PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Môi trường là không gian sống của con người và các sinh vật, cung cấp tài nguyên thiên nhiên quý giá như rừng, khoáng sản, động thực vật, và các yếu tố vật chất do con người tạo ra Tất cả những yếu tố này có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng đến sự sống, tồn tại và phát triển của con người.
Môi trường đóng vai trò thiết yếu đối với nhân loại, cung cấp tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, rừng và khoáng sản cần thiết cho cuộc sống và sản xuất Nó cũng chứa đựng chất thải ô nhiễm từ hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người Bên cạnh đó, môi trường cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái, như đa dạng sinh học và bảo vệ bức xạ UV, hỗ trợ sự sống trên trái đất mà không cần sự can thiệp của con người Cuối cùng, môi trường còn là nguồn gốc hình thành các giá trị tâm lý, thẩm mỹ và tinh thần cho con người.
Môi trường hiện nay đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa đến cuộc sống con người Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, việc khai thác tài nguyên bừa bãi dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng nặng nề đến môi trường vẫn diễn ra và có xu hướng gia tăng Vi phạm môi trường là vấn đề nhức nhối trong xã hội và đất nước, vì vậy nhóm chúng em quyết định chọn đề tài này để nâng cao nhận thức và tìm kiếm giải pháp.
“Thực trạng vi phạm pháp luật về môi trường ở nước ta hiện nay”.
Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Nắm vững các khái niệm cơ bản về luật môi trường và tình hình môi trường hiện tại của đất nước là rất quan trọng Việc xác định nguyên nhân và tổng hợp các yếu tố gây hại cho môi trường sẽ giúp nâng cao hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường trong lành.
Phương pháp thực hiện đề tài
Tìm kiếm tài liệu và thông tin tổng quát là cần thiết để thực hiện nghiên cứu và đánh giá Việc áp dụng quan điểm cá nhân cùng với hệ thống kiến thức phong phú, kết hợp các phương pháp xã hội và nhân văn một cách tổng hợp và liên ngành sẽ giúp nâng cao chất lượng phân tích và nhận xét.
TỔNG QUAN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG
Khái quát chung về luật môi trường
1.1.1 Khái niệm luật môi trường
Luật môi trường là hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến khai thác, quản lý và bảo vệ môi trường, với mục tiêu hướng tới phát triển bền vững.
Cấu trúc và nguồn của luật môi trường bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến môi trường Điều này bao gồm các quy định cương lĩnh trong hiến pháp và các quy định cụ thể về bảo vệ môi trường, như đánh giá tác động môi trường, công khai thông tin môi trường, quản lý chất thải, và phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường.
1.1.2 Những nguyên tắc cơ bản của luật môi trường
1.1.2.1 Nguyên tắc nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong lành
Quyền sống trong môi trường trong lành là một quyền tự nhiên của con người, được quy định trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 Điều này khẳng định rằng mọi người có quyền được sống trong môi trường sạch và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường Nguyên tắc này yêu cầu tất cả các quy phạm và chính sách pháp luật về môi trường phải ưu tiên hàng đầu việc đảm bảo điều kiện sống, trong đó môi trường là yếu tố quan trọng.
Luật môi trường quy định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường Đồng thời, luật cũng xác định quyền của công dân, bao gồm quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và quyền tiếp cận thông tin liên quan đến vấn đề này.
1 Điều 43 – Hiến pháp Việt Nam 2013
Ba nguyên tắc cơ bản của luật môi trường không chỉ là những quy định mà còn là mục tiêu cốt lõi, được thể hiện rõ ràng trong tất cả các điều khoản của luật này.
1.1.2.2 Nguyên tắc phát triển bền vững
Theo Luật bảo vệ môi trường 2020, phát triển bền vững được định nghĩa là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai Điều này đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu phát triển bền vững là nâng cao chất lượng cuộc sống con người trong khi duy trì môi trường và cơ sở vật chất Để đạt được điều này, cần kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường Phương châm phát triển bền vững trong luật môi trường được thực hiện thông qua cách tiếp cận lồng ghép.
Phòng ngừa là hành động chủ động nhằm loại bỏ các nguyên nhân có thể gây ra rủi ro cho môi trường trước khi chúng xảy ra.
Nguyên tắc phòng ngừa nhằm mục đích ngăn chặn rủi ro từ con người và thiên nhiên đối với môi trường Để đạt được hiệu quả, nguyên tắc này đặt ra các yêu cầu cụ thể.
Giảm thiểu chi phí khắc phục hậu quả từ việc tàn phá môi trường là rất quan trọng, bởi lẽ chi phí để phục hồi môi trường thường lớn hơn nhiều so với chi phí đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa.
VD: sử dụng máy lọc nước thải tại các nhà máy có chi phí thấp hơn nhiều việc đầu tư khắc phục hậu quả do ô nhiễm nguồn nước,…
Để bảo vệ môi trường, việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa là rất quan trọng, vì một số hậu quả của ô nhiễm môi trường không thể khắc phục được.
VD: tàn phá rừng nguyên sinh dẫn đến việc tuyệt chủng của một số giống loài động thực vật quý hiếm,…
Phát triển nền kinh tế bền vững dựa trên nguyên tắc phòng ngừa trong luật môi trường, nhằm bảo vệ môi trường hiệu quả Khi môi trường được bảo vệ tốt, nền kinh tế sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn.
1.1.2.4 Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền (PPP) là một nguyên tắc kinh tế nhằm nội hóa chi phí thiệt hại môi trường mà người sản xuất thường bỏ qua Theo nguyên tắc này, người gây ô nhiễm phải chi trả cho các chi phí môi trường phát sinh từ hành vi của họ, từ đó các chi phí này được ghi nhận trong sổ sách kế toán và phản ánh trong giá thị trường Việc buộc người gây ô nhiễm phải trả tiền tạo ra động lực kinh tế để họ điều chỉnh hành vi, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
1.1.2.5 Nguyên tắc môi trường là một thể thống nhất
Sự thống nhất của MT được thể hiện ở 2 khía cạnh:
- Sự thống nhất về không gian: MT không bị chia cắt bởi biên giới quốc gia, địa giới hành chính
- Sự thống nhất nội tại giữa các yếu tố cấu thành MT: Giữa các yếu tố cấu thành
MT luôn có quan hệ tương tác với nhau, yếu tố này thay đổi dẫn đến sự thay đổi của yếu tố khác
Các quốc gia phải có nghĩa vụ chung trong bảo vệ môi trường.
Khái niệm vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường
Vi phạm pháp luật là hành vi trái với quy định pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, gây ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật về môi trường được hiểu là hành vi trái pháp luật do cá nhân hoặc tổ chức có năng lực pháp lý thực hiện, không tuân thủ các quy định của pháp luật và gây tổn hại đến các mối quan hệ xã hội mà pháp luật môi trường bảo vệ.
Theo Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, cùng với Nghị định 55/2021/NĐ-CP ngày 24/05/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 155/2016, các quy định liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính trong bảo vệ môi trường đã được cập nhật và làm rõ hơn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ môi trường.
CP, Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 10/7/2021, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường bao gồm các hành vi:
- Các hành vi gây ô nhiễm môi trường
- Các hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải
- Các hành vi vi phạm quy định về kế hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường
Các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, bao gồm khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp và khu kinh doanh dịch vụ tập trung, đang gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường Việc kiểm soát và xử lý các vi phạm này là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế liệu và chế phẩm sinh học, cũng như trong việc nhập khẩu và phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng, hoạt động lễ hội, du lịch và khai thác khoáng sản cần được chú ý và xử lý nghiêm túc để đảm bảo môi trường sống bền vững.
- Các hành vi vi phạm các quy định về thực hiện phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường
Các hành vi vi phạm quy định về đa dạng sinh học bao gồm việc không bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên, các loài sinh vật cũng như tài nguyên di truyền.
- Các hành vi cản trở hoạt động quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành vi vi phạm các quy định khác về BVMT.
Các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường
Các hành vi phạm pháp luật về môi trường gồm 2 :
2 Điều 6 – Luật Bảo vệ môi trường 2020
1 Vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
2 Xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường
3 Phát tán, thải ra môi trường chất độc hại, vi rút độc hại có khả năng lây nhiễm cho con người, động vật, vi sinh vật chưa được kiểm định, xác súc vật chết do dịch bệnh và tác nhân độc hại khác đối với sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên
4 Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí
5 Thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
6 Nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức
7 Nhập khẩu trái phép phương tiện, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để phá dỡ, tái chế
8 Không thực hiện công trình, biện pháp, hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và quy định khác của pháp luật có liên quan
9 Che giấu hành vi gây ô nhiễm môi trường, cản trở, làm sai lệch, thông tin, gian dối trong hoạt động bảo vệ môi trường dẫn đến hậu quả xấu đối với môi trường
10 Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường
11 Sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ chất làm suy giảm tầng ô- dôn theo quy định của điều ước quốc tế về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
12 Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên
13 Phá hoại, xâm chiếm công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường
14 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
Biện pháp xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nêu rõ hình thức và mức xử phạt cũng như biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm Theo quy định này, cá nhân và tổ chức vi phạm sẽ phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính.
Cảnh cáo và mức phạt tiền tối đa cho hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức.
Nghị định mới quy định mức phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường Cụ thể, cá nhân vi phạm các quy định tại các cơ sở, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu kinh doanh và dịch vụ tập trung, làng nghề, cũng như khu nuôi trồng thủy sản sẽ bị phạt từ 5 triệu đến 500 triệu đồng.
Các cá nhân vi phạm quy định xả thải nước có chứa các thông số môi trường thông thường và nguy hại sẽ bị xử phạt từ 300.000 đồng đến 1 tỷ đồng, tùy thuộc vào mức độ vi phạm.
Mức phạt từ 10 triệu đến 1 tỷ đồng áp dụng cho cá nhân vi phạm quy định về thải bụi và khí thải có chứa các thông số môi trường nguy hại Đặc biệt, cá nhân đổ hóa chất độc hại, chất thải rắn hoặc nước thải không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật xuống vùng biển bảo tồn thiên nhiên sẽ bị phạt từ 250 đến 500 triệu đồng Đối với hành vi đổ chất thải nguy hại hoặc chất thải phóng xạ xuống biển Việt Nam, mức phạt sẽ từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng, ngoại trừ các trường hợp tội phạm môi trường.
Mức phạt tiền cho hành vi vi phạm hành chính của cá nhân được quy định cụ thể, trong khi đó, mức phạt đối với tổ chức vi phạm sẽ gấp đôi mức phạt của cá nhân cho cùng một hành vi.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là một hình thức trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, trong đó tổ chức, cá nhân hoặc chủ thể khác vi phạm pháp luật môi trường gây ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng và tính hữu ích của môi trường Hành vi này có thể dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức Do đó, các chủ thể vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ khắc phục ô nhiễm, phục hồi tình trạng môi trường và bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi vi phạm.
Theo quy định tại Điều 602 Bộ luật dân sự 2015 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường được xác định như sau:
Theo quy định của pháp luật, các chủ thể gây ô nhiễm môi trường và gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường, ngay cả khi không có lỗi từ phía họ.
Theo quy định hiện hành, cá nhân và tổ chức gây ô nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm theo luật chuyên ngành và bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, ngay cả khi họ không có lỗi.
Căn cứ vào chương XIX, Bộ luật hình sự năm 2015 có 12 điều (từ Điều 235 đến Điều 246) quy định về tội phạm liên quan đến môi trường, gồm:
- Tội gây ô nhiễm môi trường
- Tội vi phạm quy định về quản lí chất thải nguy hại
- Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường
Hành vi vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều, và phòng chống thiên tai, cũng như các quy định liên quan đến bảo vệ bờ, bãi sông, gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho môi trường và an toàn cộng đồng Những vi phạm này không chỉ ảnh hưởng đến hệ sinh thái mà còn làm tăng nguy cơ thiên tai, đe dọa cuộc sống và tài sản của người dân Do đó, việc tuân thủ các quy định bảo vệ công trình thủy lợi và bờ sông là hết sức cần thiết để đảm bảo an toàn và phát triển bền vững.
- Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
- Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người
- Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật
- Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản
3 Điều 602 – Bộ luật dân sự 2015
- Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm
- Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên
- Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG
Tình hình vi phạm pháp luật về môi trường ở nước ta hiện nay
Theo thống kê của cơ quan Xử lý chất thải, Việt Nam tiêu thụ khoảng 10.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật mỗi năm Bên cạnh đó, đất nước này sản xuất 2,3 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, cùng với hàng chục loại phế phẩm khác.
Tình trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam đang ở mức báo động, khi hơn 250 khu công nghiệp thải ra 550.000 m³ nước thải mỗi ngày Đáng chú ý, chỉ 5% trong số khoảng 615 cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tuân thủ quy định môi trường, trong khi phần lớn còn lại xả thải trực tiếp hoặc không qua xử lý tiêu chuẩn Thêm vào đó, hàng nghìn cơ sở y tế cũng đóng góp vào tình trạng ô nhiễm này với lượng chất thải lớn mỗi ngày.
Mặc dù có nhiều thống kê về ô nhiễm môi trường, tình trạng này vẫn tiếp tục gia tăng mà không có dấu hiệu dừng lại Hệ quả là môi trường sống và sức khỏe con người đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Vậy, hậu quả nghiêm trọng của khí thải do con người gây ra là gì? Sau đây là một số loại ô nhiễm môi trường phổ biến nhất:
Tổng diện tích đất tự nhiên của Việt Nam hiện nay vượt quá 33 triệu ha, trong đó 68,83% đã được sử dụng, tương đương hơn 22 triệu ha, và hơn 10 triệu ha đất chưa sử dụng, chiếm khoảng 33,04% tổng diện tích Diện tích đất nông nghiệp dao động từ 7 - 8 triệu ha Với vị trí nằm trong khu vực nhiệt đới, Việt Nam có lượng mưa lớn và tập trung, cùng với quá trình khoáng hóa mạnh mẽ, khiến đất đai, đặc biệt là ở vùng đồi núi, dễ bị rửa trụi và thoái hóa do thiếu hụt chất hữu cơ và dinh dưỡng Đất sau khi bạc màu rất khó phục hồi về trạng thái màu mỡ ban đầu Gần đây, Việt Nam đã xuất hiện nhiều dấu hiệu ô nhiễm môi trường đất, gây lo ngại về tình trạng môi trường.
11 ở các vùng nông thôn đến các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh khác ngày càng gia tăng trên toàn lãnh thổ:
Tại Hà Nội, ô nhiễm đất chủ yếu do kim loại nặng từ hoạt động sản xuất công nghiệp, đặc biệt tại các khu công nghiệp như An Khánh và Tam Hiệp Tình hình ô nhiễm tại TP Hồ Chí Minh cũng nghiêm trọng, với nguyên nhân chính là rác thải đô thị và thuốc trừ sâu Ở Hóc Môn, mỗi vụ rau có thể bị phun thuốc từ 10 đến 25 lần, với lượng thuốc sử dụng lên đến 100 - 150 lít trên mỗi hecta trong một năm Ngoài ra, các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh thải ra hơn 600.000 m³ nước thải mỗi ngày, góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường đất.
Tại Thái Nguyên, hoạt động khai thác khoáng sản đang gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do lượng lớn đá thải, làm thu hẹp diện tích đất canh tác Hầu hết các đơn vị khai thác sử dụng công nghệ lạc hậu và phương pháp khai thác lộ thiên, dẫn đến tác động tiêu cực đến sức khỏe và cuộc sống của người dân địa phương.
Tại Lâm Đồng, kết quả quan trắc môi trường năm 2009 cho thấy đất ở đây bị chua và kiềm do ảnh hưởng nặng nề từ việc sử dụng phân bón nông nghiệp Đặc biệt, thành phần cơ giới của đất chủ yếu là đất sét, chiếm tỷ trọng cao, điều này ảnh hưởng đến chất lượng đất và khả năng phát triển nông nghiệp bền vững trong khu vực.
Hệ thống nước mặt của Việt Nam bao gồm hơn 2.360 sông suối dài trên 10 km cùng hàng nghìn hồ, ao, là nguồn sống cho động thực vật và hàng triệu người dân Tuy nhiên, nguồn nước này đang bị suy thoái nghiêm trọng do khai thác quá mức và ô nhiễm Nhiều dòng sông và ao hồ đã bị "chết" do chất thải chưa qua xử lý Theo thống kê của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 9.000 ca tử vong liên quan đến điều kiện nguồn nước kém và gần 200.000 ca ung thư mới do sử dụng nước ô nhiễm.
Tại cụm công nghiệp Tham Lương, TP Hồ Chí Minh, nguồn nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do nước thải từ các nhà máy sản xuất giấy, bột giặt, nhuộm và dệt, với tổng lượng nước thải ước tính khoảng 500.000 m³/ngày.
Tại Thái Nguyên, nước thải công nghiệp từ sản xuất giấy, luyện thép, luyện kim màu, và khai thác than chiếm khoảng 15% tổng lượng nước thải của khu vực đô thị Nước thải sản xuất giấy có giá trị pH từ 8,4 đến 9, hàm lượng NH4 đạt 4 mg/l, chứa nhiều chất hữu cơ và có màu nâu cùng mùi khó chịu.
Kiểm tra các làng nghề luyện thép, đúc đồng, nhôm, chì, sản xuất giấy và dệt nhuộm tại Bắc Ninh cho thấy mỗi ngày có hàng nghìn mét khối nước thải chưa qua xử lý, gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, nước thải sinh hoạt thường không được xử lý qua hệ thống tập trung, mà thay vào đó, được xả thải trực tiếp vào các nguồn tiếp nhận lớn như sông, hồ, kênh, và mương mà không có sự đo lường nào.
Nhiều bệnh viện và cơ sở y tế lớn hiện chưa trang bị hệ thống xử lý nước thải, dẫn đến việc một lượng lớn rác thải rắn trong thành phố không được thu gom, gây ra tình trạng xả thải trực tiếp ra môi trường Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nguồn nước.
Sông Hồng chảy qua Phú Thọ và Vĩnh Phúc ghi nhận hầu hết các thông số vượt tiêu chuẩn QCVN 08:2008 loại A1 Tại một số vị trí gần các nhà máy, các chỉ số thậm chí gần đạt mức B1, với nhiều thông số vượt ngưỡng B1 nhiều lần.
Sông Cầu đã trải qua tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là lưu vực sông Nhuệ - Đáy, nơi nhiều đoạn nước bị ô nhiễm đến mức báo động Trong mùa khô, các chỉ số BOD5, COD, TSS tại các điểm đo thường xuyên vượt quá tiêu chuẩn QCVN 08:2008 loại A1.
Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
Hệ thống pháp luật về môi trường ở Việt Nam đã phát triển cả về nội dung lẫn hình thức, điều chỉnh đầy đủ các yếu tố môi trường Các tiêu chuẩn môi trường được ban hành đã tạo cơ sở cho việc kiểm soát và đánh giá tác động môi trường Những văn bản pháp luật này đã góp phần tạo ra cơ sở pháp lý cho quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường (BVMT), đồng thời nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân về vấn đề môi trường Là thành viên của Liên hợp quốc và Chương trình môi trường Liên hợp quốc, Việt Nam chú trọng đến hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BVMT, đã tham gia 14 công ước và hiệp định quốc tế về môi trường, đồng thời tăng cường hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia trong và ngoài khu vực.
Hiện nay, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) của nước ta vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của phát triển bền vững.
Hiện nay, chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các quy định phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường (BVMT) Yếu tố môi trường chưa được coi trọng trong quá trình xây dựng luật, thường bị xem nhẹ so với các vấn đề như thương mại và đầu tư Hầu hết các văn bản pháp luật về kinh tế không tính đến chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh Thiếu các công cụ kinh tế như lệ phí và thuế môi trường, cùng với việc người gây ô nhiễm không phải chịu trách nhiệm tài chính, đã làm giảm hiệu quả của công tác BVMT Do đó, chính sách và pháp luật về kinh tế hiện nay chưa thực sự “thân thiện với môi trường”.
Mặc dù các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường đã tương đối đầy đủ, nhưng vẫn thiếu cơ chế pháp lý hiệu quả để kiểm soát các hoạt động gây ảnh hưởng đến tự nhiên và môi trường Các chế tài hiện hành không đủ mạnh để xử lý và răn đe các hành vi vi phạm, dẫn đến nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể sản xuất, kinh doanh chỉ mang tính hình thức Hệ quả là các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước, không khí và chặt phá rừng vẫn tiếp diễn mà không được ngăn chặn triệt để.
Pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hiện nay còn quá chung chung và khó áp dụng Mặc dù có quy định về bồi thường thiệt hại cho những hành vi gây ô nhiễm môi trường, nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc trong Luật Bảo vệ môi trường và Bộ luật Dân sự Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục môi trường chỉ được quy định trong văn bản xử phạt vi phạm hành chính Đặc biệt, chưa có quy định cụ thể nào hướng dẫn về phương pháp xác định thiệt hại và mức bồi thường cho ô nhiễm môi trường, điều này gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật.
Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật môi trường
Để đáp ứng yêu cầu giảm thiểu ô nhiễm môi trường và thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW, cần đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường cần phải đảm bảo các yêu cầu cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
Cần sửa đổi và bổ sung các văn bản hiện hành để khắc phục tính thiếu nhất quán và không rõ ràng trong quản lý quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT) Việc ban hành văn bản mới là cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội chưa được quy định Cần thực hiện sửa đổi cơ bản Luật BVMT và các quy định liên quan đến môi trường trong các ngành luật, chú trọng đến các yếu tố môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giải quyết mối quan hệ giữa Luật BVMT và các văn bản luật chuyên ngành về môi trường.
Để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, cần phát huy đồng bộ sức mạnh của các biện pháp trong luật hành chính, hình sự, dân sự và kinh tế Đặc biệt, các biện pháp kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và yêu cầu bảo vệ môi trường.
Xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT) thông qua việc tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư là cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát công tác BVMT Chính quyền các cấp cần phối hợp và hỗ trợ để phát huy vai trò của xã hội, đa dạng hóa các hoạt động BVMT và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia dịch vụ BVMT Việc xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và doanh nghiệp là quan trọng Nội dung xã hội hóa BVMT bao gồm việc huy động tối đa sự tham gia của xã hội, xác lập các cơ chế khuyến khích và chế tài hành chính, hình sự một cách công bằng cho tất cả các cơ sở nhà nước và tư nhân Đồng thời, cần nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội trong công tác BVMT, đưa BVMT vào hoạt động của các khu dân cư và phát huy vai trò của các tổ chức này.
Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là về pháp luật, thông qua việc tìm kiếm cơ chế phù hợp để nội luật hoá các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường (BVMT) mà nước này đã ký kết Cần xác định rõ hiệu lực pháp lý của các cam kết đó và xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả tại Việt Nam Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế đã tham gia, ưu tiên thiết lập các chương trình và dự án đa phương cũng như song phương trong khu vực để nâng cao hiệu quả BVMT.
Bốn là, tăng nguồn chi cho sự nghiệp BVMT Từ năm 2006, ngân sách cho
BVMT đã được phân bổ một nguồn ngân sách riêng (chi sự nghiệp môi trường) với tỷ lệ tối thiểu 1% tổng chi ngân sách nhà nước Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, để đối phó với những vấn đề môi trường cấp bách, cần thiết phải tăng cường chi ngân sách cho lĩnh vực này.
Để đạt được một nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, sự nghiệp bảo vệ môi trường (BVMT) cần phải cải thiện chất lượng môi trường Điều này không chỉ giúp nâng cao đời sống người dân mà còn tạo ra nhiều cơ hội thụ hưởng tốt hơn cho cộng đồng.
Để nâng cao hiệu quả trong công tác phòng, chống tội phạm liên quan đến vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, Trung tướng Phạm Quý Ngọ - Thứ trưởng Bộ Công an đã đề xuất một số giải pháp cấp thiết cho thời gian tới.
Để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, cần tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời tăng cường nhận thức của cán bộ, chiến sĩ công an về nhiệm vụ này trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Cần rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến lực lượng cảnh sát môi trường, nhằm tham mưu cho Chính phủ và Quốc hội hoàn thiện quy định, tăng cường thẩm quyền điều tra và xử lý vi phạm Các kế hoạch và biện pháp nghiệp vụ cần được triển khai để phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường Bên cạnh đó, việc kiện toàn tổ chức và chức năng của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường là rất quan trọng Cần làm tốt công tác tuyển dụng, đào tạo và phân công cán bộ, đồng thời phối hợp với các nước có kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm môi trường.
Cần quan tâm đến việc kiện toàn và nâng cao năng lực của tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường, đặc biệt ở cấp cơ sở, nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường Cần thiết lập cơ chế và quy định rõ ràng về trách nhiệm phối hợp, phân công và phân cấp hợp lý trong nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường giữa các ngành, các cấp và lực lượng công an nhân dân.
Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường, bao gồm việc xây dựng quy định pháp luật về phí bảo vệ môi trường và giải quyết bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật về môi trường Đồng thời, tiếp tục sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các nghị định liên quan để đảm bảo sự đồng bộ và thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Luật bảo vệ môi trường đã được bổ sung với 18 quy định, trong đó quy định rõ thẩm quyền của cảnh sát môi trường và các lực lượng thanh tra chuyên ngành liên quan, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường.
Để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của công dân trong việc phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục Cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền về chính sách, pháp luật và thông tin môi trường, đặc biệt nhắm vào thanh niên Đồng thời, nội dung giáo dục về bảo vệ môi trường nên được tích hợp vào chương trình và sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân Việc tạo dư luận xã hội lên án nghiêm khắc các hành vi gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, kết hợp với áp dụng chế tài xử phạt nghiêm khắc, sẽ có tác dụng răn đe và ngăn ngừa vi phạm.
Năm nay, cần tăng cường phối hợp giữa thanh tra và kiểm tra công khai, kết hợp với điều tra xử lý các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ chủ trì cùng Bộ Công an rà soát và lập danh mục các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng để tư vấn cho Chính phủ có kế hoạch xử lý triệt để Đồng thời, cần quan tâm chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế chủ đạo, thực hiện nghiêm túc các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường.
Sáu là, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế để nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong việc xử lý ô nhiễm, khắc phục sự cố và bảo vệ môi trường.
KẾT LUẬN
Vi phạm pháp luật về môi trường và ô nhiễm môi trường là vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân và sự phát triển của xã hội Để đảm bảo sự phát triển bền vững, một quốc gia cần có môi trường trong sạch, an toàn Do đó, nhà nước và pháp luật cần có biện pháp nghiêm khắc đối với những kẻ vi phạm, nhằm răn đe và ngăn chặn ô nhiễm, đồng thời phục hồi và cải thiện môi trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển quốc gia.
Chúng ta cần nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, vì "Đoàn kết là sức mạnh" Khi mọi người thực sự quan tâm và cùng nhau hành động từ những việc đơn giản hàng ngày, xã hội và đất nước sẽ trở nên bền vững và phát triển Hãy nghiêm túc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và tuân thủ luật pháp liên quan!
Hình 1: Xét xử 3 bị cáo chôn 4.400 tấn rác thải san lắp mặt bằng ở TP Hồ Chí Minh
Hình 2: Phòng cảnh sát môi trường Công an tỉnh kiểm tra phát hiện một cơ sở xả thải chất thải chưa qua xửa lý ra môi trường ở H.Trảng Bom
Hình 3: Nước thải từ CCN Phú Lâm theo ống xả thẳng ra sông Ngũ Huyện Khê
Hình 4: Hội thảo đối thoại và tuyên truyền việc chấp hành pháp luật về môi trường trong xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở TP Hồ Chí Minh (30/12/2021)
Hình 5: Nước sông Thị Vải bị ô nhiễm nghiêm trọng do công ty TNHH Vedan VN xả thải trái phép nước thải chưa qua xử lý (2008)
Hình 6: Quốc hội thảo luận toàn thể tại hội trường về dự án Luật Bảo vệ môi trường