1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm. Niệm Phật phải an nhẫn với các chướng duyên.

60 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Niệm Phật Phải An Nhẫn Với Các Chướng Duyên
Tác giả Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Thể loại niệm phật thập yếu
Năm xuất bản 2015
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 1,2 MB

Cấu trúc

  • Tiết 62: Vài nguyên nhân của các chướng duyên (6)
  • Tiết 63: Các duyên ma khảo (8)
    • 1. Nội khảo (8)
    • 2. Ngoại khảo (12)
    • 3. Nghịch khảo (14)
    • 4. Thuận khảo (16)
    • 5. Minh khảo (17)
    • 6. Ám khảo (20)
    • 1. Sao gọi là Báo Oan Hạnh? (23)
    • 2. Thế nào là Tùy Duyên Hạnh? (27)
    • 3. Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh? (28)
    • 4. Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh? (29)
  • Tiết 65: Cách Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển (31)
    • 1. Thân không cầu không bịnh (31)
    • 3. Tu tâm không cầu không chướng ngại (32)
    • 4. Lập hạnh không cầu không bị ma chướng (32)
    • 6. Giao hảo không cầu mình được lợi ích (32)
    • 7. Đối với người không cầu được sự thuận thảo (32)
    • 8. Làm ơn không cầu báo đáp (32)
    • 9. Thấy lợi không cầu mình được phần (32)
    • 10. Bị oan ức không cầu biện minh (33)
  • Tiết 66: Sự An nhẫn của cư sĩ Tiền Vạn Dật (43)

Nội dung

Vài nguyên nhân của các chướng duyên

Người tu có ba chướng: Phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng, trong đó nghiệp chướng là nặng nề và nguy hiểm nhất Khi chưa tu, chúng ta không gặp chướng nạn, nhưng khi tu hành cao hơn, chướng nạn lại xuất hiện nhiều hơn Điều này xảy ra vì chúng ta là phàm phu trong thời mạt pháp, và phần lớn chướng duyên đều nặng Nếu nghiệp nhẹ, chúng ta đã sanh vào thời tượng pháp hoặc chánh pháp Chướng nạn không phải do tu hành mà phát sinh, mà là kết quả của việc chuyển nghiệp, từ quả báo nặng thành nhẹ, và từ quả báo đời sau thành hiện tại Ví dụ, nếu có mười phần nghiệp chướng, nhờ công đức tu hành, chúng ta có thể tiêu trừ được bảy phần, chỉ còn ba phần xuất hiện Quả báo đáng lẽ đến sau, nhưng nhờ sức tu niệm, chúng ta chỉ phải chịu quả nhẹ trong kiếp này để sớm được giải thoát.

Tuy nhiên, không phải mỗi người tu đều bị trả quả

Có người càng tu càng có điểm tốt, càng được an thuận,

Phiền não chướng, hay còn gọi là “hoặc chướng”, bao gồm tất cả những phiền não làm rối loạn thân tâm, chủ yếu là ba yếu tố căn bản: Tham, Sân, Si Nghiệp chướng đề cập đến những tội ác, dù nặng hay nhẹ, mà con người tạo ra trong cuộc sống Báo chướng phản ánh mọi nỗi khổ mà chúng ta gặp phải trong đời, do nghiệp nhân từ các kiếp sống trước tạo nên.

Người không bị trở ngại trong cuộc sống thường là những người đã tích lũy nhiều căn lành từ những kiếp trước, hoặc đã từng tu niệm, do đó không tạo ra nghiệp nặng nề.

Phần lớn mọi người đều gặp phải chướng ngại trong cuộc sống, dù là lớn hay nhỏ Ngoài những trở ngại từ môi trường xung quanh, còn có ba nguyên nhân chính gây ra chướng nghiệp.

Theo tông Pháp Tướng, trong tạng thức của mỗi người chứa đựng những nghiệp chủng thiện ác lẫn lộn Khi chúng ta niệm Phật hoặc tham thiền, việc này giúp huân tập hạt giống công đức vô lậu, khiến các nghiệp chủng này được phát hiện Tương tự như một khu rừng rậm, khi có người đến khai hoang, cây cối bị đốn và các loài thú phải chạy ra Cảnh tướng và phiền não chướng duyên cũng phát sinh từ việc các nghiệp chủng này được bộc lộ, đây được gọi là sức phản ứng của chủng tử nghiệp.

Một số vị tu hành chưa hiểu rõ giáo lý và những biểu hiện của nội tâm cũng như ngoại cảnh, dẫn đến nhận thức sai lầm về chân và vọng Hệ quả là họ phát sinh tâm niệm tham chấp, vui mừng, lo lắng và sợ hãi đối với cảnh duyên xung quanh, tự tạo ra chướng ngại cho chính mình.

Người tìm kiếm mỏ vàng giống như một kẻ theo đuổi ước mơ, phải vượt qua những thử thách như núi cao, vực sâu, đồng hoang và rừng rậm Hành trình này đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và chịu đựng nhiều gian khổ.

- Nếu người ấy không vững lòng, không biết tùy sức tùy hoàn cảnh mà nhẫn nại uyển chuyển, tất phải thối lui

- Hoặc có khi bỏ cuộc ghé vào một cảnh tạm nào đó, hay chết giữa đường

Lộ trình tu tập yêu cầu hành giả phải thực hành theo kinh giáo, nhưng cần linh hoạt và kiên nhẫn tùy thuộc vào sức lực và hoàn cảnh Nếu không, sự quyết tâm sẽ không bền vững và dẫn đến thất bại, mà nguyên nhân chính lại do chính bản thân mình tạo ra.

Các duyên ma khảo

Nội khảo

1.1 Có người trong lúc tu tập, bỗng khởi lên những tâm niệm: Tham lam, giận hờn, dục nhiễm, ganh ghét, khinh mạn, nghi ngờ, hoặc si mê dễ hôn trầm buồn ngủ

Những tâm niệm ấy đôi khi phát hiện rất mãnh liệt, gặp duyên sự nhỏ cũng dễ sanh cau có bực mình

1.2 Nhiều lúc trong giấc mơ, lại thấy các tướng thiện ác biến chuyển Trong đây những tình tiết chi ly không thể tả hết được

Khi gặp phải những cảnh ngộ này, hành giả cần nhận thức rằng đó là do năng lực tu hành mà nghiệp tướng hiện ra Ngay lúc này, hãy giác ngộ rằng các nghiệp tướng chỉ là ảo ảnh, giữ vững chánh niệm, và tự nhiên những tướng này sẽ dần dần biến mất.

- Nếu không nhận thức rõ ràng, tất bị nó xoay chuyển làm cho thối đọa

- Tiên đức bảo: “Chẳng sợ nghiệp khởi sớm, chỉ e giác ngộ chậm” chính là điểm này

1.3 Có người đang lúc dụng công, bỗng phát sanh tán loạn mỏi nhọc khó cưỡng nổi

Khi cảm thấy tâm không an, bạn nên đứng lên lễ Phật hoặc đi kinh hành, hoặc tạm thời ra ngoài đọc sách và sửa sang một vài cành hoa Hãy chờ cho tâm hồn được thanh tĩnh trước khi trở lại niệm Phật.

Nếu không có ý thức và cố gắng ép buộc bản thân đạt được tâm an nhanh chóng, chúng ta sẽ càng trở nên rối loạn hơn Điều này thể hiện sự linh hoạt trong quá trình tu tập, giống như việc đối phó với một kẻ thù mạnh mẽ.

9 nước tràn, người chủ soái phải tùy cơ, nên cố thủ chớ không nên ra đánh

1.4 Có vị tu hành, khi niệm Phật bỗng thấy cô tịch như bản đàn độc điệu dễ sanh buồn chán:

- Thì không ngại gì phụ thêm trì chú, quán tưởng, hoặc tụng kinh

1.5 Nhân tiện, xin thuật ra đây một việc để cho các bạn đồng tu thêm phần nhận thức

Một nữ Phật tử đã đến gặp tác giả với nỗi buồn, chia sẻ rằng mỗi khi cô niệm Phật và tụng kinh, chỉ sau vài mươi phút, cô thường ngủ gục mà không hay biết, có khi còn tiểu tiện ngay trước bàn thờ Phật Vì vậy, cô cảm thấy sợ tội và đã quyết định không dám tiếp tục tụng niệm nữa.

Bút giả khuyên cô nên chuyên sám hối trong một thời gian Quả nhiên ít lâu sau cô dứt hẳn nghiệp tướng ấy

Cô nằm mơ thấy nhiều vỏ ốc, mỗi khi đập vỏ ốc ra lại thấy một hạt sen bên trong Vỏ ốc biểu trưng cho nghiệp si, trong khi hạt sen tượng trưng cho sự phá tan si mê, dẫn đến thành tựu nhân lành và giác ngộ, giúp cô vãng sanh về cõi Phật.

- Lại có một vị sa di trần thuật lại rằng: Cứ ít đêm chú nằm mơ, thấy ba bốn mươi người cầm dao gậy đến đánh chém

Chú đã cố gắng tụng trì Đại Bi và Chuẩn Đề chân ngôn nhưng không đạt được kết quả như mong muốn, khiến chú bị nhức đầu suốt cả ngày dù đã uống thuốc Nhận thức được nghiệp nặng, chú quyết định phát nguyện lạy Tam Thiên Phật để sám hối Tuy nhiên, khi lên chùa lễ Phật, chú gặp một người có tướng mạo hung dữ cản trở không cho lạy Trong tâm trạng buồn bã, chú thổ lộ rằng: "Có tội thì sám hối tu hành, nhưng sám hối tu hành không được, chẳng biết phải làm sao?"

Bút giả nhận thấy rằng vị này có nghiệp sát nặng, trong khi chú Đại Bi và Chuẩn Đề có khả năng phá nghiệp mạnh mẽ Tuy nhiên, việc chỉ cầu nguyện cho bản thân mà không nghĩ đến các vong oan trái là một thiếu sót Cách thức phá nghiệp cũng cần phải khéo léo, giống như người bệnh phong nặng cần dùng thuốc nhẹ như Phòng Phong Kinh Giới để từ từ tiêu trừ, thay vì vội vàng dùng thuốc mạnh như Mã Tiền Bả Đậu, điều này sẽ khiến bệnh tình thêm trầm trọng.

Bút giả khuyên mỗi đêm nên thực hành lạy Tiểu Sám Hối theo Kinh Pháp Hoa, quỳ tụng Vãng Sanh hăm mốt biến, và niệm Phật độ năm trăm câu để cầu tiêu tội, đồng thời nguyện cho các mối tiền oan được siêu thoát Nếu kiên trì thực hiện trong một thời gian và thấy yên ổn, có thể tăng dần số lần tụng niệm Theo lời chỉ dẫn của chú sa di, trạng thái tiêu cực sẽ được dứt tuyệt.

Trên đây là những nghiệp tướng khảo đảo bên trong, nếu không biết giác ngộ uyển chuyển phá trừ, tất sẽ thành ra chướng nạn.

Ngoại khảo

Đây là những chướng cảnh bên ngoài làm duyên khó khăn thối đọa cho hành giả Chứng cảnh đó là:

1.1 Sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc chỗ quá rét lạnh hay nhiều trùng kiến muỗi mòng

Gặp cảnh này cũng nên uyển chuyển, đừng chấp theo hình thức, chỉ cầu được an tâm Chẳng hạn như:

Trong những ngày nóng bức, việc mặc áo tràng mỏng để lễ Phật không hề làm giảm đi sự thành tâm Sau khi ngồi ở nơi mát mẻ để trì niệm, tôi trở lại bàn thờ để phát nguyện hồi hướng, thể hiện lòng thành kính và sự tôn trọng đối với Đức Phật.

- Hoặc gặp chỗ nhiều muỗi, có thể ngồi trong màn thưa mà niệm Phật

- Như ở miền bắc Trung Hoa vì thời tiết quá lạnh, các sư khi lên chánh điện tụng kinh, cũng phải mang giày vớ và đội mũ cẩn thận

1.2 Có hàng Phật tử vì nhà nghèo, làm lụng vất vả, đi sớm về khuya, hoặc nợ nần thiếu hụt, rách rưới đói lạnh, vợ yếu con đau, hoặc không có chỗ thờ cúng trang nghiêm

Trong bối cảnh khó khăn, việc tu tập đòi hỏi sự kiên nhẫn và nỗ lực, giống như bà lão ăn xin luôn niệm Phật, mới có thể đạt được thành công.

1.3 Hoặc có người vì nhiều chướng nghiệp, lúc không tu thì thôi, khi sắp vào bàn Phật lại nhức đầu chóng mặt sanh đủ chứng bịnh, hay có khách viếng thăm và nhiều việc bất thường xảy đến

Khi đối mặt với những tình huống khó khăn, chúng ta cần nỗ lực và linh hoạt trong việc tìm kiếm con đường tu hành Sự cố gắng này phải được điều chỉnh phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, không thể diễn đạt hết bằng lời Quan trọng là trong những lúc bất đắc dĩ, chúng ta nên chú trọng đến tâm hồn hơn là hình thức bên ngoài để có thể tìm thấy sự hòa hợp.

Cõi Ta Bà ác trược vẫn nhiều khổ lụy, nếu không có sức cố gắng kham nhẫn, tất sự tu hành khó mong thành tựu.

Nghịch khảo

Trên đường đạo, nhiều khi hành giả bị nghịch cảnh làm cho trở ngại

- Có người bị cha mẹ anh em hay vợ chồng con cái ngăn trở hoặc phá hoại không cho tu

- Có vị thân mang cố tật đau yếu mãi không lành

- Có kẻ bị oan gia luôn theo đuổi tìm cách mưu hại

- Có người bị vu oan giá họa, khiến cho ngồi tù chịu tra khảo hoặc lưu đày

Sự ganh ghét và cạnh tranh thường dẫn đến những tiếng xấu và khó khăn trong cuộc sống Những tình huống này thường xảy ra và là hệ quả của nghiệp lực mà mỗi người phải đối mặt.

Câu nói "Hữu bất ngu chi dự, hữu cầu toàn chi hủy" nhấn mạnh rằng có những lời khen và vinh dự bất ngờ không xứng đáng nhận được sự tán dương, trong khi những sự kiện thực sự không đáng bị chỉ trích lại bị chê bai một cách toàn diện.

14 Để chứng minh điểm này, bút giả xin thuật một vài việc nhỏ:

Vào thời Pháp thuộc, một vị hòa thượng được triều đình Huế phong tặng hiệu chùa Sắc Tứ, luôn có xe ngựa và người hầu theo bên Một tên du đảng bất mãn đã tuyên bố sẽ đến chùa mắng hòa thượng vào ngày rằm tháng bảy Tuy nhiên, sau khi uống rượu, khi chứng kiến một Phật tử nhờ hòa thượng chú nguyện cho con qui, hắn cảm động và quyết định quy y Từ đó, hắn không ngừng ca ngợi hòa thượng là người hiền lành, đạo đức, và cho rằng việc hầu hạ là do phước báu của thầy mình.

Hai Phật tử từ xa đến thăm một vị thượng tọa quen biết, nhưng khi họ đến chùa, vị thượng tọa đã rời đi khoảng mười lăm phút trước đó Khi hỏi ông thị giả, họ được biết thầy vừa đi, còn những người khác thì không rõ và chỉ nói rằng mới thấy thầy ở đây.

Hai Phật tử đã nảy sinh nghi ngờ về vị thượng tọa, cho rằng ngài không muốn tiếp đón họ Họ quyết định từ biệt và không quay lại chùa, đồng thời đi đâu cũng chê bai vị thượng tọa với những lời lẽ không đức hạnh.

Cung cách của vị hòa thượng không thực sự đáng khen, nhưng lại được khen ngợi Ngược lại, hành động vô tâm của vị thượng tọa lại bị hiểu lầm và chỉ trích Trong thế gian, điều này thường được xem là may rủi, trong khi thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng đó là lúc nghiệp duyên tội phước bộc lộ Như cổ thi đã nói:

Vẻ chi ăn uống sự thường

Cũng là tiền định khá thương lọ là

Khi đối diện với những nghịch cảnh trong cuộc sống, chúng ta cần nhận thức rằng chúng thường xuất phát từ nghiệp lực, cả túc nghiệp lẫn hiện nghiệp Trong những tình huống khó khăn này, hành giả nên thực hành sự ẩn nhẫn và sám hối, thay vì buồn phiền hay oán trách, để không làm mất đi đạo tâm của mình.

Thuận khảo

Một số người có thể trải qua những điều thuận lợi, như cầu mong gì cũng được, nhưng thành công thực sự vẫn phụ thuộc vào duyên phận, chứ không phải là sự giải thoát Trong khi đó, có những người khi phát tâm tu hành lại bỗng nhiên bị cuốn vào những cám dỗ của danh lợi, sắc đẹp và âm thanh.

- Hoặc nhiều người thương mến muốn theo phụng sự gần bên

- Hoặc như người xuất gia khi phát tâm tu, bỗng có kẻ đến thỉnh làm tọa chủ một ngôi chùa lớn;

Người tại gia có thể nhận được những lời mời hấp dẫn như làm tổng, bộ trưởng hoặc tham gia vào các cuộc làm ăn phát tài nhanh chóng Những cám dỗ này có thể dẫn đến những phiền toái khác, làm mất đi đạo niệm Thực tế, người ta ít chết vì lửa nhưng lại nhiều hơn vì nước, vì vậy, những cảnh thuận lợi trên con đường tu hành thực sự có thể đáng sợ hơn cả những cảnh nghịch.

Cảnh nghịch đôi khi làm cho hành giả tỉnh ngộ dễ thoát ly niệm tham nhiễm, hoặc phẫn chí lo tu hành

Còn cảnh thuận làm cho người âm thầm thối đạo lúc nào không hay, khi bừng tỉnh mới thấy mình đã lăn xa xuống dốc

Người xưa có câu: "Việc thuận tốt được ba Mê lụy người đến già," nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cảnh giác trước những cám dỗ trong cuộc sống Vì vậy, những thử thách trong hành trình tu tập rất tinh tế, đòi hỏi người tu phải luôn chú ý và nhận thức rõ ràng.

Minh khảo

17 Đây là sự thử thách rõ ràng trước mắt mà không tự tỉnh ngộ

1- Chẳng hạn như một vị tài đức không bao nhiêu, nhưng được người bưng bợ khen là nhiều đức hạnh, tài năng, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu tự đắc, khinh thường mọi người, làm những điều càn dở, kết cuộc bị thảm bại

2- Hoặc một vị có đủ khả năng tiến cao trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác gàn trở, như bảo ăn chay sẽ bị bịnh, niệm Phật trì chú nhiều sẽ bị đổ nghiệp, gặp nhiều việc không lành Sau khi nghe rồi sanh ra e dè lo sợ, thối thất đạo tâm

3- Hoặc có những cảnh tự mình biết nếu tiến hành dễ rước lấy sự lỗi lầm thất bại, nhưng vì tham vọng hay tự ái, vẫn đeo đuổi theo

4- Hoặc đối với các duyên bên ngoài, tuy biết đó là giả huyễn nhưng không buông bỏ được, rồi tự chuốc lấy sự buồn khổ vào tâm

Một vị sư đã đầu tư nhiều công sức để xây dựng một ngôi chùa lớn trên núi, thuê thợ chẻ đá, thợ mộc và thợ hồ Khi công trình hoàn thành, sư cũng rơi vào tình trạng kiệt sức và mắc bệnh nặng Trước khi qua đời, ông đã sai đệ tử mang võng đi quanh chùa, vừa đi vừa rờ từng viên đá, thể hiện nỗi buồn và tiếc nuối của mình.

Trước đây, có một tăng sĩ có địa vị cao trong đạo, tính tình chân thật và rộng rãi, nhưng lại tự đắc và kiêu ngạo Một số chánh khách nhận ra khuyết điểm này và đã mời một tướng sĩ đến thăm, khen ngợi sư về phước tướng của mình, khiến sư được nhiều người ủng hộ và danh vọng tăng cao Họ còn khuyến khích sư tham gia hoạt động chính trị, thậm chí có thể trở thành lãnh tụ hoặc tổng thống Dù sư có khiêm nhường, nhưng vẫn rất vui mừng trước những lời khen Cuối cùng, các chánh khách đã thuyết phục sư tham gia vào một cuộc vận động chính trị, dẫn đến những tai nạn kéo dài cho sư.

 Thế nên kẻ dễ dãi nhẹ dạ thường hay bị phỉnh gạt

 Khi chưa diệt được tham vọng dễ bị người khác dùng tiền tài, sắc đẹp hoặc danh vị cuốn lôi

Nếu còn giữ tính nóng nảy và khí khái, dễ bị người khác kích động và gánh vác những phiền phức Đây là những cạm bẫy trong cuộc sống và trong đạo, cần được nhắc nhở để tránh rơi vào vòng chướng nghiệp Đối mặt với những thử thách này, hành giả cần nhận định một cách sáng suốt và quyết tâm theo con đường đúng đắn để vượt qua.

Ám khảo

Điều này chỉ cho sự thử thách trong âm thầm không lộ liễu, hành giả nếu chẳng khéo lưu tâm, tất khó hay biết

1- Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia kế lần sa sút, làm điều chi thất bại việc ấy, sanh lòng lo lắng chán nản trễ bỏ sự tu

2- Có vị công việc lại âm thầm tiến triển thuận tiện rồi ham mê đeo đuổi theo lợi lộc mà quên lãng đường lối tu hành

3- Có kẻ trước tiên siêng năng tụng niệm, nhưng vì thiếu sự kiểm điểm, phiền não ở nội tâm mỗi ngày

20 tăng thêm một ít, lần lượt sanh ra biếng trễ, có khi đôi ba tháng hay một vài năm không niệm Phật được một câu

4- Có người tuy sự sống vẫn điều hòa đầy đủ, nhưng vì thời cuộc bên ngoài biến chuyển, thân thế nhà cửa nay đổi mai dời, tâm mãi hoang mang hướng ngoại, bất giác quên bỏ sự trì niệm hồi nào không hay

Nghiệp thiện ác có ảnh hưởng sâu sắc đến hành giả, thường khiến họ chậm trễ trong việc tu trì, được gọi là "khảo" Khi bắt đầu tu tập, ai cũng mang trong mình một tâm hảo tâm, nhưng dần dần, những duyên nghiệp bên trong và bên ngoài có thể khiến họ lùi bước; thực tế cho thấy, trong số một trăm người, chỉ còn lại một người kiên trì.

Lời xưa có câu: "Tu hành nhứt niên Phật tại tiền, nhị niên Phật tại tây thiên, tam niên vấn Phật yếu tiền," mang ý nghĩa rằng trong năm đầu tu hành, Phật gần gũi như ở trước mặt, nhưng đến năm thứ hai, Phật đã xa, và sang năm thứ ba, việc hỏi Phật hay niệm Phật trở nên khó khăn hơn, cần phải trả giá mới có được sự chỉ dẫn Câu ngụ ngôn này nhắc nhở hành giả cần lưu tâm và chú ý trong quá trình tu tập.

Mục B Phương thức hóa giải chướng duyên Tiết 64: Lời khuyên dạy của Cổ Đức

Khi mới vào chùa, bút giả nghe được một truyền thuyết bao hàm ẩn ý mà không biết có đúng với nguyên ngữ chăng, và phát xuất từ đâu?

Câu nói "Phật cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng, Phật cao nhứt trượng, ma cao quá trượng đầu, Phật cao siêu quá trượng đầu, ma quy hàng Phật" thể hiện ý nghĩa rằng: "Phật cao một thước, ma cao một trượng; khi Phật cao một trượng, ma sẽ vượt qua đầu trượng; nhưng nếu Phật cao vượt khỏi đầu trượng nữa, thì ma sẽ quy phục trước Phật."

Suy gẫm theo câu trên, người tu phải làm sao cho ông Phật của mình cao hơn con ma, nếu chẳng thế tất bị ma chướng đánh đổ

Trong cộng đồng tu hành, những người gặp khó khăn không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh hay trách móc ai khác, mà nên tự nhìn nhận rằng chính bản thân họ đã thất bại trước những cám dỗ Nếu kiên trì giữ vững quyết tâm, những chướng ngại sẽ dần được vượt qua.

Đức Đạt Ma Tổ Sư đã chỉ ra rằng trên con đường tu hành sẽ gặp nhiều chướng ngại Để vượt qua những khó khăn này, Ngài đã đề xuất bốn hạnh làm phương châm cho các đệ tử, trong đó có hạnh Báo Oan.

Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.

Sao gọi là Báo Oan Hạnh?

Chúng ta đã trải qua nhiều kiếp sống trong sáu nẻo luân hồi, tạo ra vô số nghiệp báo, từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao, dẫn đến ân oán không thể đếm xuể Dù có công đức từ việc tu tập giúp tiêu trừ một phần nghiệp, nhưng những nghiệp chưa được thanh tẩy vẫn phải lần lượt đền trả.

1- Như người thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh

2- Người bị nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng

3- Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí

4- Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh

5- Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người

Trong cuộc sống, có vô vàn nghiệp báo mà chúng ta phải đối mặt Khi gặp phải oan trái, chúng ta cần kiên nhẫn và chấp nhận để trả giá cho những hành động trong quá khứ, thay vì oán trách hay buồn phiền.

Trong cõi luân hồi, mọi chúng sanh đều có mối quan hệ với gia đình và bạn bè thông qua việc ăn uống Trong các loại nghiệp, nghiệp sát và nghiệp ái được coi là nặng nề nhất Cổ đức đã từng than thở rằng: "Bể nghiệp mênh mang, khó đoạn, không gì nặng nề hơn ái dục Cõi trần man mác, dễ phạm nhất chính là sát sanh!"

Một Phật tử Bắc Việt đã chia sẻ một câu chuyện mà ông nhớ mang máng, tuy không còn nhớ rõ tên tuổi và địa chỉ của nhân vật trong câu chuyện.

Có một vị sư, trước đây là thầy giáo, giác ngộ về sự phù du của thế gian nên đã lên núi tu hành Sau một thời gian, chư thần mách bảo rằng ông có duyên nợ mười chín năm với một cô gái Dù đã tu hành, ông vẫn phải xuống núi để dạy dỗ và giác ngộ cô, hoàn tất mối nợ trước khi trở lại tu hành Vị sư xuống núi và gặp đúng cô gái như lời chư thần, đã cảm mến và theo đuổi Ông đã khuyên nhủ và dạy đạo cho cô, hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn.

24 lên núi Lúc lâm biệt cô ấy vẫn còn quyến luyến khóc lóc." Đây là sự trả nợ nần về nghiệp ái

Vào đêm Trung Thu, chàng văn sĩ Vân Tiêu đã lên núi để thưởng ngoạn không khí huyền bí Trong khoảnh khắc rằm sáng, chàng chứng kiến cảnh các tiên nữ từ mây xuống, cởi hạt và bày biện một bàn tiệc với trái cây ngon và rượu quý Họ vừa thưởng thức vừa đàn hát, tạo nên một không gian thơ mộng và đầy chất thơ: "Đêm thu một khắc một chầy."

Vầng trăng khéo rọi cảnh này sơn âm!

Nghiêng bầu hỏi bạn đồng tâm

Hằng Nga khuất bóng biết tìm nơi đâu?

Bên tiên nữ có nàng Thái Loan, nổi bật với sắc đẹp dịu dàng và giọng ca ngâm tuyệt vời, khiến Vân Tiêu, dù ẩn mình, cũng không khỏi bàng hoàng xúc động Một lúc sau, một lão tiên sau khi uống rượu đã cất tiếng hát.

Hữu duyên tương hội tại tiên đàn Ưng đắc Vân Tiêu giá Thái Loan!

Nghe hai câu ấy, Vân Tiêu phải chường mặt ra dự vào đàn tiên Các tiên nhân cho biết Thái Loan tiên nữ còn trần duyên với Vân Tiêu trong mười ba năm, và đã truyền cho đồng tử xóa bỏ tiên tịch Sau mười ba năm sống bên Vân Tiêu, khi trần duyên đã mãn, Thái Loan đã sử dụng phép ẩn thân.

25 bay về non tu lại Cho nên chư tiên vẫn còn ở trong vòng nhân duyên kiếp quả

Nghiệp sát là một khái niệm quan trọng trong nhiều truyền thống tâm linh, như trường hợp của Sư Tử tôn giả ở Ấn Độ và Thần Quang nhị tổ ở Trung Hoa Dù cả hai đều đã đạt được giác ngộ, nhưng họ vẫn phải chấp nhận cái chết một cách bình thản để trả nợ mạng.

Mặc dù ngài Mục Kiền Liên đã đạt được quả A La Hán và sở hữu thần thông vượt trội trong hàng Thanh Văn, ngài vẫn quyết định chịu đựng khổ ải để trả nghiệp Ngài bị những kẻ hung ác đánh đập đến chết và thi hài bị vùi trong hầm phân Thấu hiểu nỗi khổ của ngài, Đức Phật đã sai đệ tử đưa thi thể ngài lên, tắm rửa sạch sẽ, xoa ướp dầu thơm, và sau đó tiến hành trà tỳ để thu lấy xá lợi.

Thái tử nước An Tức xuất gia tu hành và đạt đạo, nhờ Túc Mạng Trí nhận ra mình còn nghiệp sát sanh Để trả nợ mạng, ngài đã ba lần chuyển kiếp đến Lạc Dương, Trung Hoa Kiếp cuối cùng, ngài trở thành sa môn An Thế Cao.

Trên con đường tu hành, chúng ta không thể đánh giá ai là người hoàn hảo, vì vậy không nên tự mãn và khinh thường người khác Mỗi chúng sanh đều mang theo nhiều nghiệp chướng, và có thể phải đền trả qua nhiều kiếp sống Những người có vẻ như không gặp oan trái thực ra có thể vẫn đang gánh chịu những nghiệp báo, chỉ là chưa đến thời điểm để bộc lộ.

26 thời tiết nhân duyên đền trả đó thôi Muốn dứt oan khiên ta phải an nhẫn sám hối và cố gắng tu hành để diệt trừ

Thi sĩ Nguyễn Du tin tưởng vào thuyết nghiệp báo và sự cải tạo nhân quả của Phật giáo, điều này thể hiện rõ qua câu nói: "Đã mang lấy nghiệp vào thân."

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa

Có trời mà cũng có ta

Lời này đã được nhiều bậc thức giả công nhận.

Thế nào là Tùy Duyên Hạnh?

Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh nào sống theo cảnh ấy

1- Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang,

2- Cảnh nghèo hèn tùy theo nghèo hèn,

3- Cảnh man rợ tùy theo man rợ,

4- Cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn nạn,

5- Cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi cũng đều như thế

An phận tùy duyên,đây là:

- Giàu sang mà không tự đắc kiêu căng,

- Nghèo hèn hoạn nạn mà không buồn rầu đổi chí

Tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn, chỉ tồn tại tạm thời theo nghiệp và rồi sẽ diệt Vậy có gì đáng để ta tham luyến hay buồn bã?

Đức Khổng Tử và đồ đệ đã bị giặc vây giữa nước Trần và nước Thái suốt bảy ngày, nhưng Ngài vẫn giữ được sự bình tĩnh và vui vẻ khi khảy đàn Khi Tử Cống thắc mắc về sự lạc quan của Ngài trong tình huống sống chết, Ngài giải thích rằng những gì đã xảy ra là do số phận, và việc buồn rầu không mang lại lợi ích gì Qua đó, Khổng Tử thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về định mệnh và khả năng giữ vững tâm lý trước mọi hoàn cảnh.

Người tu hành cần nhận thức rằng ruộng vườn, nhà cửa, quyến thuộc và tài sản chỉ là những duyên giả tạm Không nên vì những điều này mà bận tâm hay quyến luyến, từ đó mới có thể tiến bước trên con đường giải thoát.

Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh?

"Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với:

1- Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không

2- Người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội

Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật

Cổ đức bảo: "Nếu tạm thời không trụ nơi chánh định, tức đồng như người đã chết."

- Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn

Người tu Tịnh Độ nếu thường xuyên niệm Phật sẽ giúp tâm hồn dần dần trở nên yên tĩnh và sáng suốt Qua đó, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc với Phật, từ đó chắc chắn sẽ đạt được vãng sanh.

Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh?

Đạo là tâm hạnh trong sạch, không mong cầu điều gì, vì tất cả pháp đều như huyễn, sinh rồi diệt, diệt lại sinh, không có gì chân thật để mong cầu Hơn nữa, pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí luôn bình thản, không bị ảnh hưởng bởi cảnh thạnh suy hay họa phước.

Khi một tăng sĩ ẩn tu trong am tranh vắng vẻ, cuộc sống tuy hẩm hiu nhưng đạo vẫn thạnh Nếu có người đến cúng dường, chùa sẽ lớn dần và tăng chúng sẽ tập trung đông đảo, nhưng phước duyên này có thể khiến vị ấy bận tâm với công việc bên ngoài, làm giảm phần giải thoát Do đó, tâm hạnh của người tu không nên cầu việc ác hay làm chúng sanh, cũng không cầu điều thiện hay thành Phật.

Có người thắc mắc rằng nếu niệm Phật mà không cầu vãng sanh hay không mong muốn phước huệ viên mãn để thành Phật thì làm sao có thể tu tiến Tuy nhiên, câu trả lời là: "Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa, càng mất đi bản chất của tu hành."

- Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc

Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật."

Về vãng sanh, người tu hành cần hiểu rằng cầu mà không cầu, không cầu mà cầu Điều này giống như mặt gương sáng, khi hình ảnh đến thì phản chiếu, còn khi hình ảnh rời đi, gương lại trở nên lặng lẽ và trong suốt Nếu giữ mãi sự thấy biết và tìm cầu, sẽ dễ lạc lối.

Hạnh Vô Sở Cầu bao gồm ba môn: Không, Vô Tướng và Vô Nguyện, nhấn mạnh rằng trong cuộc sống, việc tìm kiếm điều gì đó ngoài sự vô tri như gỗ đá là không cần thiết.

Nếu người tu giữ theo bốn hạnh của đức Đạt Ma

Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng duyên.

Cách Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển

Thân không cầu không bịnh

2 Cuộc đời không cầu không hoạn nạn Đời không hoạn nạn, thì kiêu xa dễ khởi Khi lòng kiêu mạn xa hoa khởi lên, sẽ khinh dễ đè lấn tất cả mọi người

Tu tâm không cầu không chướng ngại

không chướng ngại thì sự học sẽ vượt bậc Học vượt bậc tất có lỗi chưa được cho là mình đã được, đã thông suốt.

Lập hạnh không cầu không bị ma chướng

Hạnh không ma chướng thì sức thệ nguyện không bền chắc Nguyện không bền chắc sẽ có lỗi chưa chứng cho là mình đã chứng

5 Mưu sự không cầu dễ thành tựu Sự dễ thành tựu thì sanh niệm khinh lờn Niệm khinh lờn sanh, tất mang lỗi tự đắc cho rằng mình đủ đức hạnh tài năng.

Giao hảo không cầu mình được lợi ích

được ích lợi thì hư mất đạo nghĩa Đạo nghĩa hư mất, tất chỉ thấy lỗi của người.

Đối với người không cầu được sự thuận thảo

Người thuận thảo thì mình dễ tự kiêu Và lòng đã kiêu căn, tất chỉ thấy phần phải của mình.

Thấy lợi không cầu mình được phần

phần thì lòng si nổi động Khi lòng si nổi dậy, tất sẽ bị mối lợi nhơ làm tiêu hủy thanh danh

Bị oan ức không cầu biện minh

minh thì lòng nhơn ngã còn chưa dứt Tâm nhơn ngã thị phi chưa dứt, tất mối oán hận sẽ từ đó nảy sanh ra nhiều

Suy qua các điểm trên, ta thấy cuộc đời đầy nỗi chướng ngại, mà có thể khái quát lại trong 10 điều:

3 Sự tu học bị ngăn trở

4 Khi lập hạnh ma chướng phá

6 Bạn bè phản phúc lãnh đạm

9 Người mưu chiếm lợi danh

Trong mười điều này, luận Bảo Vương Tam Muội đã dùng mười hạnh không cầu để phá trừ

Trong cuộc sống, phước và họa luôn song hành, cũng như thông và ngại Hiểu được điều này, các bậc tu hành xưa đã coi sự chướng ngại là cơ hội để tiến bộ trên con đường tu tập.

Tiên đức từng nói: "Vô nhơn kiến xúc, đạo quả nan thành", có nghĩa là nếu không bị người khác làm tổn thương tâm trí, thì việc đạt được đạo quả sẽ trở nên khó khăn Những hành động như khinh khi, chửi mắng, hay vu oan giá họa chính là thước đo để đánh giá đạo lực của người tu hành.

Nếu một người có thể giữ được sự nhẫn nại và an nhiên trước những chướng ngại, điều đó chứng tỏ họ đã đạt được một mức độ tu tiến khá cao Nếu không, làm sao có thể đánh giá được sự tiến bộ trong quá trình tu tập của chính mình?

Người tu hành không mong cầu chướng ngại, mà vì con đường đạo đầy bất trắc và khó khăn, họ cần luôn cảnh giác trước mọi thử thách Điều này giúp họ giữ được sự bình tĩnh và an nhiên khi đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.

Diệu Hiệp đại sư nhấn mạnh rằng chỉ những người có trí huệ và tâm hùng mới có thể thực hành mười hạnh này Nếu biết tự soi xét và giác ngộ, giữ vững mười điều này, thì dù ở trong cảnh giới ma quái, họ vẫn không bị ảnh hưởng Dù phải đối mặt với sắc thinh, danh lợi, tình thương, sự ghét bỏ, thị phi, thạnh suy hay đắc thất, người ấy vẫn có thể giữ được sự an nhiên trong tâm hồn.

Nếu không nhận thức rõ, mọi điều tốt đẹp và thuận lợi có thể trở thành chướng ngại Khi hiểu thấu tất cả bệnh khổ và ma chướng, ta sẽ thấy rằng chúng đều là giả dối, không có căn nguyên thực sự.

34 cũng không làm chi được Đối với mười điều trên, lối xử dụng của bậc trí lực là:

1 Lấy bịnh khổ làm thuốc hay

2 Lấy hoạn nạn làm giải thoát

3 Lấy chướng ngại làm tiêu dao

4 Lấy các ma làm bạn pháp

5 Lấy việc khó làm an vui

6 Lấy bạn xấu làm giúp đỡ

7 Lấy kẻ nghịch làm vườn hoa

8 Lấy sự quên việc thi ân như quên bỏ chiếc dép rách.

9 Lấy thanh đạm làm giàu sang

10 Lấy sự oan ức làm duyên tiến đạo

Xem đây suy rõ sự hay dở đắc thất vẫn tùy tâm

Thế nên, người mới tu rất sợ chướng duyên, bậc tu lâu có khi lại muốn thử đương đầu với chướng cảnh

Xin thuật ra đây một đôi chuyện để làm tỷ lệ:

Ngày xưa, sau khi đắc pháp với tổ Đạt Ma, Thần Quang đã khiêm nhường làm những công việc bình dị như bửa củi, giã gạo và gác cửa Khi có người hỏi tại sao một bậc kế truyền Tổ vị lại hạ mình làm những việc tầm thường, ngài đã trả lời rằng mục đích của ngài là để hàng phục tâm của chính mình, điều mà người khác không thể hiểu.

Lưu Trường Sanh, sau khi đạt được sự tu hành, đã bay lên gặp bà Diêu Trì Kim Mẫu và bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của các tiên nữ Tuy nhiên, Kim Mẫu đã quở trách ông vì vẫn còn vướng bận với sắc dục, không xứng đáng với hàng tiên phẩm Xấu hổ, ông trở lại nhân gian, sử dụng phép thuật để hóa đá thành vàng, thuê những cô gái đẹp nhất và sống cùng họ trong hai năm để luyện tập trừ bỏ dục niệm Khi cảm thấy tâm đã thanh tịnh, ông đã chế biến bánh và chia sẻ tri thức đạo với các cô, trước khi rời đi trên mây.

Một sư cô quyết tâm dứt trừ lỗi lầm, nguyện kiết thất và tịnh khẩu trong ba tháng Trong lúc ngồi bên cửa sổ niệm Phật, cô bị một ông đạo chỉ trích về những nghiệp chướng và tánh xấu của mình Mặc dù cảm thấy tức giận, cô vẫn giữ im lặng và tiếp tục niệm Tuy nhiên, khi ông đạo nói rằng cô có mối quan hệ với một người hàng xóm, cô không thể kiềm chế được và đã lớn tiếng phản bác.

Ông đạo cả cười và nói: "Tôi chỉ cố ý thử cô mà thôi Nếu cô đã nguyện tịnh khẩu, sao còn nói chuyện?"

Tịnh khẩu là phương pháp quan trọng để đạt được tịnh tâm, nhưng nếu tâm không được tịnh thì việc giữ gìn khẩu cũng trở nên vô ích Câu nói này đã khiến sư cô nhận ra và cảm thấy xấu hổ, không còn lời nào để biện minh.

- Một độ nọ bút giả về Phật Học Viện Huệ Nghiêm, gặp ngài tọa chủ chùa Thuyền Lâm Trong khi đàm đạo ngài thuật chuyện rằng:

Trước đây, có một vị sư ở Trung tu thiền rất công phu, có thể ngồi thiền liên tục từ sáu đến bảy giờ Để tránh xa những cám dỗ, sư thường tránh tiếp xúc với phụ nữ, thậm chí sau khi có người nữ đến chùa, sư cũng sẽ lau chùi chỗ ngồi của họ Sau đó, sư đến trú tại chùa Thập Tháp ở Bình Định Một buổi sáng, trong lúc thiền, sư bất ngờ la lên và chạy ra ngoài vì thấy một người nữ xinh đẹp ôm cổ mình Buổi chiều, sư cảm thấy mệt mỏi và yêu cầu hòa thượng Thập Tháp giúp mình cưới vợ, nếu không, sư sẽ tuyệt thực cho đến chết Hòa thượng Thập Tháp đã gọi một bà Phật tử tín cẩn đến để thảo luận về vấn đề này.

Sáng hôm sau, hòa thượng đưa cô tớ gái vào và thông báo rằng cô sẵn sàng làm vợ của Ngài Khi nghe tin này, sư mở mắt, nắm tay cô và vuốt ve một hồi trước khi tắt hơi.

Trong hai đoạn trên, ta thấy:

- Sư cô nọ muốn phá phiền não, song chỉ theo hình thức mà thôi

Ngài Thần Quang hiểu rằng mọi phiền não đều xuất phát từ tâm chấp ngã Để kiểm tra tâm nhơn ngã và sự phân biệt thị phi, Ngài đã giả làm người thấp hèn, chịu đựng sự sai bảo và mắng chửi Mục đích của Ngài là để dứt trừ những động niệm trong tâm.

- Và Lưu Trường Sanh muốn diệt niệm sắc ái, dám dõng mãnh đi ngay đến chỗ nữ sắc mà quán phá

Vị sư này, do chưa nhận thức được rằng sắc đẹp là vô thường, đã quá kiêng kỵ và sợ hãi trước nữ sắc Sự chấp trước vào hình thức đã khiến tâm trí của ngài bị ràng buộc, dẫn đến việc bị ma sắc làm tổn hại.

Sự An nhẫn của cư sĩ Tiền Vạn Dật

Tiền Vạn Dật, tự là Dực Sơn, quê ở Thường Thục, trấn Mai Lý, là một người sống vào thời nhà Thanh ở Trung Hoa Thời trẻ, ông theo gia đình bán rượu, nhưng sau đó chuyển sang tu hành, quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm trong quá khứ Ông chỉ có một người con trai, không may qua đời vì bệnh lao, và trong lúc đó, hàng xóm đã chỉ trích ông, cho rằng việc tu hành đã khiến con ông chết Dù vậy, Vạn Dật vẫn mỉm cười và tiếp tục thờ Phật một cách an nhiên.

Một đêm, khi lửa thiêu rụi nhà cửa, Vạn Dật chắp tay cầu nguyện rằng: "Nghiệp con nặng, xin đừng tổn thương đến những nhà gần bên." Sau khi lửa tắt, chỉ có nhà ông bị thiêu rụi, trong khi các gia cư xung quanh đều an toàn Sau đó, Vạn Dật khuyên mẹ, Ngô Thị, niệm Phật và bà đã nghe theo Ông cũng bắt đầu ăn chay trường, nhưng vẫn còn thói quen uống rượu Nhờ sự khuyên bảo của cư sĩ Tạ Phụng Ngô, ông đã nỗ lực từ bỏ thói quen này.

Vào mùa xuân năm Đạo Quang thứ hai mươi hai, sau khi vợ qua đời, Vạn Dật sống trong cô đơn và từ chối việc tái hôn, khẳng định rằng việc nối dõi không còn quan trọng Mùa hè năm đó, ông mắc bệnh lạc huyết, nhưng vẫn kiên trì niệm Phật Đến đầu tháng bảy, bệnh tình trở nặng, khiến ông không thể ăn uống Khi Phụng Ngô đến thăm, ông được khuyên về việc nhịn ăn để cầu thấy Phật, điều này khiến ông phấn khởi Ngày hôm sau, ông tắm rửa sạch sẽ, nguyện giữ thanh trai trong bảy ngày, và mua vật mạng để phóng sanh cầu về Tịnh Độ Ông dành thời gian niệm Phật liên tục, chỉ ăn dưa khi khát, mặc dù có người hỏi về sự mệt mỏi do không ngủ suốt đêm.

Vạn Dật chia sẻ rằng, nhờ vào việc không ngủ, ông có thể niệm Phật nhiều hơn Khi sức khỏe tốt, ông không có thời gian rảnh rỗi Nay khi bị bệnh, ông cảm thấy có thời gian để tập trung, vì vậy ông quyết tâm nỗ lực mà không thấy mệt mỏi.

Bảy ngày vừa mãn, bởi tuyệt cốc nên kiệt sức, thần thức ông hôn loạn Người nhà cho ăn chút cháo loảng,

Vạn Dật cảm thấy buồn bã và lo lắng, nhưng ông quyết định chắp tay cúng dường Phật Phụng Ngô khuyên ông nên từ bỏ mọi duyên trần và chuyên tâm cầu nguyện về Cực Lạc Nghe theo lời khuyên, Vạn Dật nhắm mắt niệm Phật, dần dần tâm trí ông được an định nhờ sự hỗ trợ của bạn bè đồng đạo Vào chiều ngày mùng mười, ông thấy một vị sứ giả từ thượng giới khuyên không nên ăn dưa và trái cây Ngày hôm sau, Tây Phương Tam Thánh hiện ra trước mặt ông, nhưng ông chưa đủ thanh tịnh để ngồi lên kim đài Sau khi tắm gội sạch sẽ, Tam Thánh lại hiện ra và Vạn Dật chia sẻ rằng ông đã trải nghiệm Tịnh Độ, nơi có vô số hoa sen và ông ngồi trên một đài hoa, cảm thấy hạnh phúc vô bờ Ông còn khẳng định rằng thân xác này không phải là thân của ông.

Vào sáng sớm ngày mười hai, Vạn Dật đã nói lời từ biệt mẹ, thông báo rằng "Phật cùng chư Thánh đã đến đầy nhà." Sau đó, ông chắp tay niệm Phật và qua đời ở tuổi ba mươi bảy.

Như cư sĩ Tiền Vạn Dật, dù gặp phải nghịch cảnh và bệnh khổ, nhưng vẫn giữ vững chánh niệm Cuối cùng, mọi duyên trần được rũ sạch, cảnh tịnh hiện ra, và những điều nhiệm mầu xuất hiện, cho phép ngài thanh thoát vui chơi trong cõi ngọc Với phẩm vị cao, không còn nghi ngờ gì nữa, sự nhẫn nại của ngài thật mạnh mẽ và đáng ngưỡng mộ.

Sự An nhẫn của cư sĩ Phó Xuân Phố

Phó Xuyên, tên thật là Xuân Phố, là một nhân vật nổi bật trong thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc, sinh ra tại xã Đông Quách, huyện Thanh Giang, tỉnh Giang Tây Ông mồ côi cha từ nhỏ, và mẹ ông, Nhiếp thái phu nhân, đã kiên cường nuôi dưỡng và khuyến khích ông học hành cho đến khi trưởng thành.

Xuân Phố đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như Huấn khoa viên tại huyện Thanh Giang, cảnh sát trưởng tại trấn Chu Đàm, và hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu ở Chương Thọ Ông nổi bật với trí thông minh và sự nhạy bén, luôn tích cực tham gia vào các công vụ Mỗi khi gặp khó khăn, các quan chức thường tìm đến ông để xin ý kiến và giải pháp.

Nhiếp thái phu nhơn đã lâu thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát và niệm Phật trường trai Năm Dân Quốc thứ mười bảy, khi ông bị bệnh, đã phát nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ và nhờ đó bệnh tự khỏi mà không cần thuốc Đến tháng chín năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931), ông trở lại Phổ Đà để hoàn nguyện Trong lúc chí thành lễ động Phạm Âm, ông cảm nhận được sự hiện thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, mặc áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành dương liễu Ông cầu Bồ Tát gia bị để biết về tiền kiếp, thấy mình là một vị tăng tu hạnh đầu đà với y phục thô sơ lam lũ.

Nhờ duyên sự đó, Xuân Phố tỉnh ngộ và nhận ra rằng luân hồi không phải là điều hư huyền, từ đó ông càng tha thiết với con đường xuất trần Ông đã nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu để tham yết ngài Ấn Quang và Đức Sum pháp sư tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu, nơi ông được nghe về pháp yếu của tông Tịnh Độ Sau đó, ông đã xuất bản kinh sách tại Hoằng Hóa Xã và tặng cho mọi người, nhờ đó, sự hiểu biết về Phật pháp của ông ngày càng thâm thúy Cuối cùng, Xuân Phố quyết định theo đuổi con đường đạo, quy y và thọ giới Ưu.

Bà Tắc với Đức Sum pháp sư, được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây

Sau khi quy y, cư sĩ đã phát nguyện mạnh mẽ và siêng năng niệm Phật, không hề lơ là Vào năm Dân Quốc thứ 22, ông được mời làm chủ giảng tại Niệm Phật Lâm ở Lộc Giang, nơi ông đã dẫn dắt và khuyến khích nhiều người trong việc tu tập.

Cư sĩ thể chất yếu ớt, thường xuyên đau bệnh và gia đình nghèo khó do tính tình liêm khiết, thường xuyên phải đối mặt với nợ nần Mặc dù cuộc sống hàn vi và nhiều thị phi, ông vẫn giữ vững chí nguyện xuất gia Dù hoàn cảnh chưa thuận lợi, ông luôn nỗ lực lễ niệm, kiên trì cầu vãng sanh, không bao giờ lơ là, ngay cả khi đau bệnh.

Vào mùa xuân năm 1938, cư sĩ mơ thấy đức Quán Thế Âm báo trước về việc quy kỳ vào cuối tháng bảy Sau rằm trung nguyên, dù bị bệnh nặng, cư sĩ vẫn kiên trì niệm Phật, quên đi nỗi khổ đau Khi bệnh tình trở nặng vào ngày 26, gia đình thương khóc, nhưng cư sĩ lại mỉm cười và khẳng định sẽ vãng sanh vào ngày vía đức Địa Tạng, khuyên mọi người nên vui mừng thay vì bi lụy Đến ngày hẹn, cư sĩ ngồi kiết già, thực hiện ấn Di Đà, chăm chú chờ đợi.

Ông đã an nhiên ra đi sau khi chiêm bái 48 tượng Phật, gương mặt ông rạng rỡ hơn bao giờ hết, trong khi thân thể dần lạnh đi, chỉ còn đỉnh đầu vẫn ấm nóng.

Ngày đăng: 08/04/2022, 17:09

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w