Bồ Tát Giáng Thần
Hộ-Minh Bồ-Tát, từ pháp hội của đức Ca-Diếp-Thế-Tôn, đã giữ gìn cấm giới và phạm hạnh trong sạch Sau khi mạng chung, Ngài chánh niệm sanh lên cõi Đâu-Suất-Đà-thiên.
Sau khi vãng sanh, Bồ-Tát trú tại nội-viện thiên-cung, nơi các cung điện ở cõi Đâu-Suất tỏa ánh sáng huy hoàng và trang nghiêm vô biên nhờ vào công đức của Hộ-Minh đại-sĩ Tại đây, các Đại-Phạm- thiên-vương và A-tu-la tụ hội, vây quanh Bồ-Tát để thỉnh cầu pháp âm Tuy nhiên, nhiều chúng-sanh khi lên cõi Đâu-Suất lại mê nhiễm vào sự vui ngũ dục, quên đi bản nguyện và hạnh tu trước kia Bồ-Tát, mặc dù thấy cảnh sắc ngũ dục tuyệt diệu, vẫn giữ vững trí tuệ và nhớ đến nhân duyên của mình, ứng hiện nơi cõi này để dẫn dắt chúng-sanh Thọ mạng của chư thiên ở Đâu-Suất kéo dài đến bốn ngàn năm, và Bồ-Tát đã thuyết pháp giáo hóa, chỉ rõ pháp tướng, mang lại niềm hoan hỷ cho đại chúng.
Khi vận kỳ gần đến, sắp phải giáng sinh thành Phật, Bồ-Tát quán sát năm việc:
1 Căn duyên của chúng-sanh đã thuần thục hay chưa?
2 Đã đến thời kỳ hóa độ chưa?
3 Trong châu Diêm-Phù-Đề, quốc độ nào ở chính giữa?
4 Trong các chủng tộc, tộc tánh nào quí thạnh?
5 Về nhân duyên quá khứ, ai là bậc chân chánh, đáng làm cha mẹ mình?
Sau khi quan sát năm việc, Ngài nhận thấy rằng các chúng-sanh mà Ngài giáo hóa từ khi phát tâm đã có thiện căn thuần thục Đây là thời điểm những người hữu duyên có khả năng tiếp nhận pháp mầu thanh tịnh Trong cõi Đại-thiên-thế-giới, nước Ca-Tỳ-La-Vệ nằm giữa châu Diêm-Phù-Đề, và trong các chủng tộc, họ Thích-Ca thuộc dòng Cam-Giá là quý thạnh nhất Về nhân duyên quá khứ, Bạch-Tịnh-Vương và Ma-Gia hoàng-hậu là những bậc hiền lương chân chánh, có thể trở thành cha mẹ của Ngài.
Bồ Tát Nhập Thai
Hộ-Minh Bồ-Tát quan sát con bạch tượng ở cõi trời, nhận thấy sức mạnh và sự vững vàng của nó như sư tử chúa Cưỡi trên tượng vương này, Ngài mang lại sự an lạc, không còn lo sợ hay rối loạn Ngài nhấn mạnh với chư thiên rằng: “Các vị nên biết, đã đến giờ ta giáng sinh Đây là lần thọ thân sau rốt của ta”.
Tại thành Ca-Tỳ-La, hoàng hậu Ma-Gia đã mơ thấy một vị Bồ-Tát cưỡi con bạch tượng sáu ngà, với đầu voi màu đỏ rực và ngà được trang trí bằng vàng, từ hư không hạ xuống và nhập vào hông bên phải của bà.
Bồ Tát Trụ Thai
Trong quá trình mang thai, có những chúng sinh không thể duy trì chánh niệm ở các giai đoạn khác nhau: khi nhập thai, khi trụ thai, hoặc khi xuất thai Một số trường hợp, họ có thể chánh niệm khi nhập thai nhưng lại không thể duy trì chánh niệm trong giai đoạn trụ thai hoặc xuất thai Điều này cho thấy sự đa dạng trong khả năng chánh niệm của từng chúng sinh trong suốt quá trình mang thai.
Khác với các chúng-sanh khác, Bồ-Tát khi trụ thai thường ở bên mặt, không di chuyển và không gây tổn thương cho người mẹ, giúp mẹ bầu giảm bớt sự nhọc nhằn và đau đớn trong quá trình mang thai.
Bồ-Tát khi trụ thai không bị nhiễm ô từ môi trường xung quanh, giống như bình báu lưu ly được bao bọc bởi áo trời, luôn giữ được sự tinh khiết dù ở trong hoàn cảnh không sạch sẽ Điều này cho thấy sự khác biệt giữa Bồ-Tát và các chúng-sanh khác, khi mà Bồ-Tát không trải qua sự kinh sợ hay ô nhiễm trong quá trình mang thai.
Khi mang thai, các sinh vật khác thường khiến người mẹ cảm thấy nặng nề và mệt mỏi Tuy nhiên, Bồ-Tát khi trụ thai, mẹ không chỉ không cảm thấy mệt mỏi mà còn luôn trong trạng thái an vui, dù là khi đi, đứng, nằm, ngồi hay nghỉ ngơi.
Khi trụ thai, các chúng-sanh thường chịu ảnh hưởng bởi những hành động không lành mạnh của người mẹ, như làm những tạp hạnh, dục tâm dồi dào, thèm khát các mùi vị, tham lam, bỏn xẻn, giận hờn, độc ác, hoặc có thân thể suy yếu, vàng da và gầy gò Ngược lại, khi Bồ-Tát trụ thai, người mẹ thường ưa giữ giới hạnh, tránh xa dục nhiễm, không tham đắm vào các mùi vị, ưa bố thí, thương xót và không làm tổn hại mọi loài, đồng thời có thân thể mạnh khỏe, dung sắc tươi vui.
Trên đây là những pháp vị tằng hữu của hàng Bồ-Tát (Kinh Phật-Bản-Hạnh)
Bồ Tát Đản Sanh
Hoàng hậu Ma-Gia đã mang thai gần đủ tháng, khi bà 45 tuổi Thiện-Giác trưởng giả đã cử sứ giả đến thành Ca-Tỳ-La để xin Tịnh-Phạn-Vương cho Ma-Gia về quê ngoại Câu-Ly an dưỡng chờ ngày sinh Vương đã đồng ý và giao cho quan Hữu-Tư sửa sang con đường từ Ca-Tỳ-La đến Đề-Bà-Đà-Ha, làm cho đường đi bằng phẳng, sạch sẽ Đồng thời, vua cũng chỉ đạo chuẩn bị xe báu, rải hương hoa và tổ chức âm nhạc để đưa Ma-Gia phu nhân về quê.
Trên đường trở về, hoàng hậu dừng chân tại vườn Lâm-Tỳ-Ni để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mùa hoa nở Trong vườn, cây Ba-la-xoa với tán rộng và cành rủ thấp tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp, hoa lá hòa quyện sắc xanh tím dưới ánh nắng Hương thơm nhẹ nhàng của hoa lan tỏa trong gió, mang lại niềm vui cho tâm hồn Hoàng hậu thong thả dạo quanh, rồi từ từ tiến đến cội Vô-ưu, ngước nhìn và đưa tay vịn vào cành cây.
Ánh sáng rực rỡ bao quanh và đất trời rung động khi Ma-Gia phu-nhân hạ sanh Bồ-Tát Trời Đế-Thích rải hoa sen trên lối đi, Bồ-Tát nhẹ nhàng bước đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương Một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất, Ngài tuyên bố: “Đây là thân sau rốt của ta Trên trời dưới trời, chỉ có…”
"Ta là tôn quí hơn cả" là câu nói thể hiện sự cao quý của bản thân Trong khoảnh khắc đó, Long-vương đã phun hai loại nước: một ấm và một mát, để tắm gội cho Bồ-Tát, thể hiện sự tôn kính và thiêng liêng trong nghi lễ này (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự)
Tịnh-Phạn-Vương, sau khi nhận được tin, đã nhanh chóng tổ chức quân đội cùng với quyến thuộc và một số lượng lớn người Thích-chủng, hướng về vườn Lâm-Tỳ-Ni Khi đến nơi, vua thấy Thái-tử trong trang phục lạ lùng và trang nghiêm, lòng ông tràn ngập niềm hoan hỷ.
Bảy ngày sau khi sinh, hoàng hậu Ma-Gia ly trần và được đưa lên cung trời Đao-Lợi, nơi bà hưởng phước tự nhiên nhờ vào công đức lớn lao từ việc hoài thai Bồ-Tát (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Sau bảy ngày ở vườn Lâm-Tỳ-Ni, Thái-tử được đưa về thành Ca-Tỳ-La, nơi Vua Tịnh-Phạn đặt tên cho Thái-tử là Tất-Đạt-Đa (Siddhàrtha - Nghĩa-Thành).
Tiên Nhơn Xem Tướng
Sau khi hoàng hậu qua đời, Tịnh Phạn Vương đã giao Thái tử cho bà Ba Xà Ba Đề (Prajàpati) nuôi dưỡng Đồng thời, Ngài cũng triệu tập các thầy tướng số đến cung điện để xem tướng cho Đông cung Sau khi xem xong, các thầy tướng số đều bẩm báo với Đại vương.
Theo sách cổ, người sở hữu đủ 32 tướng sẽ có hai vận mệnh: một là trở thành Chuyển-luân-thánh-vương, thống trị bốn châu và sở hữu bảy báu, hai là nếu xuất gia, chắc chắn sẽ thành Phật và cứu độ vô lượng chúng sinh Khi Vua hỏi về những tướng mạo ấy, các tướng sư đã giải thích rõ ràng từng tướng trong 32 tướng, khiến Tịnh-Phạn-Vương rất vui mừng.
Vào ngày đó, Thủ-môn-quan thông báo rằng A-Tư-Đà tiên xin yết kiến Vua đã mời tiên vào, đảnh lễ và thỉnh ngồi trên bảo tọa, sau đó hỏi: “Tiên trưởng có điều gì dạy bảo?” Đạo-sĩ đáp: “Thưa Đại-vương! Tôi xem thiên tượng và biết rằng Ma-Nạp-Bà-Tỷ-Giả Bồ-Tát đã vào thành này Nay nghe Đại-vương vừa sinh Thái-tử, tôi muốn xin được thấy mặt.”
Quan Ngự-thị thưa: “Thái-tử hiện đang ngủ” Tiên-nhơn mỉm cười đọc bài kệ:
Ngựa hay không ngủ nhiều, Nửa đêm tạm thời nghỉ, Việc định làm chưa xong, Sao để say thần trí?
Vua truyền bảo rằng khi quan Ngự-thị bồng Thái-tử vào đại điện, Ngài bỗng mở mắt với vẻ mặt tươi tỉnh Đạo-sĩ A-Tư-Đà lặng lẽ xem tướng và hỏi ý kiến các tướng sư khác Vua đã thuật lại lời của tiên-nhơn.
Các tướng sư ấy nói chẳng đúng, Trong đời mạt-pháp không Luân-vương
Nếu như bậc chúa hóa bốn châu, Thì tướng Luân-vương chưa hiện đủ
Mà nay có được thắng duyên nầy, Quyết định về sau sẽ thành Phật
Vua Tịnh-Phạn nghe nói Thái-tử sau sẽ tu hành, chứng Cam-lộ-pháp, thì lặng lẽ không vui (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự)
Thái Tử Học Tập Văn Võ
Thái-tử lớn lên trong sự chiều chuộng của Tịnh-Phạn-Vương, được cấp đầy đủ xe cộ và năm trăm kẻ thương đầu để hầu hạ Khi lên bảy tuổi, vua mời 500 vị Bà-La-Môn tài đức vào hoàng cung để dạy Thái-tử các môn học như thiên văn, địa lý, toán số, kỹ thuật, nghị luận, văn học và võ nghệ Trong số các giáo sư, ông Tỳ-Xa-Mật-Đa-La nổi bật về văn học, còn ông Sằn-Đề-Đề-Bà tinh thông võ nghệ Trí thông minh của Thái-tử rất phi thường, nhanh chóng nắm vững mọi ngành học, khiến các thầy giáo cảm thấy tự ti trước sự hiểu biết sâu rộng của Ngài Cuối cùng, họ vừa tự thẹn vừa kính nể, tôn xưng Thái-tử là bậc thầy trước khi ra về.
Khi Thái-tử mười bảy tuổi, vua triệu tập quần thần để bàn về hôn phối cho con Một quan đại thần đề xuất cô gái Gia-Du-Đà-La, con gái của trưởng giả Ma-Ha-Na-Ma, với trí huệ thông minh và tư dung xinh đẹp Sau khi quan sát, vua quyết định tổ chức lễ cưới Sau hôn nhân, Thái-tử và Gia-Du công nương thường sánh đôi, nhưng Thái-tử lại tỏ ra lãnh đạm với thế tục, thích ngồi thiền và chuyên tâm tu hành vào ban đêm.
Công-nương Gia-Du-Đà-La cũng có hiệu là Cù-Di, cha là Ma-Ha-Na-Ma tức Xá-
Di trưởng-giả Thủy-Quang và mẹ Nguyệt-Nữ phu-nhân chào đón sự ra đời của Cù-Di vào lúc mặt trời sắp lặn, tạo nên ánh sáng rực rỡ trong nhà, vì vậy công-nương được gọi là Minh-Nữ Ngoài Cù-Di, Thái-tử còn có hai bà phi khác là Gia-Duy-Đàn, con của Di-Thi Bà-La-Môn, và Lộc-Dã, con của Thích trưởng-giả Vua Tịnh-Phạn đã xây dựng ba tòa điện cho ba vương-tức, mỗi điện có đến hai vạn thể nữ.
Mấy Cuộc Nhàn Du
Một hôm, Thái-tử nghe các cung nữ hát về vẻ đẹp của vườn cây và tiếng suối reo, khiến Ngài nảy sinh ý định du ngoạn Ngài suy nghĩ rằng nếu cứ ở trong cung, Ngài sẽ không bao giờ biết được cảnh vật bên ngoài Sau đó, Thái-tử đã tâu với Phụ-vương xin phép ra ngoài thành để khám phá Vua Tịnh-Phạn vui vẻ đồng ý và sai quan quân đi cùng Đông-cung.
Khi đến cánh đồng, Thái-tử chứng kiến những người nông phu vất vả dưới ánh nắng gay gắt, họ làm việc chăm chỉ trong bộ quần áo lam lũ Ngài thấy côn trùng bị đứt đoạn khi cày đất, và những con chim tranh nhau bắt chúng để ăn Cảnh tượng này khiến Thái-tử cảm thấy thương xót và tự hỏi: “Cuộc đời thật đầy nhọc nhằn và khổ sở như vậy sao? Làm thế nào để cứu vớt chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ?” Trở về thành, Ngài mang theo nỗi trăn trở trong lòng.
Sau một thời gian, Thái-tử xin phép vua cha cho ra ngoài thành du lãm và cùng quan quân ra cửa thành phía đông Trong lúc vui vẻ dạo chơi, Ngài gặp một ông lão lưng còm, tóc bạc, sức lực suy yếu, dù có chống gậy nhưng vẫn đi đứng nhọc mệt Cảnh tượng ấy khiến Ngài suy nghĩ về sự trôi chảy của thời gian và sự không thể tránh khỏi của tuổi già: “Dù mình có quyền thế và giàu sang, nhưng làm sao thoát khỏi cảnh già nua? Tại sao mọi người lại không nhận ra nỗi khổ sẽ đến với mình và tìm cách giải thoát, mà vẫn an nhiên trong vòng dục lạc?”
Thái-tử ra dạo cửa thành phía nam, nơi vua Tịnh-Phạn đã cho sửa sang đường sá và trang trí bằng lọng, phướn cùng hương hoa Tuy nhiên, trong lúc du ngoạn, Thái-tử bắt gặp một người bệnh gầy yếu, tay chân run rẩy, đang được dìu đi Ngài lập tức dừng lại, xuống xe, ân cần hỏi thăm và tặng chuỗi ngọc cho thân nhân bệnh nhân để lo thuốc thang Cảnh tượng đó làm Thái-tử mất hết hứng thú vui chơi, và Ngài đã truyền lệnh cho quan hộ vệ đưa xe trở về cung.
Lần thứ ba, Thái-tử dạo chơi ở cửa thành phía Tây, nhưng sau những lần du ngoạn trước, vua Tịnh-Phạn nhận thấy con có vẻ u buồn Để giúp Thái-tử, vua đã cử một Bà-La-Môn trẻ tuổi, Ưu-Đà-Di, đi theo làm bạn Vua cũng ra lệnh ngăn không cho người già và bệnh tật ra đường, đồng thời trang trí các lối đi và khuôn viên ngoài thành với âm nhạc và vũ điệu để tạo không khí vui tươi Tuy nhiên, khi đoàn du ngoạn đang vui vẻ, họ gặp một đám xác đi đến, theo sau là những người thân khóc lóc thảm thiết Khi biết đó là đám xác được đưa đi hỏa táng, Thái-tử tỏ ra buồn bực và quyết định quay xe trở về, mặc dù Ưu-Đà-Di đã cố gắng khuyên ngăn.
Sau một thời gian, Thái-tử xin vua cha cho đi dạo ngoài cửa thành phía bắc Tịnh-Phạn-Vương không nỡ ngăn cản, nhưng đã cẩn thận ngăn chặn mọi tầm nhìn bất tường cho Thái-tử Vua cho sửa sang khung cảnh du ngoạn trang nghiêm và khuyên Thái-tử nên cưỡi ngựa để chiêm ngưỡng cảnh đẹp Sáng hôm sau, Thái-tử cùng Ưu-Đà-Di và quan thuộc cưỡi ngựa ra ngoài thành Khi đến một khu vườn, Ngài ngồi yên lặng dưới gốc cây, suy nghĩ về già, bệnh, chết Từ xa, một vị Sa-môn xuất hiện, mang theo bát và tích trượng Thái-tử cảm thấy hoan hỷ và hỏi vị Sa-môn về mục đích tu hành Vị Sa-môn giải thích rằng thế gian vô thường và người đời thường bị cuốn vào dục vọng, mục đích tu hành của ông là thoát khỏi tham lam để đạt được Niết-bàn và giúp đỡ chúng sinh.
Nghe những lời ấy, Thái-tử cảm thấy lo lắng trước đây tan biến, mở ra con đường quyết định Ngài thốt lên: “Lành thay! Trong đời, chỉ có việc này là cao quý nhất.” Trên đường trở về, Thái-tử luôn tươi cười, nhưng khi vào hoàng thành, nét mặt Ngài bỗng trở nên lo buồn.
Thái Tử Xuất Gia
Sau khi trở về từ bốn cửa thành, Ưu-Đà-Di nhận thấy Thái-tử đang trầm tư và lo ngại về quan niệm thoát tục của Ngài Ông khuyên Thái-tử rằng, theo truyền thống, các bậc vương giả thường trải qua sự vui vẻ của ngũ dục trước khi xuất gia, nhưng điều cốt yếu vẫn là trách nhiệm với việc trị nước và bổn phận gia đình Tuy nhiên, Thái-tử đã phản hồi rằng không phủ nhận niềm vui từ ngũ dục, nhưng đặt ra câu hỏi về sự tồn tại của các vương giả hiện tại.
Câu hỏi đặt ra là liệu con người có bị đọa lạc do say mê dục lạc, gây nên nhiều nghiệp duyên tội chướng hay không? Mặc dù việc trị nước và an dân là quan trọng, nhưng vị trí quốc vương có thể được thay thế bởi những người tài đức khác Tình nghĩa gia tộc cũng cần thiết, nhưng theo quan điểm của tôi, tình thương rộng lớn dành cho tất cả sinh linh và nhiệm vụ cứu độ muôn loài thoát khỏi khổ đau trong luân hồi mới là điều đáng trân trọng hơn Ưu-Đà-Di đã cố gắng biện luận để khuyên ngăn, nhưng cuối cùng vẫn không thể thuyết phục được.
Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng về nỗi khổ của già, bệnh, chết, Thái-tử đã quyết định chọn con đường tu hành như một cách để thoát khỏi những khổ đau đó và tìm kiếm hy vọng cho cuộc sống.
Một hôm, Thái-tử Tất Đạt Đa, khi thấy vua Tịnh-Phạn vui vẻ, đã thỉnh cầu cha cho phép xuất gia tu hành để cứu độ bản thân và chúng sanh, vì ông nhận ra rằng giàu sang và quyền thế chỉ là tạm bợ Vua Tịnh-Phạn, nghe lời con, cảm thấy đau đớn như bị đá chày Kim-cang đập nát, run rẩy và nghẹn ngào, chỉ biết khuyên Thái-tử bỏ ý định đó để tránh làm cha sầu não Thái-tử, thấy cha bi lụy, đã lặng lẽ trở về cung và âm thầm suy nghĩ về con đường thoát ly.
Khi phát hiện Thái-tử có ý định rời khỏi cung điện, vua Tịnh-Phạn đã ra lệnh cho quân lính canh gác hoàng thành 24/7 Ông cũng giao nhiệm vụ cho công-nương Gia-Du-Đà-La và các nội quan phải theo dõi sát sao, và lập tức thông báo nếu Thái-tử có bất kỳ hành động nào khác thường.
Sau một đêm tiệc tùng, Thái-tử không thể ngủ, suy nghĩ về sự trôi qua nhanh chóng của tuổi xuân và quyết tâm xuất gia Ngài nghe thấy tiếng nói khuyên mình nên nhanh chóng rời bỏ cuộc sống trần tục Công-nương Gia-Du-Đà-La tỉnh dậy và chia sẻ giấc mơ kỳ lạ của mình, nhưng Thái-tử an ủi rằng đó chỉ là chiêm bao Sau khi công-nương ngủ lại, Thái-tử gọi Xa-Nặc mang ngựa đến, mặc dù Xa-Nặc lo lắng về sự an toàn Thái-tử khẳng định rằng Ngài muốn cứu độ chúng sinh khỏi phiền não Họ lặng lẽ rời khỏi thành và đến bờ sông A-Nô-Ma, nơi Thái-tử cắt tóc, thay trang phục sa-môn Xa-Nặc buồn bã, nhưng Thái-tử trấn an rằng cuộc sống có hợp tan, và Ngài gửi lời xin lỗi đến cha mẹ và công-nương trước khi bước vào hành trình mới.
Vào đêm mùng tám tháng hai, Thái-tử đã 29 tuổi và có con trai tên là La-Hầu-La (Ràhula) Theo Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả trong Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự, Thái-tử xuất gia khi mới 19 tuổi, lúc đó công nương Gia-Du đang mang thai.
Vua Tịnh-Phạn đã cho năm người tôn thân gồm Kiều-Trần-Như, A-Thấp-Bà, Bạt-Đề, Ma-Ha-Nam và Thập-Lực-Ca-Diếp đi theo Thái-tử để làm thị-giả sau khi Thái-tử xuất gia.
Thái Tử Hỏi Đạo
Sau khi xuất gia, Thái tử đã tìm đến nơi ở của Bạt-Già-Bà tiên-nhơn (Bhàrgava) để tìm hiểu về đạo Tại đây, Ngài chứng kiến những người tu hành thực hiện nhiều hình thức khổ hạnh khác nhau, như mặc y phục làm từ cỏ, vỏ cây hoặc lá cây Một số người chỉ ăn một bữa mỗi ngày, trong khi có người chỉ ăn một lần sau hai hoặc ba ngày Ngoài ra, cũng có những người thờ nước, lửa, hoặc thờ mặt trời và mặt trăng.
Thái-tử hỏi các tu sĩ về lý do họ chịu khổ hạnh, và Bạt-Già-Bà trả lời rằng họ mong muốn được sinh lên cõi trời Tuy nhiên, Thái-tử chỉ ra rằng các vị thiên đế dù hưởng nhiều vui vẻ nhưng cũng phải đối mặt với vòng luân hồi và khổ đau khi phước hết Ông cho rằng con đường tu hành của họ chỉ là đổi khổ lấy vui giả tạm, tương tự như những người đi biển tìm của báu hay quốc vương đánh giặc vì đất đai, nhưng những thứ này không phải là vĩnh viễn thuộc về họ Do đó, lý tưởng của họ không phải là con đường giải thoát thực sự.
Thái tử đã đến gặp A-Ra-La-Ca-Lan tiên-nhơn gần kinh thành Tỳ-Xá Ly để tìm hiểu về đạo giải thoát Qua cuộc đối thoại, Ngài nhận ra rằng vị tiên-nhơn coi cảnh giới Vô-sở-hữu-xứ là Tối-thượng-niết-bàn Tuy nhiên, cảnh giới này chỉ là kết quả của việc siêu việt mọi tư tưởng hữu vi, và khi đạt được, thân tâm tạm nghỉ nhưng cái “ta” do nhân duyên giả tưởng vẫn còn tồn tại Sự hiện diện của cái “ta” này chính là nguồn gốc của khổ đau Thái tử nhận thức rằng đây chưa phải là con đường cứu cánh giải thoát, vì vậy Ngài đã từ biệt vị tiên-nhơn để tiếp tục hành trình tìm kiếm chân lý.
Sau khi rời khỏi nơi đó, Thái tử đã đến gặp tiên nhân Uất-Đà-La-Ca-Ma-Tử (Udraka Ràmaputra) tại khu rừng bên ngoài thành Vương-Xá (Ràjagrha) để đặt câu hỏi.
“Làm thế nào để đoạn được sanh-tử?” Tiên-nhơn đáp:
Từ nơi ngã mạn Sanh ra si tâm
Từ nơi si tâm Mới có ngã ái
Từ nơi ngã ái Sanh năm vi trần
Từ nơi ngũ đại, sanh tham, sân, si dẫn đến luân hồi, bao gồm sanh, già, bệnh, chết cùng với buồn, khổ, thương, lo Nay tôi xin trình bày một cách lược đại khái về những khía cạnh này.
Thái-tử hỏi về phương tiện dứt trừ sanh-tử theo chủ thuyết của tiên trưởng Tiên-nhơn giải thích rằng để đoạn trừ sanh-tử, cần phải xuất-gia, giữ giới, nhẫn nhục và khiêm tốn, tránh xa những điều ác, sống ở nơi vắng vẻ và tu tập thiền định Qua quá trình tu tập lâu dài, tâm sẽ trở nên yên tĩnh và có khả năng giác ngộ, dẫn đến việc đạt được Sơ-thiền Tiếp theo, cần loại bỏ giác quán, định tâm thêm thuần, từ đó lòng sẽ được hoan hỷ và tiến vào những trạng thái cao hơn.
Nhị-thiền dẫn đến trạng thái hoan hỷ và chánh niệm, từ đó đạt được niềm vui nhiệm mầu trong Tam-thiền Tiếp theo, cần phải loại trừ tâm khổ vui để đạt được tịnh niệm và xả căn, tiến vào Tứ-thiền Tuy nhiên, Tứ-thiền chưa phải là giải thoát; cần tiếp tục loại bỏ sắc tưởng để đạt Không-xứ-định, dứt hữu đối tưởng để đạt Thức-xứ-định, diệt vô lượng thức tưởng chỉ còn một thức để đạt Vô-sở-hữu-định, và cuối cùng lìa các thứ tưởng để đạt Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-định Đây là cứu cánh giải thoát, là bỉ ngạn của người tu Thái-tử đặt câu hỏi về môn định Phi-phi-tưởng: liệu có ta hay không ta? Nếu không có ta thì không thể gọi là Phi-phi-tưởng; nếu có ta thì ta có biết hay không? Nếu không biết, ta giống như gỗ đá, còn nếu biết thì tâm đã bị phan duyên, và như vậy không thể đạt được giải thoát.
Tiên-nhơn nghe nói lặng thinh (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Chương năm - Đức Thích Tôn Sau Khi Thành Đạo
Bài viết này tóm tắt nội dung từ nhiều kinh điển Phật giáo như Kinh Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm và Kinh Đại-Bát-Niết-Bàn, nhấn mạnh vào hai tiết mục đầu về lịch sử thành đạo của Đức Phật và những suy tư của Ngài khi chuẩn bị ra độ sanh Tiết thứ ba giải thích khái niệm chuyển pháp-luân và ba bậc pháp-luân từ thiển cận đến thâm thúy Tiết thứ tư lược thuật những nơi Đức Thế-Tôn du hóa cùng với các đồ chúng của Ngài Tiết thứ năm tập trung vào đời sống của hàng xuất-gia và tổ chức giáo đoàn Cuối cùng, bài viết diễn giải ý nghĩa Niết-bàn và di chúc của Đức Thế-Tôn, nhấn mạnh việc lấy pháp luật làm thầy, giải thoát làm mục tiêu và tam học làm phương tiện.
Tóm lại, sáu tiết mục của toàn chương tóm tắt nửa đoạn đời sau của Phật, từ khi Ngài thành đạo, thực hiện hóa duyên cho đến khi vào Niết-bàn Mặc dù nội dung có phần thô sơ, nhưng vẫn được coi là đầy đủ.
Đêm Thành Đạo
Sau khi tìm kiếm sự giác ngộ ở nhiều nơi nhưng không đạt được kết quả, Thái-tử đã đến tụ lạc Ưu-Lâu-Bệ-La bên sông Ni-Liên-Thiền thuộc miền Đông-bắc Ấn-Độ Ngài đã tu hành khổ hạnh tại Khổ-hạnh-lâm cùng với các ngoại đạo trong sáu năm, chỉ ăn một hạt mè và một hạt đậu mỗi ngày, khiến thân thể gầy gò chỉ còn da bọc xương Trong thời gian này, Ngài đã đối mặt với nhiều loại phiền não như tham dục, ưu sầu, đói khát, và sân hận Sau một thời gian dài khổ hạnh mà không đạt được gì, Thái-tử nhận ra rằng cả cuộc sống phóng túng lẫn khắc khổ đều không phải là con đường dẫn đến giải thoát Cuối cùng, Ngài đã tắm gội sạch sẽ ở sông Ni-Liên-Thiền và nhận bát sữa cúng dường từ mục nữ Thiện-Sanh.
Sau khi thọ thực trở lại, sức khỏe và dung sắc của Thái-tử dần phục hồi Nhận thấy điều này, năm người thị giả tưởng Ngài đã thối chuyển và rời đi đến Ba-La-Nại-Tư Thái-tử một mình đến Phật-Đà-Già-Da, rải cỏ kiết tường làm tòa ngồi kiết già dưới gốc cây Tất-bát-la, hướng về phương Đông Trước khi thiền định, Ngài thề rằng: “Nếu không chứng được đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì dù thân này có tan nát, ta cũng quyết không rời khỏi nơi đây.” Sau khi phát nguyện, Thái-tử yên lặng thiền tư trong 49 ngày Vào đêm mùng tám tháng chạp, sau khi hàng phục ma quân, Thái-tử ngồi lặng lẽ trong thiền định.
Vào khoảng canh hai, Ngài đạt được Túc-mạng-minh, hiểu rõ nghiệp nhân của mình và tất cả chúng-sanh trong nhiều đời trước, từ việc làm thiện ác, gia đình, đến sự giàu sang hay nghèo hèn, thọ yểu hay xấu đẹp, cùng tên họ trong từng đời Đến nửa đêm, Ngài chứng được Thiên-nhãn-minh, thấy rõ ba cõi sáu đường, những cảnh giới an vui hay khổ sở, cùng hình dáng chúng-sanh xinh đẹp hay xấu xa, rõ ràng như nhìn vào gương.
Khi ánh sao mai xuất hiện, Ngài đạt được Lậu-tận-minh, loại bỏ hoàn toàn phiền não và hiểu rõ nguồn gốc của nghiệp duyên Tâm Ngài trở nên lặng yên và sáng suốt, và vào khoảnh khắc đó, Ngài đã thành Phật.
Nội dung của sự giác ngộ chân chánh có khả năng giải đáp một cách thỏa đáng vấn đề nhân sanh Trước đây, Ngài đã băn khoăn về hai yếu điểm quan trọng.
1 Già, bệnh, chết và tất cả sự ràng buộc khổ não của kiếp người do đâu mà có?
2 Làm thế nào để giải thoát những điều ấy?
Và đây là lời giải đáp:
1 Do Vô-minh làm mê mờ bản thể, nên mới có sanh, già, bệnh, chết, lo thương buồn rầu
Để đạt được giải thoát, cần có chánh kiến để loại bỏ phiền não và quay về bản tánh, điều này đòi hỏi phải tu tập theo con đường Bát-chánh Đây là nguyên lý cốt lõi của Phật giáo Nguyên thủy, bao gồm cả giáo lý Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên.
Thái tử Tất-Đạt-Đa đạt được giác ngộ vào tuổi 35 (theo một số nguồn, là 30 tuổi) và được tôn vinh với danh hiệu Thích-Ca-Mâu-Ni Như-Lai (Sàkyamuni - Năng-Nhân-Tịch-Mặc).
Hai Mươi Mốt Ngày Suy Nghĩ
Sau khi đạt Chánh-giác, Đức Thế-Tôn đã ngồi thiền dưới cội cây Tất-bát-la trong bảy ngày đầu, nơi Phạm-vương đến thỉnh Ngài chuyển pháp-luân Trong bảy ngày tiếp theo, Ngài ngồi dưới cội cây A-du-ba-la, và Ma-vương đã khuyên Ngài nhập diệt Tiếp đó, trong bảy ngày thứ ba, Ngài ngồi dưới cội cây Mục-chân-lân-đà, nơi mà Mục-chân-lân-đà Long-vương đã hiện ra với bảy đầu để che mưa gió cho Ngài Trong suốt 21 ngày, Đức Thế-Tôn đã lặng lẽ suy xét và nhận lời thỉnh của Phạm-vương trong bảy ngày đầu, sau đó Ngài đã dùng Phật nhãn để quán sát các căn cơ và phiền não của chúng sinh Quyết tâm độ sanh, Đức Như-Lai đã đến cội cây La-xà-gia-hằng-na để thiền định, nơi có hai thương chủ là Đề-Vị.
- Bạt-Đà-La-Lê) và Bà-Lỵ-Ca (Bhallika - Bạt-Đà-La-Tư-Ca) cùng đồng bọn gồm
Đức Thế-Tôn đã truyền Tam-quy cho 500 khách buôn sau khi họ thọ thực cúng dường bánh và mật từ hai thương chủ Họ đã quy-y Phật, quy-y Pháp và quy-y Tăng, trở thành những đệ tử tại gia đầu tiên của Ngài.
Đức Thế-Tôn ban đầu ngồi yên lặng, không thuyết pháp vì nhận thấy Phật đạo nhiệm mầu khó hiểu đối với chúng sinh Tuy nhiên, với lòng từ bi sâu sắc, Ngài đã quyết định theo lời thỉnh cầu của Phạm-vương và sử dụng nhiều phương tiện để dẫn dắt chúng sinh vào cảnh giới tự chứng của Như-Lai Ngài nhớ đến hai tiên nhân A-Ra-La-Ca-Lan và Uất-Đà-La-Ca-Ma-Tử, nhưng khi quan sát, Ngài thấy họ vừa mới qua đời Ngài cũng nhận thấy năm người ông Kiều-Trần-Như đang ở vườn Lộc-dã tại Ba-La-Nại, nơi mà các chư Phật trong quá khứ đã chuyển pháp luân lần đầu tiên, vì vậy Ngài quyết định đứng dậy và đi đến đó.
Giữa đường, Đức Thế-Tôn gặp A-Kỳ-Bà-Ca, một giáo đồ của đạo Kỳ-Na, người này cảm thấy kính trọng trước vẻ an nhiên của Ngài và đã hỏi về đạo và thầy của Ngài Đức Thế-Tôn đã trả lời bằng một bài kệ, thể hiện sự sâu sắc trong giáo lý của Ngài.
Ta là bậc tối thắng Đã thoát hết ái-dục Không nhiễm một pháp nào
Tự giác không có thầy
Vì ngộ đạo vô thượng Đạo nầy không chi hơn Như-Lai, thầy trời người Thành tựu, biết tất cả
A-Kỳ-Bà-Ca lại hỏi: “Hiện thời, Ngài đi qua đâu?” Đức Phật đáp:
Ta đến Ba-La-Nại Đánh trống diệu cam lồ Chuyển pháp-luân vô thượng Người đời chưa từng chuyển
Khi Đức Thế-Tôn đến vườn Lộc-Dã, nhóm ông Kiều-Trần-Như đã hẹn nhau không đứng dậy đón chào Ngài Tuy nhiên, ngay khi Ngài vừa đến, cả năm người bất giác đứng lên lễ kỉnh, một người trải tòa ngồi, người khác đỡ lấy y bát, nhưng vẫn gọi Ngài là Trưởng-lão Cù-Đàm.
Đức Phật Chuyển Pháp Luân
Đức Thế-Tôn đã nhấn mạnh rằng năm người không nên gọi Ngài là Trưởng-lão mà phải xưng là Phật, vì Ngài đã đạt được Nhất-thiết-trí và giải thoát khỏi nghiệp hữu lậu Ngài khuyến khích họ tu hành để đạt trí huệ sáng suốt, dứt phiền não và thành tựu phạm hạnh Ngài chỉ ra rằng người xuất-gia cần tránh hai chướng ngại: đắm chìm trong dục cảnh và tự làm khổ mình mà không suy nghĩ chín chắn Để đạt Niết-bàn, họ cần giữ mực trung và tinh cần tu tập Sau đó, Ngài đã chuyển pháp-luân Tứ-Đế ba lần, giúp năm người Kiều-Trần-Như chứng quả A-la-hán, trong khi tám muôn na-do-tha chư Thiên trên không cũng được nghe pháp mầu và đạt pháp nhãn tịnh.
Lúc ấy năm người đã thấy đạo tích, liền đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa rằng:
Hôm nay, năm người muốn xuất gia tu hành trong Phật pháp đã đến xin Đức Phật cho phép Đức Phật chúc phúc họ và ngay lập tức, râu tóc của họ tự rụng, trang phục biến thành áo cà sa Từ đó, thế gian có Tam bảo: Đức Phật là Phật bảo, pháp luân Tứ đế là Pháp bảo, và năm vị A-la-hán là Tăng bảo.
Chuyển pháp-luân, hay còn gọi là Đạt-ma (Dharma), mang ý nghĩa là pháp luật, pháp tắc, và là chân lý căn bản của mọi sự vật Đây là khái niệm quan trọng trong triết lý, thể hiện sự chuyển biến và phát triển của các quy luật tự nhiên và xã hội.
"Luân" nguyên ngữ là Chước-ca-la (Cakra), biểu thị cho vũ khí hình bánh xe của Luân-vương trong việc dẹp giặc Khi Luân-vương với oai đức lớn ra đời, bánh xe này xuất hiện trên hư không, giúp vua dẫn quân đánh bại kẻ thù Do đó, vị vua chinh phục bốn phương thường được gọi là Chuyển-pháp-luân-vương Giáo pháp của Đức Phật được ví như bánh xe của Luân-vương, có khả năng phá tan điều ác và tà thuyết, và khi Phật thuyết pháp, đó được gọi là Chuyển pháp-luân.
Các đấng Như-Lai khi nói ra điều gì đều được gọi là chuyển pháp-luân, giống như luân-bảo của thánh-vương có khả năng hàng phục những kẻ chưa khuất phục và đem lại sự an ổn cho những kẻ đã khuất phục Pháp của chư Phật cũng vậy, có thể điều phục vô lượng phiền não và giúp cho những ai đã được điều phục phát sinh căn lành.
Nầy Thiện-nam-tử, như luân bảo của thánh-vương có khả năng tiêu diệt mọi kẻ thù, thì Như-Lai cũng vậy, Ngài thuyết pháp để làm cho tất cả phiền não đều lắng xuống.
Thiện-nam-tử, như luân bảo của thánh-vương có khả năng xoay vần lên xuống, thì thuyết pháp của Như-Lai cũng tương tự, giúp chúng sanh ở các cõi thấp được sinh lên nẻo nhân thiên, cho đến khi đạt được Phật đạo.
Khi ấy, Thắng-Nghĩa-Sanh Bồ-Tát thưa:
Bạch Thế-Tôn, khởi đầu tại Lộc-dã-uyển, Ngài đã chuyển pháp-luân Tứ-đế dành cho những người theo Thanh-Văn-thừa Dù pháp-luân này có ý nghĩa đặc biệt, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thấu hiểu, vì còn tồn tại những pháp khác cao thượng hơn, mở rộng hơn, tạo cơ hội cho các cuộc tranh luận phát sinh.
Trong kỳ thuyết pháp thứ hai, Thế-Tôn giảng dạy cho những người phát tâm Đại-thừa rằng tất cả pháp đều không có tự tính và không sanh diệt, mà bản chất của chúng là Tự-tính-niết-bàn vắng lặng Mặc dù lối chuyển pháp-luân này rất đặc biệt và hiếm có, nhưng nó vẫn chưa phải là sự hiểu biết hoàn toàn, vì còn tồn tại những pháp khác cao thượng và bao quát hơn, tạo ra cơ hội cho các nguồn tranh luận.
Trong kỳ thuyết pháp thứ ba, Ngài đã giảng dạy cho những người cầu Nhất-thiết-thừa rằng tất cả pháp đều không sanh diệt và bản chất của chúng là Tự-tánh-niết-bàn-vô-tự-tánh vắng lặng Pháp-luân này mang tính hiển liễu đặc biệt, thể hiện chân lý sâu sắc mà không còn gì cao thượng hơn Các nguồn tranh luận không còn chỗ để chen vào, khẳng định tính chân thật của giáo lý.
Nhân Duyên Giáo Hóa
Đức Thế-Tôn thể hiện lòng từ bi bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo hay địa vị xã hội Ngài hóa độ mọi người tùy theo căn tánh của họ, từ kẻ tiện dân như Ưu-Ba-Ly, đến hàng dâm nữ như Liên-Hoa-Sắc và cả những kẻ hung ác như Ương-Quật-Ma-La Ngài luôn dành tình thương và sự khuyên dạy cho tất cả.
Sau khi Kiều-Trần-Như trở về chánh pháp, Trưởng lão Gia-Xá và nhiều người khác đã quy y Tam-bảo, tạo thành một cộng đồng với sáu mươi vị A-la-hán Trong mùa mưa, Đức Phật cùng đồ chúng an cư tại Ba-La-Nại-Tư Sau mùa an cư, Ngài gửi đệ tử đi tuyên dương đạo giải thoát, trong khi Ngài đi dọc sông Ni-Liên-Thiền để khuyến giáo hàng Bà-La-Môn thờ lửa Tại đây, Đức Phật đã hóa độ ba anh em Ưu-Lâu-Tần-Loa-Ca-Diếp, Na-Đề-Ca-Diếp và Dà-Gia-Ca-Diếp, cùng với 1000 đồ chúng của họ.
Đức Thế-Tôn cùng các môn đệ đến thành Vương-Xá, thủ đô của nước Ma-Kiệt-Đà, để hóa độ vua Tần-Bà-Sa-La Sau khi quy y chánh-pháp, vua đã nhờ trưởng giả Can-Lan-Đà xây dựng ngôi Trúc-lâm tinh-xá trong khu vườn tre râm mát để cúng dường Tam-bảo Tại đây, có hai vị cao đồ của ngoại-đạo San-Xà-Dạ là Xá-Lợi-Phất và Đại-Mục-Kiền-Liên, nổi tiếng về trí tuệ Một ngày, khi đệ tử của Phật là A-Thuyết-Thị đi khất thực, Xá-Lợi-Phất thấy vị Tỷ-khưu này có oai nghi đáng kính và đã hỏi về thầy của ông Mã-Thắng đã đáp rằng thầy của mình là Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni và dùng bài kệ để trả lời câu hỏi của Xá-Lợi-Phất.
Các pháp nhân duyên sanh Cũng theo nhân duyên diệt Nhân duyên sanh diệt nầy Như-Lai hằng tuyên thuyết
Xá-Lợi-Phất sau khi nghe bài kệ đã tỏ ngộ và trở về thuật lại cho Mục-Kiền-Liên Cả hai cùng quy y Phật và đạt quả A-la-hán Hai trăm năm mươi môn đồ của họ cũng xin quy đầu Phật-pháp Vào thời điểm này, Đức Thế-Tôn đã có 1.250 vị A-la-hán thường xuyên đồng hành trong các cuộc giáo hóa của Ngài.
Tại bản xứ, Ðức Như-Lai đã thể hiện thần thông để hàng phục Lục-sư-ngoại-đạo, thu hút sự tín ngưỡng của dân chúng và khuyến khích nhiều người xuất gia Tuy nhiên, do dư luận phiền phức nảy sinh, Đức Phật đã quyết định hạn chế việc xuất gia, yêu cầu mọi người phải có sự chấp thuận của cha mẹ.
Sau khi du hóa, Ðức Như-Lai trở về thành Ca-Tỳ-La để hướng dẫn các quyến thuộc và hàng Thích-chủng Ngài đã dẫn dắt vua Tịnh-Phạn cùng các vương-tử vào chánh-pháp Trong số các vương-tử, có La-Hầu-La (Ràhula), con trai của Ngài, cùng với người em khác mẹ Nan-Đà (Nanda), em họ A-Nan-Đà (Ànanda), Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) và A-Nâu-Lâu-Đà (Anuruddha), tất cả đều xin xuất-gia theo Phật.
Một hôm, Ðức Điều-Ngự ở vườn Đa-căn-thọ, bà Kiều-Đàm-Di đến thưa rằng:
Bạch Thế-Tôn! Người nữ có thể xuất-gia làm Bí-sô-ni trong chánh-pháp và chứng được quả thứ tư không? Đức Như-Lai khuyên rằng Di-mẫu nên cư gia mặc đồ trắng mà tu theo phạm hạnh Bà Kiều-Đàm-Di ba lần thỉnh cầu nhưng Phật vẫn điềm nhiên, khiến bà ra ngoài khóc Thị-giả A-Nan, sau khi biết chuyện, khuyên bà nên chờ và lập lại lời thỉnh cầu với Phật Đức Thế-Tôn xác nhận rằng người nữ tu hành cũng có thể chứng bốn đạo quả Sa-môn, nhưng nếu để nữ nhân xuất-gia thì chánh-pháp sẽ không trụ lâu nơi đời, ví như gia đình có nhiều nữ thì dễ bị tội ác phá hoại Đức Phật đã dùng nhiều thí dụ để minh họa, nhưng A-Nan nài nỉ vì di-mẫu có công với Phật Cuối cùng, Đức Thế-Tôn chỉ ra rằng nếu người nữ muốn xuất-gia trong chánh-pháp của Ngài, cần phải giữ tám phép cung kính.
1 Nên cung kính theo bậc Tỷ-khưu-tăng mà cầu xuất-gia
2 Mỗi nửa tháng phải đến nơi chư Tăng cầu dạy bảo
3 Không được an-cư ở chỗ không có chư Tăng
4 Chư Tăng được quyền gạn lỗi của Ni, nhưng Tỷ-khưu-ni không được gạn hỏi và nói lỗi của bên Tăng
5 Tỷ-khưu-ni không được giận hờn, mắng trách Tỷ-khưu-tăng
6 Tỷ-khưu-ni dù được 100 tuổi hạ, khi thấy Tỷ-khưu-tăng mới thọ giới cũng phải cung kính đảnh lễ
7 Tỷ-khưu-ni nếu phạm Học-pháp, khi bố-tát phải đến trong hai chúng làm pháp Ma-na-đỏa
8 Khi an-cư xong, Tỷ-khưu-ni phải đến trong hai chúng cầu xin tự-tứ về ba việc: thấy, nghe, nghi
Bà Kiều-Đàm-Di cùng 500 thị nữ đã được Phật cho xuất gia nhờ vào việc ưng thuận giữ gìn Bát-kính-pháp Đức Thế-Tôn sau đó đến thành Xá-Vệ, thủ phủ của nước Kiều-Tát-La, để hóa độ Tại đây, vua Ba-Tư-Nặc và Thái-tử Kỳ-Đà, cùng trưởng giả Tu-Đạt-Đa, đã bày tỏ lòng kính mến đối với giáo lý của Phật Hai người đã phát nguyện xây dựng ngôi Kỳ-Viên tinh-xá để cúng dường Tam-bảo.
Sau khi Đức Thế-Tôn đạt được giác ngộ được 5 năm, vua Tịnh-Phạn đã qua đời Công chúa Gia-Du-Đà-La được Đức Phật hướng dẫn và đã xuất gia trở thành Tỷ-khưu-ni.
Trong suốt 45 năm thuyết pháp, Ðức Thế-Tôn đã du hóa khắp các vùng miền, bao gồm hai nước chính là Ma-Kiệt-Đà và Kiều-Tát-La Về phương bắc, Ngài đến xứ Ca-Tỳ-La-Vệ gần núi Tuyết, phương tây là vùng Câu-Diệm-Di (Kosambi) và Ma-Thâu-La (Mathurà), phương đông là xứ Chiêm-Ba (Campà), và phương nam là Ba-La-Nại-Tư (Bàrànasì) Tất cả các địa điểm này đều nằm trong lưu vực sông Hằng và sông Kha-Cách-Ra (Grogra).
Hàng Phật-tử tại gia đã hiến dâng nhiều tinh xá và lâm viên cho ngôi Tam bảo, trong đó nổi bật có Can-Lan-Đà-Trúc-Lâm ở Ma-Kiệt-Đà và Thệ-Đa-Lâm ở Xá-Vệ Tại đây, bà Tỳ-Xá-Khê đã cúng dường khu Đông-viên, bao gồm giảng đường Lộc-Tử-Mẫu rộng lớn Đức Phật thường cư trú tại những nơi mát mẻ như Linh-Thứu-Phong gần thành Vương-Xá, Ôn-Tuyền-Lâm gần Tỳ-Xá-Ly, và Ngưu-Giác-Sa-La-Lâm bên sông Di-Hầu Tuy nhiên, hai tinh xá Kỳ-Viên và Trúc-Lâm là nơi Đức Phật thường xuyên giảng đạo nhất Trong số đệ tử xuất gia, có những vị danh tiếng như Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, và A-Nan, được gọi là Thập-đại-đệ-tử, cùng với các đệ tử tại gia nổi bật như vua Tần-Bà-Sa-La và bà Tỳ-Xá-Khê Giáo đồ của Phật ở Ấn Độ thời bấy giờ rất đông đảo và có sức ảnh hưởng vượt trội so với các giáo phái khác.
Trong suốt cuộc đời giáo hóa, Đức Phật đã phải đối mặt với nhiều sự phản đối từ các ngoại phái, đặc biệt là giáo chúng đạo Kỳ-Na Trong số các đệ tử của Ngài, Đề-Bà-Đạt-Đa đã ba lần mưu hại Ngài bằng cách cho người thả voi say rượu, thuê kẻ ác để ám sát, và xô đá từ trên núi xuống nơi Đức Phật nằm Tuy nhiên, cả ba lần mưu đồ đều không thành công Đề-Bà-Đạt-Đa tự xưng mình là bậc Đại-Giác, trong khi cho rằng Sa-môn Cù-Đàm không phải là bậc Đại-Giác Ông còn tự chế ra năm pháp nhằm phá hoại giới luật của Đức Phật.
1 Trọn đời mặc áo phấn tảo
2 Trọn đời chỉ khất thực để nuôi sống
3 Trọn đời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa
4 Trọn đời duy ở ngoài trời, không nương ngụ chùa, hang, tinh-xá
5 Trọn đời không dùng thịt, cá, sữa, mật và các thứ mỹ vị
Đề-Bà-Đạt-Đa, với sự phá hoại của mình, đã thu hút một số người và gây cản trở cho công cuộc giáo hóa của Đức Phật Từ lòng ác độc đó, ông không lâu sau đã phải chịu hình phạt trong Địa-ngục.
Giáo Đồ Đạo Phật
Trong thời kỳ độ sanh, Ðức Thế-Tôn vừa tự mình du hóa, vừa giao phó cho các Tăng đoàn, do những vị Tỷ-khưu đức hạnh lãnh đạo, nhiệm vụ truyền bá đạo pháp đến khắp nơi Đệ tử của Ngài được chia thành bảy chúng khác nhau.
1 Tỷ-khưu (Bhiksu): Phái xuất-gia nam, từ 20 tuổi trở lên, đã thọ giới Cụ-túc
2 Tỷ-khưu-ni (Bhiksuni): Phái xuất-gia nữ, từ 20 tuổi trở lên, đã thọ giới Cụ-túc
3 Sa-di (Sràmanera): Phái xuất-gia nam đã thọ 10 giới
4 Sa-di-ni (Sràmaneri): Phái xuất-gia nữ đã thọ 10 giới
5 Thức-xoa-ma-na (Siksamàna): Phái xuất-gia nữ, trong thời gian hai năm học giới để thọ giới Cụ-túc
6 Ưu-bà-tắc (Upàsaka): Phật-tử tại-gia phái nam
7 Ưu-bà-di (Upàsika): Phật-tử tại-gia phái nữ
Trong đây gồm có năm chúng xuất-gia, và hai chúng tại-gia
Tăng-già, hay còn gọi là giáo đoàn đạo Phật, mang ý nghĩa đại chúng và hòa hợp Thuật ngữ này có nghĩa rộng và hẹp, do đó được chia thành ba loại khác nhau.
Lý tưởng Tăng-già không phân biệt giữa tại gia và xuất gia, vì mọi người đều là Phật tử và có khả năng chứng ngộ nếu quyết tâm tu hành Tăng-già có thể được khảo sát theo hai phương diện: về phần lượng, tất cả chúng sanh đều nằm trong Tăng-già; về phần chất, mọi chúng sanh đều có tiềm năng chứng ngộ.
2 Hiện-thật-tăng-già: Hạng nầy chỉ dành riêng cho năm chúng xuất-gia, đúng với hình thức, danh nghĩa và sự tổ chức
Hội nghị Tăng-già được xác định dựa trên số lượng người tham gia, với yêu cầu tối thiểu là bốn người để được công nhận là Tăng-già; nếu có ba người trở xuống, sẽ chỉ được gọi là “Quần” (Gana) Tùy thuộc vào mục đích của pháp sự, Hội nghị Tăng-già có thể được phân loại thành năm loại: hội nghị bốn người, năm người, mười người, hai mươi người và hội nghị từ hai mươi người trở lên.
Sau mười hai năm đầu sau khi thành đạo, Ðức Thế-Tôn đã chế định giới luật để hướng dẫn sinh hoạt và tu hành cho các đệ tử, do số lượng đồ chúng đông đảo và xuất hiện những hành vi phi hạnh Các giới pháp được thiết lập bao gồm Ngũ-giới, Bát-quan-trai-giới, Thập-giới, Thức-xoa-giới, Cụ-túc-giới và Bồ-Tát-giới Trong đó, Ngũ-giới và Bát-quan-trai-giới dành cho người tại gia, ba giới còn lại dành cho người xuất gia, và Bồ-Tát-giới áp dụng cho cả hai nhóm.
Về sự sinh hoạt, người xuất-gia còn phải nương vào Tứ-y-pháp:
1 Y vào khất thực để sinh sống
2 Y vào áo vải thô để che thân
3 Y nơi cội cây để ngủ nghỉ
4 Y vào thuốc hủ nát để chữa bịnh
Pháp Tứ-y nhấn mạnh rằng người xuất gia không nên sống cuộc đời xa hoa, mà thay vào đó, họ tìm kiếm sự thanh đạm để đạt được sự mãn nguyện Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng địa phương, thời đại và hoàn cảnh cụ thể, người xuất gia vẫn có thể nhận sự hỗ trợ từ giảng đường, tinh xá, cũng như thức ăn, trang phục và thuốc men do đàn việt cúng dường, mà không vi phạm các nguyên tắc của Tứ-y-pháp.
Vật sở hữu của người xuất gia được chia thành hai loại: Cá nhân sở hữu và Tăng già sở hữu Cá nhân sở hữu bao gồm những vật dụng như áo cà sa, bát, đãy lọc nước, dao cạo, ống kim chỉ, tọa cụ, khăn tay Trong khi đó, Tăng già sở hữu là những tài sản chung như vườn cây, giảng đường, tinh xá, giường bàn, mà tất cả chư Tăng đều có quyền sử dụng.
Công việc hằng ngày của người xuất-gia bao gồm việc ngồi thiền hoặc đàm đạo về lời Phật dạy vào buổi sáng Trước giờ ngọ, họ đi khất thực và mang thức ăn về tinh-xá hoặc dưới cội cây để thọ trai vào giữa trưa Sau khi thọ trai, họ thực hành đi kinh hành và chỉ tịnh Vào buổi chiều, họ có thể chuyên tu hành, giảng đạo hoặc nghe thuyết pháp Vào buổi tối, họ họp lại để bàn về pháp thoại và tham thiền Sự sinh hoạt này diễn ra theo đoàn thể, trong khi lối sống cá nhân có thể khác nhau tùy theo nguyện vọng của từng người Tóm lại, lối sống của người xuất-gia chủ yếu là nhằm mục đích độ mình và độ người.
Bộ phận quy luật của hàng xuất gia bao gồm các loại giới pháp và Kiền-độ (Khandaka), định chế về thọ giới, bố-tát, an-cư, tự-tứ, được gọi chung là Tăng-sự Trong các thọ giới, giới Cụ-túc chia thành hai hạng: hạng thứ nhất là Phá-kiết-sử Tỷ-khưu, do các Trưởng-lão Tỷ-khưu truyền, yêu cầu giới tử phải đủ sáu căn và từ 20 tuổi trở lên Hạng thứ hai là Thiện-lai Tỷ-khưu, do Phật hứa khả, dành cho những người có đủ đức tánh Tỷ-khưu mà không cần tuân theo quy định tuổi tác.
Nghi thức Bố-tát (Upavasatha) diễn ra hai lần mỗi tháng, vào tối trời (hắc nguyệt) và sáng trăng (bạch nguyệt) Kỳ hắc nguyệt được tổ chức vào ngày cuối tháng, trong khi kỳ bạch nguyệt diễn ra vào ngày trăng tròn Trong những ngày này, các Tăng, Ni thực hiện nghi lễ trong phạm vi kiết giới Sau khi thực hiện lễ bạch yết-ma, một vị sẽ tụng giới bổn, trong khi những người còn lại lặng yên ngồi nghe Mỗi người tự phản tỉnh và nếu có ai vi phạm điều luật, họ phải đứng ra trước đại chúng để tỏ bày và sám hối.
Theo thời tiết, ở Ấn-Độ mỗi năm có ba mùa, mỗi mùa có bốn tháng:
1 Mùa nóng Tháng thứ nhất Chaitra
Tháng thứ hai Vaisàkha Tháng thứ ba Jyeshtha Tháng thứ tư Àshàda
2 Mùa mưa Tháng thứ năm Sràvan
Tháng thứ sáu Bhàdrapada Tháng thứ bảy À'svina Tháng thứ tám Kàrttika
3 Mùa lạnh Tháng thứ chín
Màrgásirsha Tháng thứ mười Pushya Tháng thứ mười một
Màgha Tháng thứ mười hai Phalguna
Xứ Ấn Độ thuộc vùng nhiệt đới, vào mùa mưa, cây cỏ phát triển mạnh mẽ và côn trùng sinh sản Đường xá trở nên lầy lội, các khe suối có thể tràn ngập lối đi, khiến Đức Phật khuyến khích các đệ tử xuất gia hội họp tại một nơi trong ba hoặc bốn tháng để thuận tiện cho việc tu hành và bảo vệ sinh vật Quy chế này được gọi là Vũ-kỳ-an-cư (Varsàvasàna) Vào ngày cuối của khóa an cư, lễ Tự-tứ (Pravàrana) được tổ chức, cho phép các vị xuất gia tự do chỉ ra lỗi lầm của nhau trong thời gian tu tập, nhằm nâng cao sự nghiêm chỉnh và tinh tấn của Tăng đoàn trong con đường tu hành.
Giáo đồ tại gia, sau khi thọ Tam quy, chính thức gia nhập cộng đồng Phật tử Tùy thuộc vào khả năng, những ai có thể giữ Ngũ giới, Bát giới hay Bồ Tát giới có thể đến Tăng đoàn để xin truyền thọ Nhiệm vụ chung của Phật tử tại gia là giữ quy giới tu hành và nỗ lực hết mình để ủng hộ chánh pháp.