NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Lịch sử phát triển xã hội cho thấy thuế ra đời là một sự phát triển khách quan, liên quan mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của Nhà nước Nhà nước, với vai trò là tổ chức chính trị đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thực hiện các chính sách và quyết định của họ Để đạt được các mục tiêu này, Nhà nước cần huy động nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực vật chất đóng vai trò quan trọng Thông qua quyền lực chính trị, Nhà nước có khả năng tập trung của cải xã hội bằng nhiều hình thức, bao gồm cả việc vận động người dân tự nguyện đóng góp và vay mượn, trong đó thuế là hình thức bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội.
Theo góc độ pháp lý, thuế là khoản thu bắt buộc do Nhà nước áp đặt, mà các tổ chức và cá nhân phải nộp vào ngân sách Nhà nước (NSNN) khi đáp ứng đủ các điều kiện nhất định.
Thuế ảnh hưởng rộng rãi đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, vì vậy việc phân loại thuế cũng rất đa dạng.
Thuế được chia thành hai loại chính dựa trên mục đích điều tiết: thuế trực thu và thuế gián thu Thuế trực thu là loại thuế mà người nộp thuế cũng chính là người chịu thuế, trong khi thuế gián thu là thuế được thu gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, nơi người nộp thuế không phải là người chịu thuế Ngoài ra, thuế còn được phân loại theo đối tượng đánh thuế thành ba loại: thuế thu nhập, thuế tài sản và thuế tiêu dùng Thuế tiêu dùng áp dụng cho phần thu nhập mà người chịu thuế sử dụng cho tiêu dùng, như thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế thu nhập đánh vào thu nhập của cá nhân và tổ chức, ví dụ như thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp Cuối cùng, thuế tài sản là loại thuế đánh vào chính tài sản, bao gồm thuế chuyển nhượng vốn và thuế nhà đất.
Thuế thu nhập là một loại thuế quan trọng trong hệ thống thuế của các quốc gia, đặc biệt là ở các nước phát triển Lịch sử của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bắt đầu từ năm 1799 tại Anh, và qua nhiều năm, nó đã phát triển vững chắc, trở thành một sắc thuế trung tâm trong nền kinh tế.
180 quốc gia trên thế giới [19, tr.25].
Khái niệm “thu nhập cá nhân” theo Từ điển tiếng Việt của giáo sư Hoàng Phê được định nghĩa là tổng số tiền mà một cá nhân nhận được từ các nguồn khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm lương, tiền thưởng, thu nhập từ đầu tư và các khoản thu khác.
Thu nhập được xác định là khoản tiền nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, thường tính theo tháng hoặc năm Theo lý thuyết kinh tế, Haig và Simons định nghĩa thu nhập là giá trị tiền tăng thực tế trong khả năng tiêu dùng của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định Trong cách hiểu thông thường, "thu nhập cá nhân" được xem là khoản thu nhập mà một người kiếm được từ hoạt động của mình.
Như vậy, thuế TNCN là thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế [30, tr 80].
1.1.2 Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế TNCN là thuế trực thu
Thuế trực thu là loại thuế mà người nộp thuế (NNT) cũng là người gánh chịu thuế, khác biệt với thuế tiêu dùng như thuế giá trị gia tăng hay thuế tiêu thụ đặc biệt, không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản của NNT Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được tính dựa trên thu nhập chịu thuế mà không cần thông qua hành vi tiêu dùng hay trung gian nào, điều này dễ dẫn đến phản ứng từ NNT Việc đánh thuế trực tiếp lên thu nhập có thể làm giảm động lực lao động của cá nhân, gây ảnh hưởng đến tâm lý chung và dễ dẫn đến tình trạng trốn thuế, lách thuế, đặc biệt khi có mức thuế suất cao.
Thứ hai, thuế TNCN có đối tượng chịu thuế là thu nhập của cá nhân
Trong nền kinh tế thị trường, cá nhân có thể kiếm thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau như tiền lương, kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản và đầu tư vốn Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thu nhập này đều phải chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) Để đảm bảo tính khả thi và công bằng, chỉ những thu nhập đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật mới được xem là thu nhập chịu thuế, nhằm tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thuế TNCN là loại thuế được áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công
Theo quy định, thu nhập chịu thuế TNCN được chia thành nhiều phần, mỗi phần áp dụng một mức thuế suất tương ứng Mức thuế suất tăng dần theo từng bậc thu nhập, dẫn đến số thuế phải nộp là tổng của các bậc thuế đó Điều này có nghĩa là thu nhập cao hơn sẽ chịu mức thuế TNCN lớn hơn, giúp Nhà nước điều tiết thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội.
Thuế TNCN là loại thuế áp dụng cho nhiều tầng lớp dân cư, nhưng tính ổn định của nó không cao do nền kinh tế Việt Nam còn đang phát triển và thường xuyên biến động Các mức thuế suất và khoản giảm trừ gia cảnh thường xuyên thay đổi, phản ánh sự điều chỉnh trong chính sách thuế theo từng thời kỳ Quá trình quản lý thuế TNCN gặp nhiều khó khăn và phức tạp, đồng thời chi phí quản lý cũng rất lớn.
1.1.3 Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân
Nguyên tắc đánh thuế của Nhà nước là hệ thống quan điểm chỉ đạo có ảnh hưởng sâu sắc đến việc duy trì hoặc loại bỏ hệ thống thuế quốc gia, tác động trực tiếp đến hoạt động của pháp luật thuế Thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (TNCN), ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nộp thuế (NNT), dẫn đến những phản ứng trái chiều và tác động tiêu cực trong quá trình thực thi Do đó, việc thực hiện pháp luật thuế TNCN cần tuân thủ chặt chẽ bốn nguyên tắc đã được xác định.
1.1.3.1 Nguyên tắc đánh thuế công bằng
Nguyên tắc thuế yêu cầu mọi cá nhân có khả năng chịu thuế phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế Tất cả mọi người có điều kiện liên quan đến thuế giống nhau cần được đối xử công bằng Đặc biệt, những người có thu nhập cao hơn sẽ phải đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước.
Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng yêu cầu rằng những đối tượng nhận ưu đãi và giảm trừ thuế TNCN tương tự phải được áp dụng các chế độ thuế giống nhau Đồng thời, những đối tượng đủ điều kiện được khuyến khích và ưu đãi cũng cần được hưởng những chế độ ưu đãi tương ứng.
1.1.3.2 Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế
Thuế TNCN đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của mình Tuy nhiên, cần cân nhắc để không làm người nộp thuế rơi vào tình trạng khó khăn Là loại thuế trực thu, thuế TNCN ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người nộp thuế; nếu mức thuế suất quá cao, sẽ tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống và tâm lý của họ, dẫn đến nguy cơ trốn thuế Ngược lại, nếu mức thuế suất quá thấp, nguồn thu ngân sách sẽ giảm đáng kể, ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy Nhà nước.
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.2.1 Khái niệm pháp luật thuế thu nhập cá nhân Để có thể thực hiện hoạt động thu thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng, cần phải có một hệ thống pháp luật cụ thể đi kèm Bởi thuế TNCN ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập hay nói cách khác là đến lợi ích của chính cá nhân đó, nên việc nộp thuế nếu chỉ dựa trên tinh thần tự nguyện là vô cùng khó khăn Lúc này, Nhà nước buộc phải dùng quyền lực chính trị của mình để đưa ra các biện pháp giải quyết Cụ thể là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mang tính cưỡng chế, bắt buộc chung để buộc các cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ của mình Đó là pháp luật về thuế TNCN.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bao gồm các quy định do Nhà nước ban hành liên quan đến đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, kỳ tính thuế và căn cứ tính thuế cho cả cá nhân cư trú và không cư trú, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Nhà nước và người nộp thuế (NNT).
Để đạt được mục tiêu mong đợi, pháp luật thuế TNCN cần được xây dựng thành một hệ thống thống nhất, gắn liền với thực tiễn đời sống của nhân dân Việc xây dựng hệ thống này phải dựa trên tình hình phát triển của đất nước, chính sách quốc gia, mức thu nhập của người dân, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.
1.2.2 Đặc trưng của pháp luật thuế thu nhập cá nhân
Đối tượng chịu tác động của pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) rất đa dạng, bao gồm chủ yếu các cá nhân có thu nhập chịu thuế Ngoài ra, pháp luật này cũng ảnh hưởng đến các cơ quan quản lý thuế và những cá nhân làm việc trong ngành thuế như đại lý hải quan và đại lý thuế.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân quy định về đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, giảm thuế, kỳ tính thuế, và căn cứ tính thuế cho cả cá nhân cư trú và không cư trú Điều này khác với pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân, vốn bao gồm các quy định do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế, xử lý vi phạm, và giải quyết tranh chấp về thuế giữa Nhà nước và người nộp thuế.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) áp dụng nguyên tắc đánh thuế lũy tiến dựa trên mức độ thu nhập, điều này tạo nên sự khác biệt so với các loại thuế khác Nguyên tắc này không được áp dụng cho thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), mặc dù đây cũng là loại thuế trực thu.
1.2.3 Nội dung pháp luật về thuế thu nhập cá nhân
1.2.3.1 Quy định pháp luật về đối tượng chịu thuế
Thuế TNCN là loại thuế trực thu, do đó, đối tượng chịu thuế cũng chính là người nộp thuế Việc xác định đối tượng nộp thuế là yếu tố quan trọng để áp dụng cách tính thuế phù hợp Đối với cá nhân, "nguồn phát sinh thu nhập" và "nơi cư trú" có thể khác nhau giữa các quốc gia Do đó, để xác định đối tượng nộp thuế, thường dựa vào hai tiêu chí chính: "nguồn phát sinh thu nhập" và "nơi cư trú".
Tiêu thức “nơi cư trú” yêu cầu cá nhân nộp thuế cho tất cả thu nhập toàn cầu tại quốc gia nơi họ được xác nhận cư trú Ngược lại, tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập” chỉ yêu cầu cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân tại quốc gia nơi có nguồn thu nhập Trên thực tế, việc tính thuế thu nhập cá nhân của các quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào hai yếu tố này.
“nơi cư trú” Bởi việc tính thuế TNCN theo phương thức “nguồn phát sinh thu nhập” rất phức tạp và khó xác định được đầy đủ.
1.2.3.2 Quy định pháp luật về thu nhập chịu thuế và thu nhập miễn thuế
Hiện nay, các quốc gia đã quy định rõ ràng về các loại thu nhập chịu thuế và thu nhập miễn thuế Việc phân loại chính xác các khoản thu nhập này sẽ giúp đơn giản hóa quy trình xác định thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và nâng cao hiệu quả quản lý thuế.
Tại Việt Nam, có 10 loại thu nhập chịu thuế và 16 loại thu nhập miễn thuế, giúp Nhà nước dễ dàng kiểm soát và tính toán nghĩa vụ thuế của cá nhân.
1.2.3.3 Quy định pháp luật về các khoản giảm trừ
Các khoản giảm trừ là công cụ quan trọng nhằm bảo vệ mức sống và chất lượng cuộc sống của cá nhân trong xã hội Quy định về các khoản giảm trừ này khác nhau giữa các quốc gia Tại Việt Nam, các khoản giảm trừ bao gồm giảm trừ gia cảnh, giảm trừ cho các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, và các khoản từ thiện, nhân đạo.
1.2.3.4 Quy định pháp luật về kỳ tính thuế
Kỳ tính thuế là thời gian xác định số tiền thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật Đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN), pháp luật quy định khác nhau về kỳ tính thuế giữa cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú.
Kỳ tính thuế thông thường được xác định theo năm, theo từng lần phát sinh thu nhập, hoặc theo từng lần chuyển nhượng.
1.2.3.5 Quy định pháp luật về phương pháp tính thuế
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được xác định thông qua hai phương pháp chính: lũy tiến từng phần và toàn phần Phương pháp lũy tiến từng phần thường được áp dụng cho thu nhập từ tiền lương và tiền công, trong khi phương pháp toàn phần được sử dụng cho các loại thu nhập khác.
1.3 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA MỘT
SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1.3.1 Quy định về pháp luật thuế thu nhập cá nhân của một số quốc gia trên thế giới
1.3.1.1 Quy định về đối tượng nộp thuế
Luật thuế TNCN của mỗi quốc gia trên thế giới lại có khái niệm khác nhau về cách xác định yếu tố “nơi cư trú”.
Nhật Bản phân loại cá nhân cư trú thành ba loại: cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân cư trú không thường xuyên và cá nhân không cư trú Cá nhân cư trú không thường xuyên là những người sống tại Nhật Bản liên tục trong 5 năm, trong khi cá nhân cư trú không thường xuyên có thời gian cư trú từ 1 đến 5 năm mà không có ý định định cư lâu dài Cá nhân không cư trú là những người sống tại Nhật Bản dưới 1 năm và không có nơi định cư tại đây Các cá nhân nước ngoài sẽ được xem là có nơi cư trú tại Nhật Bản trừ khi hợp đồng lao động hoặc giấy tờ khác ghi rõ thời gian lưu trú dưới 1 năm Về thuế, cá nhân cư trú thường xuyên phải chịu thuế trên toàn bộ thu nhập, cá nhân cư trú không thường xuyên chỉ chịu thuế trên thu nhập từ nước ngoài có nguồn gốc tại Nhật Bản, trong khi cá nhân không cư trú chỉ nộp thuế cho thu nhập có nguồn gốc từ Nhật Bản.
Tại Hàn Quốc, cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bao gồm cả người cư trú và không cư trú có thu nhập chịu thuế trong năm Người cư trú là người có nhà ở hoặc cư trú tại Hàn Quốc từ một năm trở lên, phải kê khai thu nhập toàn cầu và chịu thuế cho tất cả thu nhập phát sinh trong và ngoài Hàn Quốc Ngược lại, người không cư trú, không có nhà ở tại Hàn Quốc hoặc cư trú dưới một năm, chỉ phải nộp thuế cho thu nhập có nguồn gốc từ Hàn Quốc Tương tự, ở Pháp, một cá nhân được coi là cư trú nếu xem Pháp là nơi ở chính, có hoạt động nghề nghiệp tại đây, hoặc có mặt tại Pháp hơn 6 tháng trong năm, hoặc nơi đây mang lại phần lớn thu nhập của họ.
Luật thuế TNCN ở Mỹ lại quy định: cá nhân cư trú là công dân Mỹ và những người cư trú ở Mỹ tối thiểu 330 ngày đêm [26].
1.3.1.2 Quy định về khoản giảm trừ
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA VIỆT
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1.1 Quy định pháp luật về đối tượng nộp thuế
Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế TNCN tại Việt Nam, đối tượng nộp thuế bao gồm "cá nhân cư trú" và "cá nhân không cư trú", được quy định tại Điều 2 VBHN số 15/VBHN-VPQH/2014 Cụ thể, cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, trong khi cá nhân không cư trú chỉ có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam Quy định này thể hiện sự thiện chí của Nhà nước trong việc mở cửa thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời đơn giản hóa quy trình xác định thuế và hạn chế tình trạng đánh thuế trùng.
Cá nhân cư trú Điều 2 VBHN số 15/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014 về
Theo quy định của Luật thuế TNCN, cá nhân cư trú tại Việt Nam phải đáp ứng ít nhất một trong các điều kiện sau: có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục tính từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam.
Theo quy định tại văn bản hợp nhất số 68/VNHN-BTC ngày 19/12/2019, cá nhân có mặt tại Việt Nam phải có nơi ở thường xuyên, bao gồm nơi ở đăng ký thường trú hoặc nhà thuê có hợp đồng thời hạn Đối với công dân Việt Nam, nơi ở thường xuyên là nơi sinh sống ổn định, không có thời hạn và đã đăng ký thường trú Đối với người nước ngoài, nơi ở thường xuyên được xác định theo thông tin trên Thẻ thường trú hoặc nơi ở tạm trú khi đăng ký Thẻ tạm trú do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Cá nhân không cư trú Cũng theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 VBHN số
Theo Điều 15 VBHN-VPQH ngày 11/12/2014 về Luật thuế TNCN, cá nhân không cư trú được định nghĩa là người không đáp ứng các điều kiện quy định trong luật.
Khoản 2 Điều này” Như vậy, một chủ thể chỉ được coi là cá nhân không cư trú khi chủ thể đó không đáp ứng đồng thời cả hai điều kiện về thời gian có mặt cũng như có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam.
2.1.2 Quy định pháp luật về thu nhập chịu thuế Đối tượng chịu thuế TNCN chính là các khoản thu nhập chịu thuế của cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú Thực tế cho thấy các khoản thu nhập này rất đa dạng.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) tại Việt Nam hiện nay quy định rõ ràng về các khoản thu nhập chịu thuế, với 10 khoản được nêu tại Điều 3 của VBHN số 15/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014 về Luật thuế TNCN.
Thu nhập từ hoạt động sản xuất và kinh doanh bao gồm: thu nhập từ sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, cùng với thu nhập từ các hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định pháp luật Theo quy định, thu nhập từ kinh doanh được nêu tại điểm b khoản 1 Điều 3 Luật này không bao gồm thu nhập của cá nhân kinh doanh có doanh thu từ.
100 triệu đồng/năm trở xuống.
Thu nhập từ tiền lương và tiền công bao gồm các khoản lương, công và các khoản tương tự, cùng với các trợ cấp, phụ cấp mà cá nhân nhận được Tuy nhiên, một số khoản như phụ cấp theo quy định về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, cùng các trợ cấp khó khăn đột xuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, và các khoản trợ cấp khác theo quy định của pháp luật về BHXH không được tính là thu nhập từ tiền lương, tiền công Các khoản trợ cấp thôi việc, mất việc làm và bảo trợ xã hội cũng không được xem là tiền lương, tiền công theo quy định của Chính phủ.
Thu nhập từ đầu tư vốn bao gồm tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần và các hình thức đầu tư khác, ngoại trừ lãi trái phiếu Chính Phủ Đây là khoản thu nhập cá nhân nhận được từ các hình thức đầu tư, bao gồm cả việc góp vốn bằng hiện vật, danh tiếng, quyền sử dụng đất, hoặc sáng chế Ngoài ra, thu nhập từ cổ tức trả bằng cổ phiếu và lợi tức ghi tăng vốn cũng được tính Đối tượng tính thuế là thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí đầu tư ban đầu, vì cá nhân cần phải bỏ ra một khoản tiền nhất định để có được thu nhập này.
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm nhiều nguồn khác nhau, như thu nhập từ việc chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế, thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, và thu nhập từ các hình thức chuyển nhượng vốn khác.
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản bao gồm nhiều nguồn khác nhau, như thu nhập từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở, cũng như thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất và quyền thuê mặt nước Ngoài ra, còn có các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản dưới mọi hình thức.
So với Luật thuế TNCN 2007, Luật số 71/2014/QH13 đã điều chỉnh quy định về đối tượng chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm cả “các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản dưới mọi hình thức” Điều này giúp Nhà nước kiểm soát tốt nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng bỏ sót Theo quy định mới, trường hợp người có bất động sản ký hợp đồng ủy quyền cho người khác, mà người được ủy quyền có quyền cho, tặng, hoặc chuyển nhượng bất động sản và phát sinh thu nhập, thì cũng được coi là thu nhập chịu thuế.
Thu nhập từ trúng thưởng bao gồm nhiều hình thức khác nhau, như trúng thưởng xổ số, nhận giải thưởng từ các chương trình khuyến mại, thắng cược trong các hình thức cá cược, cũng như giành giải trong các trò chơi và cuộc thi có thưởng.
Thu nhập từ bản quyền bao gồm các nguồn thu như chuyển giao và chuyển quyền sử dụng các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ, cũng như thu nhập từ việc chuyển giao công nghệ.
THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.2.1 Thực tiễn thi hành quy định về miễn thuế
Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 VBHN số 15/VBHN-VPQH/2014 về Luật thuế thu nhập cá nhân, thu nhập từ việc nhận thừa kế hoặc quà tặng là bất động sản giữa các thành viên trong gia đình như vợ chồng, cha mẹ với con, cha mẹ nuôi với con nuôi, cũng như giữa các thế hệ như ông bà với cháu, hay anh chị em ruột sẽ không bị đánh thuế.
Quy định về thuế thừa kế hiện tại không phù hợp với thực tế ở Hà Nội và cả nước, khi mà các đối tượng thừa kế không phải nộp thuế cho Nhà nước Tại Hà Nội, hoạt động chuyển nhượng bất động sản rất phổ biến, và nếu luật pháp không được quy định chặt chẽ, sẽ dễ dẫn đến tình trạng trốn thuế Hơn nữa, quy định này tạo ra sự bất công giữa những người nộp thuế từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản và những người nhận quà tặng, thừa kế nhưng không thuộc vào các trường hợp miễn thuế.
Hai là, đối với khoản thu nhập được miễn thuế là kiều hối (Được quy định tại khoản 8 Điều 4 VBHN số 15/VBHN-VPQH/2014 về Luật thuế TNCN)
Kiều hối là khoản tiền cá nhận nhận được từ nước ngoài do thân nhân là người
Việt Nam có một lượng lớn người dân định cư ở nước ngoài, cùng với những người đi lao động, công tác và học tập tại nước ngoài, thường xuyên gửi tiền về cho gia đình và thân nhân ở trong nước Việc này không chỉ giúp cải thiện đời sống kinh tế cho người ở nhà mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
8 Điều 4 VBHN số 15/2014 về Luật thuế TNCN, thu nhập từ kiều hối thuộc thu
Trong những năm gần đây, kiều hối vào Việt Nam tăng 10% mỗi năm, đưa Việt
Nam nằm trong danh sách 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới.
Biểu đồ 2.1.Mười quốc gia có lượng kiều hối cao nhất thế giới
Năm 2020, Việt Nam nhận được 17,2 tỷ đô kiều hối, xếp thứ 9 trong số các quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới Trong giai đoạn 2018-2020, thu nhập từ kiều hối vào Việt Nam không ngừng tăng trưởng, cho thấy sự quan trọng của nguồn thu này đối với nền kinh tế quốc gia.
Biểu đồ 2.2.Lượng kiều hối của Việt Nam giai đoạn 2018-2020
So với năm 2018, lượng kiều hối Việt Nam nhận được trong năm 2020 đã tăng 1,27%, cho thấy thu nhập của người lao động và du học sinh đang gia tăng đáng kể Sự tăng trưởng này là tín hiệu tích cực, nhưng cũng chỉ ra rằng Nhà nước có thể đã bỏ lỡ một nguồn thu lớn từ loại thu nhập này.
Tại Hà Nội, số lượng Việt kiều, lao động nước ngoài và du học sinh làm việc chiếm tỷ lệ lớn, với kiều hối chủ yếu từ Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc và Nhật Bản Theo Luật thuế TNCN, kiều hối được miễn thuế, tuy nhiên, thực tế cho thấy lượng kiều hối hàng năm rất lớn, điều này có thể dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà nước và tạo ra sự không công bằng so với các loại thu nhập khác phải chịu thuế.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 VBHN số 15/VBHN-VPQH, thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân chỉ áp dụng khi cá nhân đó sở hữu một nhà ở và đất ở duy nhất.
Quy định này tương tự như quy định về thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản theo khoản 5 Điều 3 Luật, nhưng khác biệt ở chỗ chỉ áp dụng cho trường hợp cá nhân có một nhà ở, đất ở duy nhất Việc xác định bất động sản duy nhất của một cá nhân là rất khó khăn, đặc biệt tại Hà Nội với thị trường bất động sản phức tạp Giá trị chuyển nhượng bất động sản thường rất lớn, đặc biệt là ở những khu vực đông dân cư, và với mức thuế suất 2%, việc cá nhân tìm cách "trốn thuế" ngày càng phổ biến, dẫn đến thất thoát lớn cho nguồn thu thuế TNCN tại Hà Nội, ảnh hưởng đến nguồn thu cả nước và gây mất công bằng cho các cá nhân sở hữu nhiều bất động sản.
Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 VBHN số 15/VBHN-VPQH ngày 11 tháng 12 năm 2014 về Luật thuế thu nhập cá nhân, thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng được xác định và quản lý.
Các khoản tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng thực chất có giá trị tương tự như một khoản đầu tư, với lãi suất thu được giống như lợi nhuận mà các nhà đầu tư nhận được.
Trong quý I năm 2021, Chi nhánh Ngân hàng Quân đội (MB) 21 Cát Linh tại Hà Nội đã mở hơn 2.000 sổ tiết kiệm giấy và 5.000 sổ tiết kiệm online, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động gửi tiền tại các ngân hàng thương mại Hình thức gửi tiền này ngày càng phổ biến nhờ tính an toàn cao và lãi suất hấp dẫn từ 5% đến 7% mỗi năm, thu hút sự quan tâm của người dân Tuy nhiên, việc miễn thuế cho những khoản lãi từ gửi tiền ngân hàng trong khi các nhà đầu tư chứng khoán phải chịu thuế đang tạo ra sự bất công trong hệ thống tài chính.
Trong bối cảnh Hà Nội cần ngân sách để thực hiện các chính sách y tế nhằm kiểm soát dịch bệnh và phục hồi kinh tế, việc bỏ sót nguồn thu từ lãi tiền gửi sẽ gây ra thất thu lớn.
2.2.2 Thực tiễn thi hành quy định về giảm trừ gia cảnh
Người phụ thuộc theo Luật thuế TNCN được chia thành các nhóm cơ bản như con, vợ/chồng, cha/mẹ và những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế (NNT) phải nuôi dưỡng Đặc biệt, con đang học đại học hoặc trung học chuyên nghiệp, không giới hạn độ tuổi, cũng được coi là người phụ thuộc, ngay cả khi đã lập gia đình và sống cùng hoặc không cùng bố mẹ Ngoài ra, cháu nội/cháu ngoại của NNT cũng được tính là người phụ thuộc và được giảm trừ khi xác định thu nhập tính thuế Nhóm "cá nhân khác không nơi nương tựa" bao gồm ông bà, cô dì, chú bác, anh chị em ruột và các cá nhân khác, tạo thành một quy định khá rộng rãi về người phụ thuộc.
2.2.3 Thực tiễn thi hành quy định về mức thuế suất áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công
Theo quy định hiện hành, Việt Nam áp dụng 7 bậc thuế suất thu nhập cá nhân, với mức thấp nhất là 5% và cao nhất là 35% Để đánh giá khách quan về mức thuế suất này, cần so sánh với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới Như đã đề cập trong mục 1.4.1.3 của đề tài, thuế suất thuế TNCN áp dụng cho các cá nhân độc thân cũng là một yếu tố quan trọng trong phân tích này.
Mức thuế thu nhập cá nhân (TNCN) tại Mỹ dao động từ 10% đến 39.6%, trong khi Hàn Quốc áp dụng phương pháp lũy tiến với bốn bậc, mức thuế thấp nhất là 6% và cao nhất là 40% Ngược lại, Singapore có mức thuế TNCN thấp hơn so với nhiều quốc gia khác, với hệ thống lũy tiến chia thành 10 bậc, từ 2% đến 22%.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.3.1 Đánh giá kết quả đạt được trong quá trình thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn Thành phố Hà Nội
2.3.1.1 Thu ngân sách Nhà nước
Hà Nội, trung tâm kinh tế-chính trị lớn của cả nước, đang tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa với nhiều thành tựu tích cực Để đánh giá tổng quan nền kinh tế Hà Nội, chỉ số GRDP (Tổng sản phẩm nội địa khu vực) là một công cụ hữu ích, phản ánh quy mô và giá trị gia tăng của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được tạo ra tại thành phố.
Năm 2019, Hà Nội đứng thứ 2 tại Việt Nam về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) với 971.700 tỉ đồng (41.85 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 120.6 triệu đồng (5200 USD) và tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7.62% Đến năm 2020, quy mô GRDP theo giá hiện hành đạt 1.016 nghìn tỷ đồng, giữ vị trí thứ hai cả nước, trong khi GRDP bình quân đầu người đạt 122.7 triệu đồng (5.285 USD), xếp thứ 7 toàn quốc.
Biểu đồ 2.3.GDP bình quân đầu người/năm tại Hà Nội so với cả nước
Nguồn: Tổng cục thống kê [15]
Biểu đồ cho thấy thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội vượt trội so với mức bình quân cả nước, cụ thể năm 2018 cao gấp 1,58 lần, năm 2019 gấp 1,86 lần và năm 2020 gấp 1,61 lần Sự chênh lệch này được giải thích bởi Hà Nội là khu vực thu hút đầu tư lớn, sở hữu nhiều tiềm năng về nhân lực và vật lực Thêm vào đó, Nhà nước đã áp dụng các chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Thủ đô, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Sự phát triển kinh tế của Thành phố Hà Nội không chỉ mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, mà còn nổi bật với thuế thu nhập cá nhân (TNCN) Với GDP bình quân đầu người cao và phương pháp tính thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công, điều này tạo ra nền tảng vững chắc giúp người dân thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Xuất phát từ tình hình kinh tế nêu trên, trong giai đoạn 2018 - 2020, tình hình thu NSNN tại Thành phố Hà nội đã đạt được những kết quả tích cực.
Theo thống kê, trong giai đoạn 2018-2020, tình hình thu ngân sách Nhà nước của Cục thuế Hà Nội được thể hiện qua biểu đồ sau:
■ thu ngân sách từ thuế tại thành phố Hà Nội ■ tổng thu từ thuế vào NSNN trên cả nước
Biểu đồ 2.4.Tổng thu ngân sách của Cục thuế Hà Nội so với cả nước
Nguồn: Cục thuế Hà Nội [10] [11] [12]
Trong ba năm qua, Cục thuế thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả ấn tượng trong việc thu thuế TNCN, góp phần quan trọng vào ngân sách nhà nước và sự phát triển chung của thành phố cũng như cả nước.
Năm 2018, Cục Thuế đã đạt được kết quả ấn tượng khi tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) thực hiện lên tới 226.795 tỷ đồng, vượt 3.9% so với dự toán và tăng 16.5% so với năm 2017.
Cục Thuế Thành phố Hà Nội hoàn thành vượt mức dự toán thu NSNN năm
2019 với tổng số thu ngân sách thực hiện là 252.179 tỷ, đạt 102,6% dự toán, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2018 [10, tr 1].
Năm 2020, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) tại thành phố do Ngành thuế quản lý đạt 267.585 tỷ đồng, vượt 102,8% so với dự toán được giao và tăng 6,6% so với năm 2019.
Trong ba năm qua, Thành phố Hà Nội đã đóng góp khoảng 20% tổng số thuế thu được trên toàn quốc, một tỷ lệ đáng kể Con số này không chỉ thể hiện vai trò quan trọng của Hà Nội trong việc huy động nguồn lực mà còn giúp đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các chức năng và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Luật thuế TNCN, Cục thuế Thành phố Hà Nội đã ghi nhận kết quả thu được từ thuế TNCN trong ba năm qua.
Biểu đồ 2.5.Tổng thuế TNCNcủa thành phố Hà Nội huy động nguồn lực cho ngân sách Nhà nước giai đoạn 2018-2020 Nguồn: Cục thuế Hà Nội [10] [11] [12]
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đóng góp khoảng 8,1% vào tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN), tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của loại thuế này khá ấn tượng Cụ thể, năm 2019, số thu từ thuế TNCN tăng 12% so với năm 2018, và năm 2020 tiếp tục tăng 7% so với năm 2019.
Biểu đồ 2.6.Biểu đồ thuế TNCN thu được tại thành phố Hà Nội so với cả nước năm 2020 Nguồn: Cục thuế Hà Nội [12]
Năm 2020, Cục Thuế Thành phố Hà Nội đã đối mặt với thách thức thu ngân sách nhà nước trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gây ra nhiều biến động lớn, dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành, lĩnh vực kinh tế Mặc dù nhiều hoạt động kinh tế - xã hội bị ngưng trệ, nhưng nhờ sự chỉ đạo sát sao của các đồng chí Lãnh đạo, Cục Thuế đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành phố cùng với lãnh đạo Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, đảm bảo sự phát triển bền vững cho thành phố.
Tổng cục Thuế, các sở ngành và các quận, huyện, thị xã trong công tác thu ngân sách;
Cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư đã nỗ lực vượt qua khó khăn để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh Sự đoàn kết và tinh thần trách nhiệm cao của cán bộ công chức ngành thuế Thủ đô đã đảm bảo công tác thuế thu nhập cá nhân (TNCN) diễn ra hiệu quả Đặc biệt, trong năm 2020, công tác thuế TNCN vẫn được duy trì ổn định.
Cục thuế thành phố Hà Nội không chỉ đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn thực hiện nguyên tắc công bằng cho người nộp thuế theo quy định của Nhà nước Dựa trên chỉ số GDP và tổng dân cư trong khu vực, đường cong Lorenz được xác lập để phản ánh sự phân phối thu nhập.
Biểu đồ 2.7.Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập
Đường cong Lorenz, phát triển bởi Max O Lorenz vào năm 1905, là một công cụ hữu ích để biểu diễn mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập Nó cho thấy tỷ lệ phần trăm hộ gia đình hoặc dân số so với tỷ lệ phần trăm thu nhập trong tổng thu nhập, với sự gần gũi giữa đường Lorenz và đường phân giác phản ánh sự công bằng trong phân phối Tại Hà Nội, biểu đồ cho thấy sự chênh lệch lớn về thu nhập trước thuế, khi khoảng cách giữa đường thu nhập trước thuế và đường thu nhập phân phối công bằng khá xa Tuy nhiên, sau khi áp dụng thuế thu nhập cá nhân theo quy định pháp luật và phương pháp thuế lũy tiến, khoảng cách giàu nghèo đã được rút ngắn, với đường thu nhập trước thuế tiến gần hơn đến đường thu nhập phân phối công bằng.
2.3.1.2 Tích cực thực hiện công tác tuyên truyền của Cục thuế Thành phố Hà Nội