tạp chí
Tiêu đề: Canh tácnương rẫy và phục hồi
Tác giả: Võ Đại Hải, Nguyễn Đình Quế, Phạm Ngọc Thường
Nhà XB: NXB Nghệ an
Năm: 2003
8. Vũ Tiến Hinh (1991), “ Về đặc điểm tái sinh của rừng tự nhiên”. Tạp chí lâm nghiệp ( 2), Tr. 3- 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về đặc điểm tái sinh của rừng tự nhiên”. "Tạp chílâm nghiệp
Tác giả: Vũ Tiến Hinh
Năm: 1991
9. Vũ Đình Huề (1994), “Phân loại các kiểu rừng phục vụ sản xuất lâm nghiệp”, Tạp chí lâm nghiệp ( 9), Tr. 11-17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân loại các kiểu rừng phục vụ sản xuất lâmnghiệp”,"Tạp chí lâm nghiệp
Tác giả: Vũ Đình Huề
Năm: 1994
10. Phạm Xuân Hoàn, Hoàng Kim Ngũ (2003), Lâm học. NXB Nông nghiệp. Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lâm học
Tác giả: Phạm Xuân Hoàn, Hoàng Kim Ngũ
Nhà XB: NXB Nôngnghiệp. Hà nội
Năm: 2003
12. Ngô Kim Khôi, Nguyễn Hải Tuất, Nguyễn Văn Tuấn (2001), Tin học ứng dụng trong lâm nghiệp. NXB Nông nghiệp, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tin họcứng dụng trong lâm nghiệp
Tác giả: Ngô Kim Khôi, Nguyễn Hải Tuất, Nguyễn Văn Tuấn
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 2001
13. Phùng Ngọc Lan (1984), “ Đảm bảo tái sinh trong khai thác rừng” . Tạp chí lâm nghiệp (9), Tr. 21-23 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đảm bảo tái sinh trong khai thác rừng” ."Tạpchí lâm nghiệp
Tác giả: Phùng Ngọc Lan
Năm: 1984
14. Phùng Ngọc Lan (1986), Lâm sinh học, tập I, NXB Nông nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lâm sinh học
Tác giả: Phùng Ngọc Lan
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 1986
15. Vũ Biệt Linh (1985), “ Về vấn đề cấu trúc rừng trong xây dựng, phát triển và sử dụng vốn rừng”. Tạp chí lâm nghiệp ( 3), Trang 2-9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về vấn đề cấu trúc rừng trong xây dựng, pháttriển và sử dụng vốn rừng”."Tạp chí lâm nghiệp
Tác giả: Vũ Biệt Linh
Năm: 1985
16. Triệu Văn Hùng (2003), Bài giảng sử dụng bền vững tài nguyên rừng (Dùng cho Cao học lâm nghiệp). Trường Đại học Lâm nghiệp Việt nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng sử dụng bền vững tài nguyên rừng
Tác giả: Triệu Văn Hùng
Năm: 2003
17. Nguyễn Ngọc Lung, Lâm Phúc Cố (1994), “Bảo vệ, khoanh nuôi và phục hồi rừng”. Tạp chí lâm nghiệp (10), Tr. 6,7, 29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ, khoanh nuôi vàphục hồi rừng”. "Tạp chí lâm nghiệp
Tác giả: Nguyễn Ngọc Lung, Lâm Phúc Cố
Năm: 1994
18. Nguyễn Ngọc Lung, Đỗ Đình Sâm (1995), “ Nghiên cứu cơ sở bước đầuđể xây dựng quy phạm khai thác gỗ”. Khoa học lâm nghiệp Việt nam ( 1961-1995). NXB Nông nghiệp, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu cơ sở bước đầuđể xây dựng quy phạm khai thác gỗ”. "Khoa học lâm nghiệp Việt nam (1961-1995)
Tác giả: Nguyễn Ngọc Lung, Đỗ Đình Sâm
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 1995
19. Nguyễn Ngọc Lung, Võ Đại Hải, Kết quả bước đầu nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn nước. NXB Nông nghiệp, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết quả bước đầu nghiên cứu tácdụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính và các nguyêntắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn nước
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
20. Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Hoàng Nghĩa và Cs (2001), Nghiên cứu rừng tự nhiên. NXB thống kê, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu rừng tựnhiên
Tác giả: Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Hoàng Nghĩa và Cs
Nhà XB: NXB thống kê
Năm: 2001
21. Trần Ngũ Phương (2000). Một số vấn đề về rừng nhiệt đới Việt nam.NXB Nông nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về rừng nhiệt đới Việt nam
Tác giả: Trần Ngũ Phương
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 2000

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w