Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư một cách lý trí và hiệu quả hơn.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tâm lý các NĐT trên TTCK Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp 1: Phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp 2: Phương pháp nghiên cứu định lượng (lập câu hỏi trắc nghiệm khảo sát)
Ket cấu bài nghiên cứu
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận những nhân tố ảnh hưởng tới tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Tâm lý NĐT trên TTCK Việt Nam và nhân tố tác động từ năm
Chương 5: Giải pháp hạn chế yếu tố tâm lý của NĐT trên TTCK Việt Nam
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Tổng quan nghiên cứu nước ngoài
Trong lý thuyết tài chính chính thống, có hai lý thuyết quan trọng: (i) các nhà đầu tư hành động hoàn toàn hợp lý, với việc họ luôn cập nhật niềm tin dựa trên thông tin mới và (ii) lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH), cho rằng tất cả thông tin liên quan được phản ánh ngay lập tức và hoàn toàn trong giá Tuy nhiên, tài chính chính thống chỉ giải thích một cách hạn chế các vấn đề như lý do tại sao nhà đầu tư cần giao dịch và tại sao tỷ suất sinh lợi giữa các chứng khoán lại khác nhau ngoài yếu tố rủi ro.
Trong bối cảnh thị trường tài chính biến động, các nhà nghiên cứu tâm lý học đã chỉ ra rằng con người thường có những hành vi kỳ quặc khi ra quyết định liên quan đến tiền Những quyết định kinh tế thường mang tính không hợp lý do ảnh hưởng của tâm lý, lỗi nhận thức và cảm xúc thái quá, dẫn đến việc nhà đầu tư đưa ra những quyết định đầu tư kém Shiller (2002) đã cung cấp bằng chứng lý thuyết và thực tiễn ủng hộ cho các mô hình tài chính truyền thống như CAPM và EMH, cho thấy khả năng dự đoán và giải thích các sự kiện nhất định Tuy nhiên, các học giả cũng đã bắt đầu khám phá những dị thường và hành vi mà lý thuyết tài chính chính thống chưa giải thích, chẳng hạn như hiệu ứng tháng Một, khi giá chứng khoán tăng vào tháng Một mà không có lý do rõ ràng (Rozeff và cộng sự, 1976).
Tài chính hành vi là một lĩnh vực tài chính nhằm bổ sung lý thuyết tài chính chuẩn bằng cách khám phá các yếu tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Nghiên cứu thực nghiệm trong tài chính hành vi đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư thường có những hành vi phi lý Đặc biệt, việc nhà tâm lý học đầu tiên đoạt giải Nobel đã góp phần thuyết phục các nhà tài chính chính thống về sự tồn tại của những hành vi này trong thị trường tài chính.
Malcom Baker và Jefrey Wurgler (2007) đã nghiên cứu tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, đề xuất một cách tiếp cận từ trên xuống về hành vi tài chính Họ cho rằng tình cảm của nhà đầu tư có nguồn gốc ngoại sinh, nhưng lại tập trung vào tác động thực tiễn của nó Nghiên cứu chỉ ra rằng tình cảm của nhà đầu tư có thể đo lường được và có ảnh hưởng rõ rệt, quan trọng đến các công ty cá nhân cũng như toàn bộ thị trường chứng khoán Đặc biệt, cổ phiếu thường chịu ảnh hưởng lớn từ tình cảm, dẫn đến sự khó khăn trong việc định giá.
G Mujtaba Mian và Srinvasan Sankaraguruswamy (2007) khi nghiên cứu về tâm lý NĐT và TTCK tới tin tức mới doanh nghiệp đã thấy rằng phản ứng của giá cổ phiếu đối với tin tức tốt tăng theo tình cảm, trong khi phản ứng giá cổ phiếu với tin xấu giảm với tâm lý phổ biến Điều này phù hợp với giả thuyết rằng NĐT đang thịnh hành trên toàn thị trường phản ứng với tin tức của công ty Các tác giả đã xác nhận mối quan hệ của tình cảm và phản ứng giá cổ phiếu đối với tin tức thu nhâp cũng như các tin tức khác của công ty bao gồm thay đổi cổ tức, chia tách cổ phiếu và mua lại cổ phiếu Hơn nữa, mỗi quan hê giữa tình cảm và phản ứng giá cổ phiếu là đặc biệt rõ ràng cho các cổ phiếu có định giá chủ quan hơn và phải đối mặt với giới hạn lớn hơn về chênh lệch giá cổ phiếu nhỏ, cổ phiếu trẻ, cổ phiếu không ổn định, cổ phiếu không trả cổ tức và cổ phiếu (distressed).
Nghiên cứu của Zhifang He, Linjie He và Fenghua Wen (2019) đã chỉ ra tác động của bồi thường rủi ro và tâm lý nhà đầu tư đối với lợi nhuận chứng khoán Bài viết kiểm tra ảnh hưởng của bồi thường rủi ro đến lợi nhuận chứng khoán và khám phá mối liên hệ với tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Kết quả cho thấy bồi thường rủi ro trong quá khứ có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận, trong khi tâm lý hiện tại của nhà đầu tư có tác động tích cực đáng kể Ngược lại, tâm lý trong quá khứ ít ảnh hưởng đến lợi nhuận cổ phiếu Hơn nữa, bằng chứng thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng của bồi thường rủi ro đối với lợi nhuận chứng khoán là bền vững qua các dấu hiệu khác nhau của tâm lý nhà đầu tư.
Gragory W Brown và Micheal T Cliff (2005) đã nghiên cứu tâm lý của nhà đầu tư (NĐT) và định giá tài sản bằng cách sử dụng dữ liệu khảo sát về cảm xúc của NĐT Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy cảm xúc có ảnh hưởng đáng kể đến việc định giá tài sản, dẫn đến việc thị trường có thể bị lỗi giá Mô hình định giá độc lập có mối liên hệ tích cực với cảm xúc của NĐT.
Tương lai trả về nhiều năm thường mang tính tiêu cực liên quan đến cảm xúc, với những kết quả này khác biệt so với các biến đã được thể hiện nhằm dự báo chứng khoán.
Matthias Burghardt và các cộng sự (2007) đã nghiên cứu tâm lý của nhà đầu tư bán lẻ trên thị trường chứng khoán bằng cách sử dụng dữ liệu từ 18,1 triệu giao dịch chứng quyền do ngân hàng phát hành tại Sàn giao dịch chứng quyền châu Âu Kết quả cho thấy tâm lý của nhà đầu tư bán lẻ có vai trò quan trọng trong quá trình định giá cổ phiếu, và nhóm tác giả đã phát triển một chỉ số tâm lý hiệu quả hơn so với các biện pháp hiện có trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2004 đến tháng 12 năm 2007 Họ cũng cung cấp bằng chứng cho thấy dữ liệu này có thể áp dụng cho các chiến lược giao dịch nhằm tạo ra lợi nhuận vượt mức.
Nicholas Barberis cùng các cộng sự (2002) đã tiến hành một cuộc khảo sát về hành vi trên thị trường tài chính, nhằm ghi chép và hiểu rõ hơn về các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư nghiệp dư và chuyên nghiệp Nghiên cứu này đã tạo ra một danh mục lựa chọn quan trọng Tuy nhiên, một nghiên cứu đáng chú ý lại thiếu trong danh sách của các nhà kinh tế tài chính, có thể do sai lầm trong niềm tin rằng giá cả luôn phản ánh thông tin một cách chính xác.
Nghiên cứu của Alexander Kurov đã chỉ ra rằng tâm lý nhà đầu tư (NĐT) chịu ảnh hưởng đáng kể từ các quyết định chính sách tiền tệ Cụ thể, trong giai đoạn thị trường giảm, chính sách tiền tệ có tác động mạnh mẽ hơn đến tâm lý NĐT và sự nhạy cảm của thị trường chứng khoán (TTCK) với những thay đổi trong tâm lý này cũng như điều kiện thị trường tín dụng Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh vai trò quan trọng của tâm lý NĐT trong việc ảnh hưởng đến hiệu ứng của chính sách tiền tệ đối với TTCK.
Hergelbrock và các cộng sự (2010) đã nghiên cứu phản hồi của thị trường đối với tâm lý nhà đầu tư, sử dụng các chỉ số tình cảm từ khảo sát tại Mỹ (chỉ số tình cảm AAII) và Đức (chỉ số Sentix) Nghiên cứu cho thấy rằng chỉ số tình cảm có khả năng dự đoán lợi nhuận thị trường chứng khoán trong tương lai ở mức trung hạn.
Tổng quan nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam và các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân, đã được thực hiện nhiều Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu tập trung vào tâm lý của nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam và các yếu tố tác động đến tâm lý này còn rất hạn chế.
Nghiên cứu tâm lý nhà đầu tư (NĐT) trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, với các công trình nổi bật như đề tài cấp cơ sở của TS Trần Thị Hải Lý vào năm 2011, nghiên cứu tác động của các yếu tố tâm lý đến hành vi NĐT cá nhân, đã xây dựng thành công mô hình đo lường hành vi này Ngoài ra, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Cao Vệ năm 2009, tập trung vào việc đo lường hành vi bầy đàn trên TTCK Việt Nam, đã áp dụng phương pháp lọc Kalman theo mô hình không gian trạng thái của Hwang & Salmon (2004) để phát hiện các dấu hiệu bầy đàn, đồng thời chỉ ra rằng tâm lý NĐT ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định đầu tư của họ.
Một nghiên cứu gần đây của ThS Nguyễn Ngọc Tú Vân (2018) đã chỉ ra rằng tác động tâm lý của nhà đầu tư lên chỉ số chứng khoán khu vực ASEAN có tính phản thị trường, trong đó chỉ số niềm tin tiêu dùng được xác định là yếu tố đại diện tốt nhất cho độ nhạy cảm của nhà đầu tư.
Nghiên cứu của TS Nguyễn Đức Hiển (2012) về hành vi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy rằng nhà đầu tư cá nhân không phải là những nhà đầu tư lý trí Cụ thể, những nhà đầu tư có trình độ học vấn cao thường lạc quan, tự tin và ít bi quan hơn, trong khi những nhà đầu tư trẻ tuổi lại có xu hướng bi quan và thiếu tự tin hơn Ngược lại, những nhà đầu tư lớn tuổi thường có tâm lý lạc quan hơn và thái độ đối với rủi ro thấp hơn Hành vi bầy đàn được ghi nhận trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán trong cả hai giai đoạn thị trường tăng giá và giảm giá, với mức độ bầy đàn mạnh hơn trong thời kỳ thị trường giảm điểm.
Các nghiên cứu của Trần Nam Trung (2009), Hoàng Thị Phương Thảo (2010),
Võ Tuấn Vũ (2015) đã chỉ ra rằng tâm lý có ảnh hưởng lớn đến hành vi của thị trường chứng khoán (TTCK) Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy tâm lý của nhà đầu tư (NĐT) tại TTCK Việt Nam có sự biến đổi theo thời gian Mặc dù có giai đoạn phục hồi với mức tăng điểm cao, nhưng niềm tin của NĐT lại có dấu hiệu suy giảm, khiến họ trở nên thận trọng hơn trong quyết định giao dịch Do đó, cần tiến hành các nghiên cứu mới để đánh giá và phân tích các yếu tố tâm lý hiện tại ảnh hưởng đến NĐT Thêm vào đó, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào những yếu tố tác động chung, mà chưa đi sâu vào những nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến NĐT.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TÂM LÝ NĐT TRÊN TTCK
Các khái niệm tâm lý nhà đầu tư
Tâm lý con người phản ánh chủ quan thế giới khách quan, dựa trên hoạt động thần kinh và nội tiết từ các hoạt động sống cá nhân, đồng thời gắn liền với quan hệ xã hội Nó bao gồm các hiện tượng tinh thần trong đầu óc, tham gia điều khiển và điều chỉnh hành vi con người Tâm lý bao gồm nhận thức, trí tuệ, cảm xúc, tình cảm, ý chí, tính cách, ý thức và tự ý thức, cũng như nhu cầu, năng lực, động cơ hành vi, hứng thú, khả năng sáng tạo, lao động, tâm thế xã hội và định hướng giá trị.
Theo Malcolm Baker (2007), tâm lý nhà đầu tư được hiểu là niềm tin vào dòng tiền tương lai và rủi ro đầu tư, mặc dù những niềm tin này không luôn được xác thực bằng dữ liệu thực tế.
Các lý thuyết tài chính truyền thống, đặc biệt là giả thuyết thị trường hiệu quả, đã coi nhà đầu tư là những người lý trí, tối ưu hóa hữu dụng kỳ vọng mà không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý hay cảm xúc Tuy nhiên, tài chính hành vi cho rằng những cá nhân tham gia thị trường là con người bình thường, chịu tác động của cảm xúc Khi tâm lý tích cực, họ thường lạc quan hơn trong đánh giá, ngược lại, tâm lý tiêu cực dẫn đến sự bi quan và phê bình Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố tâm lý có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của nhà đầu tư.
Các tâm lý nhà đầu tư và đặc điểm
2.2.1 Tâm lý tự tin thái quá
Tâm lý tự tin thái quá là yếu tố phổ biến ảnh hưởng đến hành vi của nhiều nhà đầu tư, dẫn đến việc họ đánh giá quá cao khả năng dự đoán và độ chính xác của thông tin Các nghiên cứu cho thấy nhà đầu tư tự tin quá mức thường tin rằng họ giỏi hơn người khác trong việc chọn cổ phiếu và đưa ra quyết định mua bán James Montier (2006) phát hiện rằng 74% trong số 300 nhà quản lý quỹ khảo sát tin rằng họ có hiệu suất trên mức trung bình, trong khi thực tế chỉ có 50% có thể đạt được điều này Odean (1998) cũng chỉ ra rằng nhà đầu tư quá tự tin thường nhận được tỷ suất sinh lợi thấp hơn thị trường, mặc dù cả nam giới và nữ giới đều thể hiện sự tự tin, nam giới thường có mức độ tự tin cao hơn trong đầu tư.
Nghiên cứu của Chang (2008) và Barber cùng Odean (2001) cho thấy rằng phụ nữ có mức độ thành công cao hơn nam giới trong việc đầu tư vào các cổ phiếu riêng lẻ.
Nghiên cứu của Markus Glaser và Martin Weber (2007) cho thấy rằng nhà đầu tư (NĐT) có xu hướng tự tin quá mức thường thực hiện giao dịch nhiều hơn so với những NĐT hợp lý Nếu hiện tượng này diễn ra trên quy mô toàn hệ thống, hành vi của các nhà đầu tư có thể gây ra tác động tiêu cực đến toàn bộ thị trường.
Tâm lý lạc quan quá mức của nhà đầu tư thường xuất phát từ sự tự tin thái quá, dẫn đến niềm tin rằng các quyết định đầu tư trong tương lai sẽ tốt hơn thực tế Mặc dù điều này có thể thúc đẩy đầu tư trên thị trường chứng khoán, nhưng nó cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực khi nhà đầu tư bỏ qua rủi ro và không biết điểm dừng, ngay cả khi đang thua lỗ Theo Pompian (2006), con người thường nghĩ rằng họ thông minh và có nhiều thông tin hơn thực tế.
Xu hướng hối tiếc khi mắc lỗi, ngay cả với những sai lầm nhỏ, thường khiến nhà đầu tư bỏ lỡ cơ hội đầu tư vào cổ phiếu tiềm năng có lợi nhuận cao Thay vì chọn những cổ phiếu sinh lời, họ lại đầu tư vào những cổ phiếu có mức sinh lời thấp hoặc thua lỗ Khi giá cổ phiếu biến động, cảm giác hối tiếc về những quyết định không đúng đắn xuất hiện, đặc biệt khi họ không tin vào lời khuyên của chuyên gia Theo Staman (1985), nhà đầu tư thường trì hoãn việc bán cổ phiếu giảm giá và lại nhanh chóng bán những cổ phiếu tăng giá để tránh cảm giác hối tiếc, dẫn đến những quyết định không tối ưu Các nghiên cứu của Ferris và Odean (1996) đã chỉ ra rằng hành vi này có thể được chứng minh qua dữ liệu giao dịch thực tế.
Những hối tiếc trong quá khứ có thể khiến nhà đầu tư cảm thấy khó chịu và ức chế Do đó, kết quả giao dịch trước đây thường ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp giao dịch của nhà đầu tư trong tương lai.
Tâm lý bầy đàn là hiện tượng bắt chước lẫn nhau giữa các nhà đầu tư, dẫn đến hành động và quyết định theo đám đông Hành vi của mỗi nhà đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh, tạo ra sự thúc đẩy lòng tham khi họ chấp nhận mua cổ phiếu với giá cao, tin rằng thị trường sẽ tiếp tục tăng giá Khi đám đông đồng loạt mua vào một loại cổ phiếu, điều này có thể tạo ra giá ảo, trong khi nỗi sợ hãi giảm giá dẫn đến việc bán tháo, gây ra giảm sàn ở nhiều cổ phiếu Tâm lý bầy đàn thường xuất phát từ sự thiếu kinh nghiệm và thông tin của nhà đầu tư, cũng như những ảnh hưởng tâm lý mạnh mẽ từ nhóm Khi đó, quan điểm cá nhân có thể bị tạm thời lãng quên, tạo ra một định hướng chung, dù không nhất thiết phải có mặt đồng thời tại một địa điểm Dù có sự khác biệt trong lối sống hay tính cách, các nhà đầu tư vẫn có thể chia sẻ một tâm hồn tập thể khi họ cảm nhận và hành động theo cách tương tự.
Bầy đàn thường bị điều khiển bởi sự vô thức, với hành động chủ yếu do hệ thần kinh thực vật chi phối thay vì lý trí Nỗi sợ cô lập và mong muốn hòa nhập khiến nhiều người chấp nhận đi theo đám đông, dẫn đến sự thay đổi tính cách và dễ bị tác động bởi cảm xúc chung Tuy nhiên, sự lan tỏa này cũng có thể tạo ra những hành động cao thượng và tinh thần đoàn kết mạnh mẽ.
Theo Scharfstein và Stein (1990), tâm lý bầy đàn của các nhà đầu tư thường xuất phát từ sự quan tâm đến ý kiến của người khác về quyết định đầu tư Khi các nhà đầu tư không hành động hợp lý, ảnh hưởng của họ lên giá cổ phiếu sẽ không đáng kể Tuy nhiên, khi có sự đồng thuận trong suy nghĩ và hành động, hiệu ứng bầy đàn sẽ xuất hiện, dẫn đến việc định giá sai doanh nghiệp và kéo dài tình trạng này Hiệu ứng bầy đàn thường gây hại cho thị trường, khi các nhà đầu tư hành động theo cách lệch lạc chỉ vì thấy người khác làm như vậy, hoặc lo sợ bỏ lỡ cơ hội tốt khi không theo đuổi xu hướng chung Kết quả là, chứng khoán có thể trở nên khan hiếm bên mua hoặc bên bán, và thường xuyên được nhắc đến trên các kênh truyền thông.
2.2.4 Tâm lý sợ thua lỗ, không muốn mất mát
Tâm lý sợ thua lỗ ngày càng trở nên phổ biến trong giới đầu tư, có thể giải thích qua lý thuyết triển vọng của Tversky và Kahneman (1979) Nhà đầu tư thường giữ lại các mã chứng khoán giảm giá với hy vọng phục hồi, dẫn đến lo sợ mắc sai lầm khi phải đưa ra quyết định Điều này khiến họ dễ dàng bán các cổ phiếu đang tăng giá do lo ngại về sự sụt giảm giá trị Mặc dù họ nghĩ rằng đã giảm thiểu rủi ro, thực tế là danh mục đầu tư trở nên thiếu cân bằng và rủi ro gia tăng Tâm lý này bắt nguồn từ sự thiếu tự tin, kinh nghiệm và kiến thức, cùng với việc không chấp nhận sai lầm trong đầu tư chứng khoán, làm cho nhà đầu tư lưỡng lự và bỏ lỡ cơ hội hành động.
Tâm lý bi quan là thái độ ngập tràn sự tuyệt vọng và thiếu niềm tin vào tương lai tích cực, đặc biệt trong bối cảnh thị trường không khả quan và nhiều biến động Đối với nhà đầu tư, tâm lý này thường xuất hiện khi họ cảm thấy ngại rủi ro, dẫn đến thanh khoản thị trường chứng khoán trở nên yếu kém và giao dịch ảm đạm Tình trạng này có thể kéo dài cho đến khi nhà đầu tư tìm thấy niềm tin và những cơ hội đầu tư hấp dẫn trên thị trường.
Các nhân tố tác động tới tâm lý NĐT
2.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường đầu tư
2.3.1.1 Các nhân tố thuộc về kinh tế vĩ mô
Lãi suất thực chất là chi phí mà người dùng phải trả để sử dụng vốn của người khác, và không còn xa lạ với nhiều người Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương có tác động lớn đến tâm lý của nhà đầu tư (NĐT), cũng như các doanh nghiệp và tổ chức Sự biến động của lãi suất chiết khấu ảnh hưởng đến hành vi đầu tư, vì mỗi NĐT có những kỳ vọng khác nhau về lợi nhuận trong tương lai từ doanh nghiệp, dẫn đến sự khác biệt trong định giá cổ phiếu và quyết định mua hoặc bán của họ.
Thị trường gấu là giai đoạn mà các nhà đầu tư không mong muốn, khi mà họ kỳ vọng vào lợi nhuận cao từ khoản đầu tư Nếu dòng tiền doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế không đạt kỳ vọng, các nhà đầu tư thông minh sẽ không đánh giá cao doanh nghiệp và hạn chế việc nắm giữ cổ phần Họ có thể chuyển sang các kênh đầu tư an toàn hơn như trái phiếu chính phủ hoặc gửi tiết kiệm ngân hàng Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất, tỷ suất sinh lời phi rủi ro cũng tăng, khiến trái phiếu chính phủ trở nên hấp dẫn hơn Để bù đắp cho rủi ro tăng lên, các nhà đầu tư sẽ phải nâng tỷ suất sinh lời yêu cầu, tùy thuộc vào mức độ chấp nhận rủi ro của họ Nếu tỷ suất sinh lời kỳ vọng không thay đổi nhưng phần bù rủi ro giảm do tỷ suất sinh lời phi rủi ro tăng, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy rủi ro hơn và có thể chuyển sang các lĩnh vực đầu tư an toàn hơn để bảo vệ lợi nhuận.
Khi giá tiêu dùng và lãi suất tăng, sức mua của đồng tiền giảm, khiến khả năng sinh lời của nhà đầu tư không theo kịp sự mất giá của vốn Nhà đầu tư trở nên ngại rủi ro và chuyển hướng đầu tư sang bất động sản thay vì các doanh nghiệp Lạm phát cao là dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư, làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn Đồng thời, các chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ làm giảm tính thanh khoản của thị trường thứ cấp Do đó, lạm phát tăng cao có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng niềm tin vào nền kinh tế, đặc biệt khi chính phủ không có biện pháp hiệu quả.
Thị trường chứng khoán (TTCK) đang chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, mất đi sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư (NĐT) khi trở thành chỉ báo cho nền kinh tế Sự thiếu niềm tin có thể dẫn đến tâm lý bầy đàn, khiến NĐT bán tháo cổ phiếu, tạo ra cung vượt cầu và tình trạng thanh khoản kém Mức giảm giá trị đầu tư chứng khoán khiến NĐT lo ngại, đặc biệt khi lạm phát chưa tăng Điều này càng làm TTCK trở nên kém hấp dẫn so với các kênh đầu tư khác như gửi tiết kiệm với lãi suất cao hơn hoặc đầu tư vào vàng, vốn được xem là "nơi trú ẩn" an toàn trong bối cảnh kinh tế bất ổn.
Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ lên biến động thị trường chứng khoán (TTCK) là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế và nhà đầu tư Nghiên cứu của A Kurov, đăng trên tạp chí Tài chính Ngân hàng (2010), đã chỉ ra rằng các cú sốc trong quyết định chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý của nhà đầu tư.
Tỷ lệ thất nghiệp, chính sách tài khóa và tăng trưởng GDP đều ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư (NĐT) Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, NĐT thường ngại rủi ro và chuyển hướng sang các kênh đầu tư an toàn hơn, dẫn đến tình trạng thị trường chứng khoán (TTCK) ảm đạm Ngược lại, khi có niềm tin vào thị trường bò, NĐT sẵn sàng đầu tư vào cổ phiếu có tỷ suất sinh lời cao, tạo nên sự sôi động cho TTCK Thông tin tiêu cực về một lĩnh vực kinh doanh có thể khiến NĐT e ngại giao dịch, trong khi thông tin tích cực sẽ kích thích họ ra quyết định đầu tư nhanh chóng để không bỏ lỡ cơ hội.
2.3.1.3 Các nhân tố thuộc về TTCK
Thông tin là yếu tố quan trọng trong thị trường chứng khoán, ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của NĐT Việc tiếp cận thông tin kịp thời và chính xác là cần thiết để NĐT có thể đưa ra quyết định sáng suốt Tuy nhiên, khi NĐT không phân tích đúng thông tin, họ dễ rơi vào tâm lý kỳ vọng thái quá, dẫn đến quyết định đầu tư lệch lạc Hành vi không hợp lý này nếu diễn ra một cách hệ thống sẽ gây ra sự định giá sai cho chứng khoán trong thời gian dài Thêm vào đó, việc tiếp nhận thông tin không đồng nhất và độ chính xác của nguồn thông tin không được đảm bảo có thể khiến NĐT hành động theo tâm lý bầy đàn Tình trạng thanh khoản thấp và thông tin xấu về doanh nghiệp có thể làm NĐT lo sợ và bán tháo cổ phiếu, trong khi những cổ phiếu có tính thanh khoản cao lại khiến họ tự tin hơn Sự ảnh hưởng của thông tin không chính thống có thể dẫn đến việc giá cổ phiếu giảm mạnh, làm NĐT mất đi khả năng phân tích và đánh giá đúng đắn, từ đó bán đi những cổ phiếu tiềm năng.
2.3.1.4 Các nhân tố thuộc văn hóa
Nghiên cứu của Cheol S Eun và cộng sự (2015) cho thấy rằng giá cổ phiếu biến động nhiều hơn ở các quốc gia có văn hóa "chặt chẽ" và ít hơn ở các quốc gia "lỏng lẻo", với văn hóa ảnh hưởng đến sự đồng bộ giá cổ phiếu thông qua mối tương quan giao dịch của nhà đầu tư và môi trường thông tin Sự cởi mở về thương mại và tài chính làm giảm tác động của văn hóa đối với sự kết hợp giá cổ phiếu, cho thấy văn hóa là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu sự khác biệt giữa các quốc gia Nghiên cứu của Li Jun Ji cũng chỉ ra rằng người Canada thường bị ảnh hưởng bởi xu hướng giá gần đây và có xu hướng bán mà không xem xét các mô hình khác, trong khi người Trung Quốc lại có xu hướng dự đoán ngược lại và xem xét nhiều yếu tố hơn Điều này chứng tỏ rằng mỗi nền văn hóa hình thành cách nhìn nhận và quyết định đầu tư khác nhau, với người phương Đông thường cẩn trọng hơn trong việc giảm thiểu rủi ro, trong khi người phương Tây nhanh chóng nắm bắt cơ hội và chấp nhận rủi ro cao hơn.
2.3.3 Các nhân tố thuộc bản thân NĐT
R Sadi và các cộng sự (2011) đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa tính cách của các nhà đầu tư, dựa trên nghiên cứu với 200 nhà đầu tư được chọn ngẫu nhiên trên thị trường chứng khoán Dữ liệu được thu thập qua các câu hỏi và phân tích tham số cùng tương quan đã xác nhận tính chính xác của các giả thuyết Kết quả cho thấy các lỗi nhận thức có mối tương quan đáng kể với tính cách của nhà đầu tư Ngoài ra, MZ Tauni và các cộng sự (2017) cũng đã áp dụng khung tính cách Big Five của Costa và McCrae trong nghiên cứu của họ.
Nghiên cứu năm 1992 đã phân tích dữ liệu từ 541 nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Trung Quốc, cho thấy mối liên hệ giữa đặc điểm tính cách và hành vi giao dịch chứng khoán Những nhà đầu tư cởi mở thường giao dịch nhiều hơn khi nhận được thông tin từ tư vấn tài chính, trong khi những người có tính cách thái quá lại giao dịch ít hơn với sự hỗ trợ này Các nhà đầu tư dễ dãi có xu hướng giao dịch mạnh mẽ hơn khi thông tin được truyền đạt qua giao tiếp, giúp họ tránh những sai lầm và hối tiếc không cần thiết Ngược lại, những người có tính cách bảo thủ thường rất cố chấp và khó chấp nhận sai lầm của mình Tính cách con người có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi đầu tư trên thị trường chứng khoán, có thể mang lại kết quả tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào từng cá nhân.
Cảm xúc ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và đánh giá rủi ro của từng nhà đầu tư, với rủi ro có thể nhận biết nhưng cũng tồn tại những yếu tố không thể đo lường (Ricaciardi, 2008) Nghiên cứu của Shefrin (2002) và Lee (2006) chỉ ra rằng cảm xúc có mối liên hệ chặt chẽ với quán tính giá, trong đó cảm xúc phấn khích có thể tạo ra động lực mạnh mẽ Thông tin kích thích cảm xúc, với thông tin tích cực thường gây ra sự phấn khích và vui vẻ, trong khi thông tin tiêu cực lại làm gia tăng lo lắng và căng thẳng Thị trường thường phản ứng chậm với các tác động từ thông tin xấu.
Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm đầu tư là hai yếu tố quan trọng giúp nhà đầu tư (NĐT) đưa ra quyết định mua hoặc bán cổ phiếu Sự đánh giá cao về năng lực chuyên môn của NĐT ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược đầu tư của họ.
Mặc dù nhà đầu tư có trình độ học vấn cao thường có xu hướng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính, nhưng kinh nghiệm đầu tư hạn chế vẫn là một rào cản lớn đối với họ.
Thiếu hiểu biết và kinh nghiệm trong việc định giá cổ phiếu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư (NĐT), khiến họ dễ dàng hoảng sợ và bán chứng khoán khi giá giảm mạnh Ngược lại, NĐT có kiến thức vững vàng, qua các khóa học và chứng chỉ như CFA, thường tự tin hơn vào quyết định đầu tư của mình nhờ vào trình độ chuyên môn Kinh nghiệm lâu năm giúp họ nhận diện sai lầm kịp thời và loại bỏ những cổ phiếu không còn tiềm năng Tuy nhiên, sự tự tin này cũng có thể dẫn đến bảo thủ, khiến NĐT khó chấp nhận sai lầm và bảo vệ quyết định sai của mình, từ đó ảnh hưởng xấu đến tâm lý đầu tư.
Tính cách con người phát triển dần dần theo thời gian, thường khó nhận ra cho đến khi đạt 80 tuổi, và điều này ảnh hưởng đến nhu cầu và phong cách đầu tư ở từng độ tuổi Theo nghiên cứu, các nhà đầu tư (NĐT) sẽ có những phong cách đầu tư khác nhau tùy thuộc vào lứa tuổi của họ, phản ánh sự thay đổi trong tính cách và nhu cầu cá nhân qua các giai đoạn khác nhau của cuộc đời.
SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Số liệu nghiên cứu
Tác giả đã thực hiện khảo sát và phân tích dữ liệu từ bảng câu hỏi, với đối tượng là các nhà đầu tư cá nhân tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tổng cộng, tác giả thu được 143 phiếu trả lời, nhưng sau khi kiểm tra, 9 phiếu không đạt độ tin cậy và không được đưa vào mẫu Cuối cùng, quy mô mẫu gồm 134 nhà đầu tư cá nhân.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính là phương pháp tiếp cận nhằm mô tả và phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi của con người từ góc nhìn của nhà nghiên cứu Phương pháp này cung cấp cái nhìn toàn diện về môi trường xã hội nơi nghiên cứu diễn ra, xem xét đời sống xã hội như một chuỗi sự kiện liên kết chặt chẽ Nghiên cứu định tính yêu cầu sự linh hoạt và biện chứng, cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các nhà nghiên cứu có thể chưa nhận ra trước đó.
Các phương pháp nghiên cứu định tính, ban đầu phát triển trong lĩnh vực nhân chủng học, cho phép các nhà nghiên cứu sống và quan sát trong cộng đồng để hiểu rõ hành vi của người dân Các kỹ thuật như phỏng vấn phi cấu trúc, thu thập lịch sử đời sống, thảo luận nhóm và nghiên cứu trường hợp được sử dụng để thu thập thông tin mô tả và phi định lượng Ngày nay, những phương pháp này không chỉ giới hạn trong nhân chủng học mà còn được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau Do đó, nghiên cứu định tính hoàn toàn phù hợp để khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Dữ liệu thu thập sẽ được áp dụng trong phân tích thống kê mô tả, tiếp theo đó, tác giả sẽ tiến hành phân tích định lượng thông qua phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA).
Phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) là một kỹ thuật phân tích hữu ích giúp xác định các khía cạnh hay nhân tố có thể giải thích mối liên hệ tương quan giữa các biến trong một tập dữ liệu.
Các tác giả Mayers, L.S., Gamst, G., và Guarino A.J (2000) chỉ ra rằng trong phân tích nhân tố, phương pháp Principal Components Analysis kết hợp với phép xoay Varimax là phương pháp phổ biến nhất được sử dụng.
Theo Hair & ctg (1998, 111), Factor loading (hệ số tải nhân tố hay trọng số nhân tố) là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực củaEFA:
• Factor loading > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu
• Factor loading > 0,3 được xem là quan trọng
• Factor loading > 0,3 được xem là có ý nghĩa thực tiễn Điều kiện để phân tích nhân tố khám phá là phải thỏa mãn các yêu cầu:
• Hệ số tải nhân tố (Factor loading) > 0.5
Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) là chỉ số quan trọng để đánh giá sự phù hợp của phân tích nhân tố, với giá trị trong khoảng 0.5 đến 1 Một trị số KMO cao cho thấy rằng phân tích nhân tố là thích hợp và có thể mang lại những kết quả đáng tin cậy.
Kiểm định Bartlett là một phương pháp thống kê quan trọng để kiểm tra giả thuyết về sự không tương quan giữa các biến trong tổng thể Khi kiểm định này cho ra kết quả có ý nghĩa thống kê (Sig < 0.05), điều đó cho thấy các biến quan sát có mối tương quan với nhau trong tổng thể.
Phần trăm phương sai trích (Percentage of variance) lớn hơn 50% cho thấy tỷ lệ biến thiên của các biến quan sát Cụ thể, nếu xem biến thiên là 100%, giá trị này cho biết mức độ mà phân tích nhân tố có thể giải thích được phần trăm biến thiên đó.
Bằng cách áp dụng phân tích EFA, tác giả kỳ vọng sẽ khám phá và xác định các nhóm yếu tố cấu thành tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhóm 1: Tâm lý tự tin thái quá được giải thích qua các thuộc tính sau:
+ NĐT tự tin vào khả năng thực hiện tốt hơn các NĐT khác khi lựa chọn chứng khoán.
+ NĐT tự tin vào khả năng định giá, phân tích, đánh giá thị trường của mình. Nhóm 2: Tâm lý bầy đàn được giải thích qua các thuộc tính sau:
+ NĐT tin tưởng lời tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán và của các chuyên gia phân tích đầu tư chứng khoán.
+ Các báo cáo nhận định thị trường của các công ty chứng khoán
+ Tin tưởng vào thông tin giao dịch của NĐT nước ngoài
Nhóm 3: Tâm lý sợ thua lỗ, không muốn mất mát được giải thích qua các thuộc tính sau
TÂM LÝ NĐT TRÊN TTCK VIỆT NAM
Đặc điểm TTCK Việt Nam
4.1.1 Tổng quan sự phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn từ 2015 đến nay
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện cấu trúc thị trường tài chính, tạo ra kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Sau 20 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã hình thành đầy đủ ba mảng thị trường cổ phiếu, trái phiếu và phái sinh Quy mô vốn hóa và thanh khoản của thị trường không ngừng được cải thiện, với sự nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng trong những năm gần đây.
Biểu đồ 3.1: Vốn hóa thị trường (tỷ đồng)
Đến năm 2019, quy mô vốn thị trường vượt 5,5 triệu tỷ đồng, với mức tăng 57,22% trong giai đoạn 2016-2017 Mặc dù có sự sụt giảm trong những tháng đầu năm 2020 do dịch bệnh Covid-19, nhưng điều này phản ánh thực tế của nền kinh tế khó khăn Tổng thể, quy mô vốn thị trường đã có sự phát triển rõ rệt, với sự gia tăng số lượng doanh nghiệp cổ phần, tạo sức hấp dẫn cho thị trường Đến tháng 04/2020, có 1.636 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch Các đợt chào bán cổ phiếu lần đầu của doanh nghiệp niêm yết thu hút đông đảo nhà đầu tư, đặc biệt là từ các tổ chức lớn trong và ngoài nước, thúc đẩy sự phát triển quy mô và hoạt động giao dịch trên thị trường.
Năm 2019, sàn chứng khoán Việt Nam đã ra mắt hai sản phẩm mới là chứng quyền có đảm bảo (bắt đầu giao dịch từ 28/06/2019) và hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ (bắt đầu giao dịch từ 04/07/2019), thu hút sự quan tâm đáng kể từ các nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc điều tiết và ổn định nền kinh tế vĩ mô, đồng thời cải thiện tính minh bạch và công khai của nền kinh tế Hiện nay, các doanh nghiệp niêm yết đã áp dụng nhiều chuẩn mực quản trị, công bố thông tin và chế độ báo cáo, góp phần nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp cũng như độ tin cậy và minh bạch của các báo cáo tài chính.
Với sự hấp dẫn và chất lượng ngày càng cao, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp, đồng thời thu hút các nhà đầu tư nhờ tính minh bạch và công khai.
4.1.2 TTCK Việt Nam là thị trường cận biên
Thị trường cận biên, được định nghĩa bởi Farida Khambata, là những thị trường vốn kém phát triển tại các quốc gia đang phát triển Những quốc gia này phát triển hơn các quốc gia kém phát triển nhất nhưng vẫn có quy mô nhỏ, tiềm ẩn nhiều rủi ro về vốn và thanh khoản, cũng như có mức độ cởi mở và liên kết yếu Mặc dù có ít khả năng tiếp cận và rủi ro hơn so với các thị trường khác, thị trường cận biên vẫn mang lại nhiều cơ hội đầu tư tiềm năng Đặc biệt, thị trường này thu hút các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận dài hạn lớn, nhờ vào khả năng phát triển ổn định trong tương lai.
Hiện nay, các thị trường cận biên trên thế giới có quy mô khoảng 750 tỷ USD, đang trong quá trình nâng hạng thành thị trường mới nổi Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố cần lưu ý để đảm bảo sự phát triển bền vững của các thị trường này.
Phân tích tâm lý NĐT trên TTCK Việt Nam và tác động của nó tới TTCK Việt Nam
Thị trường tài chính Việt Nam đang liên tục mở rộng và đáp ứng tốt yêu cầu về thanh khoản Đồng thời, việc nới lỏng quy định sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển này.
Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cần thiết để nâng hạng lên thị trường mới nổi, điều này tạo ra những rào cản lớn trong quá trình phát triển Thị trường cận biên của Việt Nam thường xuyên gặp phải tình trạng định giá không hợp lý do thao túng thị trường, cùng với lượng cổ phiếu tự do thấp cần được cải thiện Để trở thành một thị trường mới nổi đáng tin cậy theo tiêu chuẩn MSCI, Việt Nam cần khắc phục những hạn chế này.
4.2 Phân tích tâm lý NĐT trên TTCK Việt Nam và tác động của nó tới TTCK Việt
Nam giai đoạn từ 2015 tới nay
Kết quả kiểm định cho thấy, nhà đầu tư (NĐT) trên thị trường chứng khoán Việt Nam có những đặc điểm tâm lý tương tự như NĐT của thị trường cận biên, bao gồm: (1) tâm lý ngại rủi ro, (2) tâm lý bầy đàn, và (3) tâm lý tự tin thái quá Các chỉ số thống kê cho thấy hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,5, phần trăm phương sai trích vượt quá 50%, và chỉ số KMO đạt 0,666, cho thấy sự phù hợp của kỹ thuật phân tích nhân tố (EFA) với mức ý nghĩa thống kê 0,05 (Sig = 0.000 < 0,05).
Nhóm 3: Tâm lý sợ thua lỗ, không muốn mất mát được giải thích qua các thuộc tính sau
+ Khi có thông tin xấu về cổ phiếu NĐT đang nắm giữ, NĐT sẽ bán nó ngay + NĐT vội vàng bán đi các chứng khoán đang có lời
Tác giả sẽ tiến hành kiểm định thang đo các nhóm tâm lý bằng hệ số Cronbach’s alpha Kết quả từ bảng 3.8 (phụ lục) chỉ ra rằng giá trị Cronbach’s alpha của mỗi nhóm nhân tố đều vượt quá 0,6, cho thấy độ tin cậy của thang đo.
- Total Correlation” đều có giá trị lớn hơn so với 0.3, chứng tỏ các câu hỏi đủ điều kiện để sử dụng cho nghiên cứu.
4.2.1.1 Biểu hiện của tâm lý bầy đàn trong điều kiện Việt Nam
Tâm lý bầy đàn là một nhược điểm phổ biến trên thị trường chứng khoán toàn cầu, đặc biệt trong nền kinh tế cận biên như Việt Nam Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, phần lớn nhà đầu tư thường bị ảnh hưởng bởi tâm lý này, dẫn đến những quyết định đầu tư thiếu cân nhắc và dễ bị tác động bởi xu hướng đám đông.
Nhà đầu tư cá nhân thường có quy mô vốn nhỏ, do đó họ chú trọng vào thông tin nội bộ và các tin tức đột biến liên quan đến doanh nghiệp Điều này giúp họ tìm kiếm cơ hội đầu tư tiềm năng, với hy vọng mang lại lợi nhuận tăng trưởng vượt bậc.
Theo số liệu thống kê, trong nhóm yếu tố tâm lý bầy đàn, có 2,24% nhà đầu tư không tin tưởng vào thông tin giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài, trong khi đó 29,85% có mức độ tin tưởng bình thường Đáng chú ý, 56,72% nhà đầu tư thể hiện niềm tin vào thông tin này, và 8,96% rất tin tưởng.
Ngay sau khi thông tin về việc tổ chức Đại hội cổ đông được công bố, giá cổ phiếu HAG và HNG đã tăng nhẹ trở lại sau một thời gian dài giảm giá Chỉ sau hai phiên giao dịch, cả hai cổ phiếu này đã đồng loạt tăng kịch trần.
Sức nóng của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thu hút sự quan tâm của nhiều nông dân trong bối cảnh tăng trưởng cao nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương Họ thường không có kiến thức về phân tích cổ phiếu hay định giá, mà chủ yếu dựa vào thông tin từ lời đồn Nghiên cứu tâm lý học chỉ ra rằng nhà đầu tư bầy đàn có xu hướng hành động theo những người có ảnh hưởng và khả năng phân tích thị trường Tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư còn bị ảnh hưởng bởi các nhà đầu tư nước ngoài Kết quả khảo sát cho thấy yếu tố tâm lý bầy đàn thể hiện qua tư vấn đầu tư từ các công ty chứng khoán, chuyên gia phân tích, thông tin giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài và các báo cáo nhận định thị trường.
4.2.1.2 Tác động của hành vi đầu tư theo bầy đàn tới TTCK Việt Nam
Khi nhiều nhà đầu tư (NĐT) có hành vi tương tự, điều này tạo ra một xu hướng giao dịch mạnh mẽ, dẫn đến sự gia tăng hoặc giảm sút trong khối lượng giao dịch, từ đó kích thích NĐT khác tham gia mua bán Các tổ chức đầu tư lớn và nhà làm thị trường thường lợi dụng hiệu ứng này để điều hướng hành vi của NĐT theo kế hoạch của họ, đặc biệt trong thời điểm thị trường biến động mạnh Ví dụ, giá cổ phiếu HAG và HNG của Hoàng Anh Gia Lai đã bị ảnh hưởng bởi hành vi giao dịch đồng loạt Tương tự, vào cuối năm 2019 và đầu năm 2020, NĐT cũng đã đồng loạt mua cổ phiếu HPG, dẫn đến tâm lý "không mua là có lỗi" Ngày 06/03/2020, khi ca nhiễm COVID-19 thứ 17 được ghi nhận tại Việt Nam, tâm lý hoảng loạn lan rộng, khiến VNINDEX giảm 55.95 điểm, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 10/2001 Tâm lý bầy đàn này rất nguy hiểm, có thể dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Việt Nam NĐT cá nhân, khi thiếu phân tích và kiểm chứng thông tin, dễ bị cuốn vào tâm lý này, dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm và mất niềm tin vào thị trường.
4.2.2 Tâm lý tự tin thái quá
4.2.2.1 Biểu hiện của tâm lý tự tin thái quá Đã có nhiều nghiên cứu trước đây về những tồn tại tâm lý tự tin thái quá trong NĐT trên TTCK Việt Nam Điển hình như nghiên cứu của ông Phan Trần Trung
Theo nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Tài chính, Dũng đã chỉ ra rằng nhà đầu tư (NĐT) Việt Nam có tâm lý tự tin thái quá Tương tự, TS Nguyễn Thế Hiển (2012) cũng khẳng định rằng hiện tượng này tồn tại trong hành vi của NĐT trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam.
Kết quả khảo sát cho thấy, trong số các nhà đầu tư (NĐT), chỉ có 4 người rất tự tin, trong khi 36 người (26,9%) không tự tin Số NĐT bình thường chiếm 29,1% với 39 người, và 8 người rất không đồng ý, chiếm 6% Về khả năng phân tích và đánh giá thị trường, 53 NĐT (39,6%) tự tin, 3 người rất tin tưởng, 48 người bình thường, 22 người không tin tưởng, và 8 người rất không tin tưởng.
4.2.2.2 Tác động của hành vi đầu tư theo tâm lý tự tin thái quá tới TTCK Việt Nam
Nhiều nhà đầu tư (NĐT) thường không đánh giá chính xác xác suất xảy ra của một sự kiện, vì họ tin rằng mình có thông tin tốt hơn so với những NĐT khác trên thị trường Điều này ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán (TTCK) và có thể dẫn đến xu hướng bầy đàn Một trong những nguyên nhân chính của tâm lý này là NĐT có xu hướng tìm kiếm thông tin bổ sung để khẳng định mình là người thông minh hơn Tuy nhiên, sự tự tin thái quá có thể dẫn đến việc họ không đa dạng hóa danh mục đầu tư và có cái nhìn lệch lạc về rủi ro Hơn nữa, họ thường giao dịch với khối lượng lớn vì tin rằng chỉ mình họ nắm bắt được những cơ hội tiềm năng.
4.2.3 Tâm lý sợ thua lỗ, không muốn mất mát (tâm lý lo sợ rủi ro)
4.2.3.1 Biểu hiện của tâm lý sợ thua lỗ, không muốn mất mát
Tâm lý rủi ro không chỉ xuất hiện ở các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam mà còn tồn tại ở các nhà đầu tư tại những quốc gia phát triển như Nhật Bản và Hong Kong Điều này cho thấy rằng tâm lý rủi ro là một yếu tố phổ biến trong hành vi đầu tư toàn cầu.
Nguyên nhân hình thành tâm lý NĐT trên TTCK Việt Nam
4.3.1 Đặc điểm của môi trường đầu tư chứng khoán Việt nam
4.3.1.1 Mức độ rủi ro thông tin cao
Rủi ro có 02 loại bao gồm rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống Trong đó:
Rủi ro không có hệ thống là loại rủi ro đặc trưng cho một ngành hoặc doanh nghiệp cụ thể, phát sinh từ các yếu tố như năng lực quản lý và đặc điểm của ngành nghề kinh doanh Loại rủi ro này không tác động đến các doanh nghiệp và ngành nghề khác, cho thấy tính chất riêng biệt và độc lập của nó trong bối cảnh kinh tế.
Rủi ro có hệ thống là loại rủi ro phát sinh từ sự biến động chung của tỷ suất lợi nhuận trên thị trường, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như tình hình kinh tế, thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước và biến động của thị trường toàn cầu Những yếu tố này tác động đến hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, gây ra những ảnh hưởng sâu rộng và khó lường.
Rủi ro thông tin là một trong những rủi ro chính trong đầu tư, thuộc về rủi ro phi hệ thống Rủi ro này bao gồm hai khía cạnh chính: (1) Rủi ro trong việc truyền tin và bảo vệ thông tin nội bộ của tổ chức, có thể tạo ra cơ hội và điều kiện giao dịch nhưng cũng gây tổn thất cho những đối tượng không được tiếp cận kịp thời (2) Rủi ro trong việc tiếp nhận thông tin từ các nguồn bên ngoài Các dạng chính của rủi ro thông tin cần được nhận diện và quản lý hiệu quả trong quá trình đầu tư.
Thông tin bất đối xứng trong thị trường chứng khoán dẫn đến việc các nhà đầu tư nhỏ lẻ thường không nắm bắt kịp thời các cơ hội do thiếu thông tin so với những người khác Họ có thể gặp khó khăn trong việc giao dịch do không tiếp cận được thông tin quan trọng Đồng thời, sự loạn thông tin với nhiều nguồn tin không chính xác hoặc không có giá trị càng làm cho các nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc xử lý và ra quyết định đúng đắn.
Nghiên cứu của Xuân Anh và cộng sự (2016) cùng Tiến Mạnh và các cộng sự (2017) đã chỉ ra rằng không có bằng chứng cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam thuộc một trong ba dạng thị trường hiệu quả, bao gồm yếu, trung bình và mạnh Điều này dẫn đến việc yếu tố độc lập trong quyết định đầu tư vẫn chưa rõ ràng, và các nhà đầu tư không thực sự hành động như những nhà đầu tư hợp lý, như Nguyễn Thế Hiển (2012) đã nêu.
Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhà đầu tư có thể dễ dàng truy cập vào nhiều kênh thông tin như website chứng khoán, nhà môi giới, diễn đàn và ý kiến từ các nhà đầu tư khác Ngoài ra, còn có nhiều báo cáo đánh giá từ chuyên gia và môi giới để hỗ trợ quyết định đầu tư Tuy nhiên, với quá nhiều nguồn thông tin, nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm và kiến thức để đánh giá chính xác, dẫn đến tâm lý rủi ro hoặc quyết định đầu tư theo xu hướng của số đông.
4.3.1.2 Vai trò dẫn dắt của NĐT chuyên nghiệp hạn chế.
Các NĐT chuyên nghiệp là các NĐT được quy định rõ trong điều 11, Luật chứng khoán Việt Nam ban hành năm 2019 Cụ thể:
NĐT chứng khoán chuyên nghiệp là NĐT có năng lực tài chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán bao gồm:
Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức tài chính quốc tế, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, và tổ chức tài chính nhà nước được phép mua chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan.
+ Công ty có vốn điều lệ đã góp đạt trên 100 tỷ đồng hoặc tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch;
+ Người có chứng chỉ hành nghề chứng khoán;
Cá nhân được công nhận là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp cần nắm giữ danh mục chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch với giá trị tối thiểu 02 tỷ đồng, theo xác nhận của công ty chứng khoán tại thời điểm xác định tư cách.
Để được công nhận là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, cá nhân cần có thu nhập chịu thuế trong năm gần nhất tối thiểu là 01 tỷ đồng Điều này được xác định dựa trên hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế hoặc chứng từ khấu trừ thuế từ tổ chức, cá nhân chi trả.
Hiện nay, nhà đầu tư cá nhân chiếm khoảng 95% tổng số nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam Sự thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp và tổ chức, đặc biệt là quỹ đầu tư chuyên nghiệp, đã bộc lộ rõ ràng qua những biến động lớn của thị trường, dẫn đến sự thiếu ổn định trong thị trường chứng khoán Việt Nam.
4.3.1.3 Các hoạt động dịch vụ hỗ trợ NĐT của TTCK còn yếu.
Môi giới chứng khoán hiện nay vẫn thu hút nhiều người đam mê, mặc dù chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán đã được cải thiện Nghiên cứu của Lê Ngọc Cường (2019) chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ môi giới, trong đó có dịch vụ hỗ trợ Công nghệ trí tuệ nhân tạo đã được áp dụng rộng rãi, nhưng dịch vụ hỗ trợ vẫn chưa hiệu quả và thiếu tính kịp thời Các nhà đầu tư nhỏ lẻ, đặc biệt là những người mới tham gia với vốn hạn chế, thường không nhận được sự quan tâm đầy đủ từ các chuyên gia tư vấn, dẫn đến việc thiếu kiến thức cơ bản trong đầu tư chứng khoán.
4.3.1.4 Thị trường quy mô nhỏ, dễ bị thao túng
Qua 20 năm hoạt động của TTCK, hiện tượng thao túng giá diễn ra khá phổ biến Có những vụ thao túng đi vào lịch sử phải kể đến như thông tin nội gián của cổ phiếu KSH (CTCP Tập đoàn khoáng sản Việt Nam) hay gần đây nhất là thông tin thao túng cổ phiếu FTM được cả truyền hình thời sự VTV quan tâm Như vậy, với thị trường như TTCK Việt Nam, tuy quy mô vốn được cải thiện nhưng vẫn còn nhỏ nên việc thao túng một cổ phiếu là hoàn toàn có thể, chỉ cần có một tiềm lực tài chính đủ mạnh. Đối với thị trường phái sinh tại ngày đáo hạn hợp đồng tương lai thường có những hiện tượng lạ Tuy nhiên chưa thể kết luận là thị trường bị thao túng Trên thực tế ở thị trường phái sinh hiện nay, khối lượng khớp hợp đồng tương lai mỗi phiên dao động trong khoảng 60.000 đến 150.000 đơn vị, quy mô vẫn còn tương đối nhỏ 34
4.3.1.5 NĐT nước ngoài giữ vai trò dẫn dắt thị trường
Tác giả đã chỉ ra rằng tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư (NĐT) trên thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi giao dịch của NĐT nước ngoài Kể từ tháng 3 năm 2018, xu hướng mua bán của khối ngoại đã tác động đáng kể đến tâm lý NĐT Việt Nam, dẫn đến việc họ chạy theo xu hướng này và khiến chỉ số VNINDEX liên tục lập đỉnh mới trong hơn một tháng Mặc dù việc mua bán theo khối ngoại có thể mang lại cơ hội cho NĐT nhờ vào cách định giá và phân tích rõ ràng của họ, nhưng cũng có nguy cơ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lệch, như là mua đuổi giá.
4.3.1.6 Khung pháp luật bảo vệ NĐT chưa đồng bộ.
Các quy định bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư (NĐT) được quy định rõ ràng trong Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán Cụ thể, Luật Doanh nghiệp nêu rõ các điều khoản bảo vệ quyền lợi NĐT, trong khi Luật Đầu tư quy định tại Điều 13 và Luật Chứng khoán có các điều khoản quan trọng tại các Điều 9, 22, 46, 49, 65, và 68.
Mặc dù quyền lợi của nhà đầu tư đã được đề cập, nhưng vẫn còn hạn chế và thiếu tính đồng nhất, thể hiện qua việc tuân thủ chưa chặt chẽ từ cả công ty đại chúng lẫn các thành viên thị trường Điều này được thể hiện ở điều 13 của Luật đầu tư, nơi quy định về sự thay đổi của pháp luật liên quan đến ưu đãi đầu tư Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn cần nhiều hơn nữa, bao gồm việc đảm bảo quyền sở hữu tài sản và bảo vệ đầu tư trong trường hợp có sự thay đổi về pháp luật.
4.3.2 Đặc điểm NĐT trên TTCK Việt Nam
4.3.2.1 Chưa được đào tạo các kiến thức nền tảng về tài chính doanh nghiệp và kinh doanh chứng khoán