Tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng có rất ít công trình và bài viết nghiên cứu về thơ Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật của Người.
Chúng tôi tập trung khảo cứu và giới thiệu các nguồn tư liệu liên quan đến thơ Hồ Chí Minh, nhằm làm nổi bật những nội dung quan trọng và ý nghĩa trong tác phẩm của Người.
2.1 Các công trình, bài viết về thơ đường luật Hồ Chí Minh
Trong công trình nghiên cứu Đường thi từ góc nhìn vòng đời tác phẩm:
Nhà giáo Lê Đình Sơn trong lý luận phê bình văn học đã dành một chương để phân tích thi phẩm Đường luật Hồ Chí Minh, kết nối giữa quá khứ và hiện tại Tác giả nghiên cứu bối cảnh lịch sử, cấu trúc và ngôn ngữ của thơ Đường luật Hồ Chí Minh, đồng thời làm nổi bật sự đổi mới trong sáng tác của tác giả Bên cạnh đó, ông cũng chỉ ra hiệu ứng giáo dục từ một số vần thơ của Bác Hồ và thơ Đường luật Hồ Chí Minh về người lính vệ quốc.
Cuốn "Thơ Đường luật Việt Nam - Hành trình đất nước" do Hương Thu chủ biên tổng hợp quá trình hình thành và phát triển của thể thơ Đường luật Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay, đồng thời giới thiệu một số bài thơ Đường luật tiêu biểu của Hồ Chí Minh.
Tại Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đường Luật Việt Nam” diễn ra ngày 23/10/2015 tại Hà Nội, Lê Đình Sơn, giảng viên khoa Ngữ văn Đại học Vinh, đã nhấn mạnh rằng Bác Hồ đã thể hiện sự sáng tạo độc đáo trong thơ tứ tuyệt qua nhiều hình thức khác nhau Ông chỉ ra rằng Bác đã phá luật thơ với những tác phẩm như Văn cảnh và Báo tiệp, đồng thời gây bất ngờ cho người đọc với những đổi mới trong thể loại này, như bài Vô đề và các tác phẩm trong tập Nhật ký trong tù Điều này cho thấy Bác đã tiếp thu và làm phong phú thêm di sản thơ Đường của Trung Quốc.
Trong bài viết "Hồ Chí Minh với thơ Đường luật," ThS Võ Quang Huy nhận xét rằng tập thơ "Nhật ký trong tù" gồm 133 bài thơ tứ tuyệt và thất ngôn bát cú, thể hiện sự am hiểu sâu sắc của Bác về Hán tự và thể thơ Đường luật Đọc "Nhật ký trong tù," ta thấy rõ ảnh hưởng mạnh mẽ của chất Đường thi và bút pháp cổ điển trong phong cách thơ của Người Bác đã khéo léo sử dụng nghệ thuật đối, ẩn dụ và điệp từ trong tác phẩm của mình.
Trong bài viết "Chủ tịch Hồ Chí Minh với thơ Đường luật", nhà thơ Huỳnh Đức Trung nhấn mạnh rằng việc sáng tác thơ Đường đã khó, nhưng làm thơ Đường luật bằng chữ Hán còn khó khăn hơn Thời xưa ở Việt Nam, chỉ những nhà Nho uyên thâm và thầy đồ giỏi chữ Hán mới có thể sáng tác, như các vị vua Thánh Tông, Tự Đức và những nhà nho nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, và Bà Huyện Thanh Quan Hồ Chí Minh là người cuối cùng sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Hán ở Việt Nam, với nhiều bài thơ thành công trong lối chơi tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích và sâu sắc, không thua kém gì thơ Đường Trung Quốc.
Bài viết của GS Nguyễn Khắc Phi về mối quan hệ giữa Bác Hồ và thơ Đường luật nhấn mạnh rằng, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tinh thần dân tộc và tính hiện đại trong thơ của Bác, vẫn cần tiếp tục thảo luận về mối quan hệ này Tác giả trình bày chi tiết các tiêu chí xác định thơ Đường luật trong tác phẩm của Bác, cũng như cách Người vận dụng thể thơ này Bài thơ "Khán Thiên gia thi hữu cảm" được phân tích sâu sắc, và kết luận rằng việc nắm bắt thể thơ tuyệt cú là cách hiệu quả để hiểu được tinh túy của thơ Đường Thơ tuyệt cú của Bác Hồ là kết quả của một quá trình tiếp biến độc đáo, diễn ra trong bối cảnh tư tưởng và lịch sử mới.
TS Phạm Thị Xuân Châu - Chi hội Thơ Đường luật tỉnh Điện Biên, trong bài Bút pháp của Bác Hồ trong sáng tác thơ Đường Luật, đã nhận xét:
Thơ Bác, dù được cải biên hay giữ nguyên luật lệ của thơ Đường, luôn thể hiện con người độc lập, sáng tạo và linh hoạt của ông Phong cách thơ Đường luật của Bác mang tính cổ điển nhưng vẫn hiện đại, kết hợp giữa truyền thống và cách mạng, góp phần làm phong phú di sản thơ Đường luật của dân tộc.
Trong bài viết "Thơ Đường luật chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh", TS Nguyễn Minh San, Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nam, đã khám phá sâu sắc di sản thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh Tác giả nhận xét rằng thơ Đường luật của Bác không chỉ thể hiện tài năng văn chương mà còn phản ánh tâm tư, tình cảm và tư tưởng của Người.
Những bài thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là trong tập Nhật ký trong tù, là những viên ngọc văn hóa quý giá trong di sản văn hóa dân tộc Di sản thơ này khẳng định vị thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lãnh tụ thiên tài, một con người có Đại nhân, Đại trí, Đại dũng, và là Danh nhân Văn hóa Thế giới, được nhân dân ta vô cùng kính trọng.
Các công trình và bài viết hiện tại chủ yếu tập trung vào thơ Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chưa khai thác sâu về thơ Đường luật trào phúng của Người Tuy nhiên, những hướng nghiên cứu này cung cấp những gợi ý quý báu cho tác giả luận văn trong việc thực hiện nhiệm vụ đã đề ra.
2.2 Các công trình, bài viết về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Chí Minh
Nghệ thuật trào phúng trong các tác phẩm văn chương và báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhiều nghiên cứu đề cập, nhưng các công trình phân tích về nghệ thuật trào phúng trong thơ của Người vẫn còn khá hiếm hoi.
Cuốn sách Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Thanh Tú là công trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống hóa và phân tích toàn diện nghệ thuật trào phúng của Hồ Chí Minh, bao gồm các tác phẩm văn xuôi, thơ và báo chí Trong hơn 400 trang sách, PGS.TS Nguyễn Thanh Tú đã khám phá nhiều khía cạnh của tiếng cười trào phúng qua các luận điểm như hình thức tương phản, nghệ thuật kéo độc giả vào truyện, nguyên tắc suồng sã, kịch hoá trần thuật, mâu thuẫn trào phúng, nguyên tắc “lột mặt nạ”, ngụ ngôn trào phúng, phương thức nhại và ẩn dụ trào phúng.
So sánh trào phúng, Chơi chữ trào phúng, Tập cổ, lẩy Kiều
Trong quá trình phân tích, tác giả sử dụng những ví dụ điển hình để làm rõ luận điểm, như hình tượng người tù trong Nhật ký tương phản với hình tượng người tiên, người tự do, thể hiện sự đối lập giữa tư cách tù nhân và thi nhân: “Ngâm thơ ta vốn không ham, / Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây.” Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra mâu thuẫn giữa lời nói và bản chất hành động của chủ nghĩa thực dân về nhân quyền, khi nhấn mạnh rằng hàng triệu người đã bị giết hại vì cái quyền con người mà họ đã hy sinh, cùng với những xác chết thảm thương của họ bị lãng quên.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật của Hồ Chí Minh giúp xác định những đóng góp quan trọng của thể loại này đối với nền văn học hiện đại Việt Nam Thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh tinh thần sáng tạo mà còn thể hiện sâu sắc bức tranh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX Những tác phẩm này đã góp phần làm phong phú thêm dòng thơ Đường luật trào phúng, khẳng định vị trí của nó trong văn học dân tộc.
Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp chính:
- Phương pháp thống kê, mô tả: chúng tôi tiến hành thống kê, tổng hợp dẫn chứng, số liệu trong những tác phẩm thơ Đường luật trào phúng trong tập
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh và những tài liệu liên quan đến đề tài
Phương pháp so sánh và đối chiếu giữa thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chủ Tịch với các nhà thơ khác giúp chúng ta nhận diện những đóng góp mới mẻ và độc đáo trong sáng tác của Người Qua việc phân tích các yếu tố nghệ thuật và nội dung, bài viết sẽ làm nổi bật sự khác biệt cũng như giá trị nghệ thuật của thơ trào phúng Hồ Chủ Tịch trong bối cảnh văn học.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1 Những vấn đề chung
Chương 2 Nét mới trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh Chương 3 Đặc điểm bút pháp và ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh được khảo sát, phân tích một cách hệ thống
Kết luận của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng dạy thơ Đường luật trào phúng trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh tại các trường phổ thông và chuyên nghiệp.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 12 1.1 Khái niệm “Thơ trào phúng” và “Thơ Đường luật trào phúng”
Khái niệm “Thơ trào phúng”
Để hiểu khái niệm “Thơ trào phúng”, trước hết, chúng tôi xin cắt nghĩa hai khái niệm con: thơ và trào phúng
Trên thế giới, từ xưa đến nay, có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về khái niệm thơ
Percy Bysshe Shelley, nhà thơ và triết gia nổi bật của thế kỷ XIX, đã khẳng định rằng thơ ca là một hiện tượng thiêng liêng, vừa là trung tâm vừa là chu vi của tri thức Thơ không chỉ bao gồm các lĩnh vực khoa học mà còn phản ánh nguồn gốc và thành quả của các hệ thống tư tưởng Nó được ví như sự hồi sinh của mùa xuân, mang lại sức sống mới cho tâm hồn con người.
Theo Robert Frost, một nhà thơ Mỹ từng bốn lần đoạt giải Pulitzer:
Thơ ca xuất hiện khi cảm xúc tìm thấy suy nghĩ của mình, và suy nghĩ đã tìm ra ngôn từ để diễn đạt Nó chính là những gì đã bị lạc mất trong quá trình chuyển đổi.
Nhà thơ Italia Salvatore Quasimodo nổi bật với những bài thơ trữ tình, sử dụng ngôn ngữ tinh tế và đẹp đẽ Ông từng chia sẻ rằng: “Thơ là sự mặc khải mà người làm thơ tin rằng cảm xúc của họ chính là tiếng lòng của độc giả.”
Edgar Allan Poe, được biết đến với danh xưng “nhà thơ điên”, là một tài năng xuất sắc trong thể loại văn chương trinh thám và hình sự Ông để lại dấu ấn sâu đậm với những câu nói nổi tiếng, trong đó có câu: “Nỗi buồn là giọng điệu phù hợp nhất của thơ ca”.
Thơ ca được định nghĩa là nhịp điệu thẩm mỹ, với khẩu vị là trọng tài duy nhất Trí khôn và nhận thức chỉ làm cho thơ trở thành một tài sản Ngoài yếu tố tình cờ, thơ không quan tâm đến bất cứ điều gì, kể cả nghĩa vụ hay chân lý.
T.S Eliot, chủ nhân giải Nobel 1948 cũng là nhà thơ vĩ đại của nước Anh thế kỷ XX Sinh thời, ông từng nói: “Thơ không phải là một vòng quay chậm rãi của cảm xúc mà là một lối thoát của cảm xúc, không phải là sự biểu hiện của tính cách, nhưng một lối thoát cho cá tính Nhưng, tất nhiên là chỉ những người có cá tính và cảm xúc biết ý nghĩa của việc muốn thoát khỏi những điều này” Ở Việt Nam, “thi ngôn chí” là quan niệm chính thống về thơ trong Nho giáo đã chi phối thơ suốt chiều dài nền Văn học trung đại Cho đến những năm gần đây, khái niệm về thơ vẫn được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa như Hà Minh Đức, Phan Ngọc…
Trong cuốn “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”, GS Hà Minh Đức đã nghiên cứu hàng trăm định nghĩa về thơ để xác định quan niệm chính xác về thể loại này Ông cho rằng thơ là sự kết tinh của cái đẹp từ tâm hồn và tạo vật, và một bài thơ hay chính là sự kết tinh của những kết tinh đó Khi phê bình thơ, GS Hà Minh Đức luôn chú trọng đến những yếu tố cốt lõi tạo nên phong cách riêng của từng nhà thơ Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của tư liệu cuộc sống trong thơ, đồng thời tìm ra mối liên hệ giữa tác giả, tác phẩm và đời sống: “Thiếu đi chất liệu thực tế phong phú thì cho dù một cách nhìn đúng vẫn chưa đủ tạo nên thơ hay”.
Phan Ngọc nhận định rằng thơ là một hình thức tổ chức ngôn ngữ độc đáo, buộc người tiếp nhận phải ghi nhớ, cảm nhận và suy nghĩ Ông giải thích rằng cách tổ chức ngôn ngữ trong thơ rất khác biệt so với giao tiếp hàng ngày, nơi mà không ai sử dụng âm tiết, vần, nhịp, khổ hay luật như trong thơ.
Thơ là một hình thức nghệ thuật sử dụng từ ngữ, với việc chọn lọc và tổ hợp từ được sắp xếp theo một logic nhất định, tạo ra hình ảnh và âm thanh có tính thẩm mỹ Từ "thơ" thường đi kèm với "câu" để chỉ một câu thơ, hoặc "bài" để chỉ một bài thơ Một câu thơ là một cấu trúc ngữ pháp hoàn chỉnh, truyền đạt hình ảnh và ý nghĩa, có thể đứng độc lập Trong khi đó, một bài thơ là sự kết hợp của nhiều câu thơ Tính cô đọng, hình tượng và âm hưởng nhạc trong thơ khiến nó trở thành một loại hình nghệ thuật độc đáo, khác biệt so với các hình thức nghệ thuật khác.
Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống và thể hiện tâm trạng, cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và có nhịp điệu Định nghĩa này không chỉ nêu rõ nội dung mà còn nhấn mạnh hình thức nghệ thuật của thơ, đồng thời phân biệt đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ so với các thể loại văn học khác.
Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa về thơ, song chữ thơ vẫn là một câu hỏi mở chưa có đáp án thống nhất
Trào phúng là một thuật ngữ gốc Hán, bao gồm hai thành phần: "trào" có nghĩa là cười nhạo, giễu cợt, và "phúng" chỉ những lời bóng gió nhằm khen chê, khuyên răn hoặc ám chỉ điều gì đó Trong ngôn ngữ, trào phúng không chỉ mang lại tiếng cười mà còn chứa đựng thông điệp răn dạy, thể hiện sự đấu tranh chống lại cái xấu.
Trào phúng, theo "Từ điển tiếng Việt", được định nghĩa là "có tính chất gây cười để châm biếm, phê phán" Trong khi đó, "Từ điển thuật ngữ Văn học" mô tả trào phúng như một dạng đặc biệt của sáng tác văn học và nguyên tắc nghệ thuật, sử dụng các yếu tố như tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương và hài hước để chế nhạo, chỉ trích và phản kháng những tiêu cực, xấu xa và lỗi thời trong xã hội.
Trào phúng là nghệ thuật tạo ra tiếng cười nhằm châm biếm và phê phán xã hội, với việc xây dựng tình huống mâu thuẫn là yếu tố quan trọng Theo các nhà mĩ học, cái hài là một phạm trù mĩ học xuất hiện khi con người nhận ra những mâu thuẫn trái tự nhiên, bao gồm cảm xúc, sự sáng tạo, phê phán và giáo huấn, tất cả đều dẫn đến tiếng cười.
Thơ trào phúng, hay còn gọi là thơ châm biếm, mang những đặc điểm của thơ trữ tình như hình tượng cảm xúc, giọng điệu, vần và nhạc điệu Tuy nhiên, với mục đích phúng thích xã hội, thể loại này nhằm tạo ra tiếng cười châm biếm và đả kích những điều xấu, vô dụng trong con người và văn học Do đó, thơ trào phúng trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù.
Thơ trào phúng là thể loại thơ sử dụng ngôn từ ví von và bóng gió để châm biếm, đả kích những mâu thuẫn, thói hư tật xấu trái với đạo đức và lương tri Nó không chỉ lên án những bất công, xấu xa trong xã hội mà còn thể hiện sự tự cười và tự chê trách của các nhà thơ Tiếng cười trào phúng trong thơ mang nhiều sắc thái và cung bậc khác nhau, bao gồm hài hước, châm biếm và đả kích.
Khái niệm “Thơ Đường luật trào phúng”
Thơ Đường luật, hay còn gọi là Thơ luật Đường, là một thể thơ có nguồn gốc từ thời nhà Đường ở Trung Quốc Thể thơ này không chỉ phát triển mạnh mẽ tại quê hương mà còn lan tỏa sang nhiều quốc gia lân cận, bao gồm Việt Nam Là một trong những thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường và là tinh hoa của thi ca Trung Hoa, thơ Đường luật còn được gọi là thơ cận thể để phân biệt với thơ cổ thể không tuân theo quy cách luật.
Về khái niệm thơ Đường luật, “Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa:
Thơ Đường luật, hay còn gọi là thơ cận thể, là thể thơ có nguồn gốc từ thời Đường ở Trung Quốc, bao gồm các thể loại ngũ ngôn và thất ngôn Thơ Đường luật chủ yếu có ba dạng: bát cú (tám câu), tứ tuyệt (bốn câu) và bài luật (dạng kéo dài) Trong đó, thơ thất ngôn bát cú, với cấu trúc tám câu và mỗi câu bảy chữ, được coi là dạng cơ bản nhất, từ đó có thể phát triển ra các thể loại khác của thơ Đường luật.
Luận văn này nhấn mạnh những đặc điểm nổi bật của thơ Đường luật, vốn nổi bật với khả năng diễn đạt những khoảnh khắc tâm trạng và hiện thực sâu sắc trong một dung lượng hạn chế Thơ Đường luật không chỉ mang ý nghĩa lớn lao đối với con người mà còn sở hữu cấu trúc âm thanh độc đáo, nhờ vào sự phối hợp hài hòa giữa âm thanh trầm bổng Điều này tạo ra một chất nhạc du dương, giúp thơ dễ thuộc, dễ nhớ và thu hút người đọc.
Thơ Đường luật trào phúng là một thể loại văn học đặc sắc, tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc về niêm, luật và đối trong thơ Đường luật Thể loại này không chỉ phản ánh bản chất xấu xa và giả tạo ẩn sau vẻ bề ngoài hào nhoáng mà còn sử dụng tiếng cười để phê phán xã hội Các cung bậc của tiếng cười trong thơ trào phúng bao gồm châm biếm, đả kích, mỉa mai, bông đùa và hài hước, tạo nên một bức tranh sinh động về những vấn đề xã hội.
Khi nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng, cần phân biệt giữa yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng Tác phẩm trào phúng có mục đích chính là tạo ra hình tượng trào phúng hoàn chỉnh, thể hiện qua thái độ và tâm trạng của nhân vật Khi chủ thể trữ tình hòa nhập với hình tượng nghệ thuật, sẽ xuất hiện thơ tự trào, trong khi thơ trào phúng khách thể khi hình tượng nghệ thuật trở thành đối tượng khách thể Ngược lại, yếu tố trào phúng là những đoạn, câu trong tác phẩm gây ra tiếng cười nhưng không phải là mục đích chính, mà chỉ mang ý nghĩa trào phúng.
Sự vận động và phát triển của thơ Đường luật trào phúng Việt Nam
1.2.1.1 Quá trình hình thành và thể nghiệm của Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam (từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII)
Cho đến nay, vẫn chưa có câu trả lời chính xác về năm TĐL (thơ Đường luật) du nhập vào Việt Nam và tác giả của nó Tuy nhiên, dựa trên các văn bản cổ còn lại, có thể nhận định rằng các thiền sư thời Lý là những người đầu tiên sáng tác thể TĐL Những tác phẩm tiêu biểu như "Vãn Quảng trí thiền sư" của Đoàn Văn Khâm và "Ngư nhàn" minh chứng cho sự phát triển của thể thơ này trong văn học Việt Nam.
(Dương Không Lộ), Cảm hoài (Vương Hải Thiềm)… đều là những bài Đường luật đáp ứng đủ cả niêm, luật, vần, đối đến bố cục tình ý
Nghệ thuật thơ Đường Lý, dù mới manh nha, nhưng đã thể hiện trình độ cao cả về thể cách lẫn nội dung, không thua kém các tác phẩm sau này Bài thơ "Ngư nhàn" của Dương Không Lộ, nếu không có bối cảnh sáng tác, khó có thể tưởng tượng được sự tinh tế của nó trong giai đoạn sơ khai Hình ảnh “Ngư ông thụy trước” và “tuyết mãn thuyền” vừa lãng mạn vừa cô đọng, chứa đựng nhiều ý tưởng sâu sắc Nó không chỉ gợi lên cảm giác phiêu diêu của một thiền sư muốn thoát tục, mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống Hành động vô tình nhưng đầy tình ý khiến bài thơ trở nên đẹp và sâu lắng hơn bao giờ hết.
Giai đoạn này chưa có sự kết hợp giữa thể thơ Đường luật (TĐL) và trào phúng, chủ yếu vì các nhà thơ đều là thiền sư, sáng tác thơ để thể hiện triết lý Phật giáo thay vì phản ánh đời sống cá nhân Họ chọn TĐL vì tính tiết kiệm ngôn từ và các quy định nghiêm ngặt về niêm luật, rất phù hợp với yêu cầu ngắn gọn của đạo Phật Do đó, yếu tố trào phúng chưa xuất hiện trong TĐL ở thời kỳ này.
Thời Trần đánh dấu sự chuyển mình trong sáng tác thơ ca, khi không còn gắn liền với nhu cầu “truyền đạo” như trước Các nhà thơ bắt đầu khai thác nhiều yếu tố mới trong thể thơ TĐL, chú trọng đến tính cân đối, hài hòa và ổn định về thanh điệu, bên cạnh tính tương phản Nội dung thơ chủ yếu xoay quanh cuộc sống cung đình, phẩm chất quân tử, thành công của kẻ chí và cuộc sống thanh bình nơi thôn dã, mà chưa phản ánh sự trào lộng hay phê phán xã hội Mặc dù có ý kiến cho rằng Nguyễn Sĩ Cố đã sáng tác thơ hài hước trong thời kỳ này, nhưng tác phẩm của ông hiện không còn, khiến việc đánh giá trở nên khó khăn.
Bước sang thế kỷ XV, văn học Nôm phát triển mạnh mẽ, với thơ Đường luật Nôm từ các tác phẩm như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông, đã trở thành phần quan trọng trong diện mạo văn học Việt Nam Sự xuất hiện của văn học Nôm không chỉ làm phong phú thêm cho thơ ca mà còn tạo điều kiện cho thể loại trào phúng phát triển, mang lại sức hấp dẫn đặc biệt Ngôn ngữ Hán, với sự trang trọng và tinh tế, chưa được khai thác để châm biếm những tiêu cực trong xã hội, trong khi ngôn ngữ Nôm lại cho phép sự tự do trong biểu đạt, tạo ra những tác phẩm vừa hài hước vừa sâu sắc Sự kết hợp giữa trào phúng và Đường luật Nôm đã biến thể loại thơ này thành một hình thức gần gũi, tự nhiên, phản ánh lối sống và tư duy của nhân dân.
Trong tiến trình lịch sử văn học viết Việt Nam, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi không chỉ là tác phẩm Nôm quy mô đầu tiên, mà còn là tập thơ Việt Nam đầu tiên chứa đựng các tác phẩm thơ Đường luật truyền thống Mặc dù Nguyễn Trãi chỉ mới thể hiện một vài nét trào phúng trong tác phẩm, nhưng sự kết hợp giữa các câu thơ 6 chữ và 7 chữ đã tạo nên một phong cách độc đáo, góp phần làm phong phú thêm cho thể loại thơ Quốc âm.
Nguyễn Trãi đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải phóng thể cách luật, tạo dựng một lối thơ Đường luật Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc Mặc dù chưa chính thức ghi nhận dòng Đường luật trào phúng, nhưng việc kết hợp với chữ Nôm và lối phá cách đã biến TĐL từ thể loại trang trọng thành một thể loại linh hoạt, giàu cảm xúc Nguyễn Trãi khởi xướng một hướng đi mới cho TĐL Việt Nam, đặc biệt là thơ Nôm Đường luật, đánh dấu sự phát triển độc đáo và khác biệt so với Đường luật Hán Trong tổng số 254 bài thơ Đường luật trong Quốc âm thi tập, có 30 bài mang yếu tố trào phúng, thể hiện sự đa dạng và sáng tạo trong nghệ thuật thơ ca Việt Nam.
TĐLTP Nguyễn Trãi chưa đạt tỷ lệ ưu trội, nhưng đối với một người nghiêm túc như Nguyễn Trãi, con số này thực sự là một bước đột phá trong giai đoạn đầu tiên.
TĐLTP Nguyễn Trãi chủ yếu mang tính tự trào và hài hước, mặc dù những tác phẩm hài hước và đả kích của ông chưa phong phú và độc đáo như Hồ Xuân Hương sau này Tuy nhiên, chất hài hước nhẹ nhàng trong thơ của ông đã tạo ra một lối viết mới, mang đến nhiều tình huống bất ngờ và thu hút sự chú ý của người đọc.
Sự thế bao nhiêu vẫn đã khuây
Bẻ cái trúc hòng phân suối, Quét con am để chứa mây
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá, Rừng tiếc chim về ngại phát cây
Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi, Ông này đã có thú ông này
Ý tưởng quét am để chứa mây, giữ yên lặng mặt ao chờ trăng, và không chặt cây để chim có chỗ đậu thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên Cách diễn đạt này rất dí dỏm và sáng tạo, cho thấy sự gắn bó sâu sắc với cảnh vật xung quanh.
Câu nói “ngại” thể hiện sự hài hước trong việc không muốn can thiệp vào vẻ đẹp tự nhiên Những câu thơ này thực sự ẩn chứa nụ cười giản dị, phản ánh sự tôn trọng quy luật của thiên nhiên.
Trong bài Tích cảnh (bài 4), Nguyễn Trãi thể hiện chất hài hước trong thơ của mình qua cách nhìn lạc quan về tuổi tác Thay vì than thở về sự trôi qua của tuổi xuân, ông vui mừng với cảm xúc của người có tuổi, cho thấy một tâm hồn yêu đời và lạc quan.
Tiếc thiếu niên qua lật hạn lành Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc Đầu bạc xưa này có thuở xanh
Vào nửa cuối thế kỷ XV, khi trật tự phong kiến được củng cố, Nho học trở nên đặc biệt quan trọng và văn học chủ yếu tập trung vào việc ca ngợi và thù phụng Trong bối cảnh này, thể loại thơ Đường luật trào phúng gặp khó khăn trong việc phát triển Tuy nhiên, Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) của Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn vẫn có tới 283 bài thơ Đường, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong sáng tác văn học thời kỳ này.
Mặc dù thể thơ Đường luật thường không chứa nhiều yếu tố trào phúng, nhưng phần thơ đề vịnh trong HĐQATT lại mang đến một sắc thái tiếu lâm đặc sắc Trong đó, yếu tố trào phúng không chỉ thể hiện qua sự hài hước nhẹ nhàng mà còn thể hiện rõ nét sự châm biếm sâu sắc, tạo nên sự khác biệt cho thể loại này.
Miệng cười hớn hở hoa in nhị,
Má đỏ hồng hồng tóc vén mây Ấy rắp phất cờ trêu ghẹo tiểu, Hay toan bốc gạo thử thung thầy
(Tượng Bà Đanh) Lòng bòng vó cất bên kia bãi, Đủng đỉnh chày đâm mái nọ non
Cắm, nhổ đầu ghềnh sào mấy cỗi, Nhấp nhô mặt nước đá hay hòn
Trong dòng thơ cung đình trang nhã của nhị thập bát tú thời Lê, những câu thơ như “Tế hậu thổ khom khom cật” và “Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng” đã thể hiện một lối trào phúng đầy ám ảnh Các từ ngữ táo bạo như “vén”, “ghẹo”, “bốc”, “vó cất” không chỉ gây bất ngờ cho người đọc mà còn gợi nhớ đến phong cách trào lộng gai góc của Hồ Xuân Hương Qua đó, có thể nhận thấy bút pháp trào lộng của bà chúa thơ Nôm là sự kế thừa và hoàn thiện từ lối trào phúng thời Hồng Đức Tác giả Trần Quang đã khéo léo kết nối hai giai đoạn văn học, làm nổi bật sự phát triển của thể loại thơ trào phúng trong văn học Việt Nam.
Khái quát về thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
1.3.1 Cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh
1.3.1.1 Cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh
Nguyễn Sinh Cung, tên thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19/5/1890 tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho có nguồn gốc nông dân Nơi đây có truyền thống đấu tranh kiên cường chống lại thực dân phong kiến, và hoàn cảnh xã hội cùng sự giáo dục trong gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Người từ khi còn nhỏ Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển đến sống ở Huế.
1901, sau khi mẫu thân qua đời, Nguyễn Sinh Cung lại theo cha trở về Nghệ
Nguyễn Tất Thành, tên thật của Bác Hồ, đã theo cha vào Huế vào năm 1906, nơi ông học tại trường Pháp - Việt và sau đó chuyển sang trường Quốc học Huế Vào cuối năm 1909, ông theo cha đến Bình Định và vào tháng 8 năm 1910, ông trở thành giáo viên tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết.
Ngày 05/6/1911, Người bắt đầu hành trình ra nước ngoài kéo dài 30 năm, đi qua nhiều quốc gia ở châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ Trong thời gian này, Người tham gia vào các phong trào công nhân và các dân tộc thuộc địa, vừa làm việc kiếm sống, vừa học hỏi và hoạt động cách mạng Năm 1917, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, Người đã tìm thấy con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp, đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Người nhận ra là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc và giai cấp Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và tham gia tích cực vào phong trào công nhân Pháp Vào tháng 6/1919, Người đại diện cho những người Việt Nam yêu nước gửi bản yêu sách 8 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới các cơ quan chức năng.
Hội nghị Véc-xây tại Pháp đã kêu gọi các nước đế quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ và bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênnin Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tours, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản
Từ năm 1921 đến đầu tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị quan trọng, bao gồm việc thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và tham dự Đại hội lần thứ I và II của Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ.
Phôbua, chủ nhiệm và chủ bút của Báo Người cùng khổ, nổi bật với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” nhằm lên án mạnh mẽ chế độ thực dân và khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân các nước thuộc địa Tất cả các bài viết của ông được bí mật chuyển về nước và lan tỏa trong mọi tầng lớp dân cư.
Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế, phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa Ông hoạt động trong Quốc tế Nông dân, học tập tại trường Đại học Phương Đông, và tham gia đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng Sản Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc cũng viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, trong đó có tác phẩm nổi bật "Bản án chế độ thực dân Pháp".
Năm 1925, tại Quảng Châu, Trung Quốc, Người đã tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông và sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Ông cũng cho ra mắt báo Thanh niên nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ năm 1930 đến 1940, Người tích cực tham gia vào công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi chặt chẽ phong trào cách mạng trong nước và đưa ra những chỉ đạo chính xác cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy
Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc Tuyên ngộn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa
I, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva được ký kết Miền Bắc được giải phóng, miền Nam bị đế quốc
Trong bối cảnh Mỹ xâm lược, Trung ương Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hiện tượng thẩm mỹ độc đáo
2.1.1 Cấu trúc thẩm mỹ trong không gian ngục tù
Không gian nghệ thuật trong tập "Nhật ký trong tù" tạo nên một hệ thống hình tượng nghệ thuật thống nhất về tư tưởng và thẩm mỹ.
Bài thơ trào phúng này bao gồm 45 tác phẩm, trong đó có đến 2/3 bài thơ phản ánh không gian xã hội của chốn ngục tù Các bài thơ thể hiện những cấu trúc thẩm mỹ không gian đặc thù, bao gồm không gian trong ngục tù và không gian giao thoa giữa trong và ngoài tù Đây là một mảng độc đáo và đặc sắc, góp phần làm phong phú thêm cấu trúc thẩm mỹ của toàn bộ tập thơ.
2.1.1.1 Kiểu không gian vừa trong ngục tù
Khảo sát 45 bài thơ trào phúng trong Nhật ký trong tù cho thấy khoảng 30 bài phản ánh cuộc sống trong không gian ngục tù chật chội, đầy muỗi và rệp, với điều kiện sinh hoạt khó khăn và thiếu thốn của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc Không gian này được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm như Một người tù cờ bạc “chết cứng”, Đánh bạc, Bị hạn chế, Tiền đèn, Tù cờ bạc, Nhà lao Quả Đức, Lại một người nữa, Cấm hút thuốc, Sinh hoạt trong tù, Chia nước, và Nhà ngục Nam Ninh.
Trong không gian ngục tù bẩn thỉu và chật chội, thơ Bác đã phản ánh thực trạng đáng lên án của nơi này với những câu từ sâu sắc: "Đau khổ chi bằng mất tự do, Đến buồn đi ỉa cũng không cho." Những câu thơ này thể hiện nỗi khổ đau tột cùng khi bị tước đoạt tự do, khắc họa rõ nét sự bức bối và tủi nhục của người bị giam cầm.
Cửa tù khi mở không đau bụng, Đau bụng thì không mở cửa tù
(Bị hạn chế - Nam Trân dịch)
Sự nhếch nhác của nhà tù được phản ánh qua các hoạt động sinh hoạt trong tù:
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi, Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu, Suốt ngày khói lửa mãi không thôi
Sinh hoạt trong tù không chỉ phản ánh sự tù túng và bức bối giữa bốn bức tường lạnh lẽo, mà còn thể hiện rõ nét cuộc sống thiếu thốn của người tù qua những bài thơ sinh động của Bác.
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha, Rửa mặt pha trà tự ý ta;
Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,
Ai cần rửa mặt, chớ pha trà
(Chia nước - Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch)
Hồ Chí Minh đã mô tả một cách cụ thể và chân thực về sự chật chội của nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, thể hiện ấn tượng về sự nhếch nhác và mất tự do mà các tù nhân phải trải qua.
Ba bước chiều dài, hai bước rộng, Bốn người giam đó, thực bàng hoàng;
Duỗi chân một chút, không sao được, Khám hẹp người đông, khổ đủ đàng!
(Nhà giam của Cục Chính trị - Huệ Chi dịch)
Trong không gian ngục tù tàn bạo, người tù còn phải chịu bao bất công ngang trái:
Quan không cấp bữa cho tù bạc, Để họ mau chừa tội cũ hơn;
Tù "cứng" ngày ngày no rượu thịt,
Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn
(Tù đánh bạc - Nam Trân, Huệ Chi dịch)
Hệ quả là tù nhân đã chết vì không gian ấy:
Thân anh da bọc lấy xương, Khổ đau, đói rét, hết phương sống rồi; Đêm qua còn ngủ bên tôi, Sáng nay anh đã về nơi suối vàng!
(Một người tù cờ bạc “chết cứng” - Nam Trân dịch)
2.1.1.2 Kiểu không gian vừa trong tù vừa ngoài tù
Cấu trúc thẩm mỹ của kiểu không gian vừa trong tù vừa ngoài tù được
Hồ Chí Minh mô tả ba đặc điểm nổi bật về không gian trong tù: đầu tiên, người tù sống trong cảnh ngột ngạt, giữa những biến động xã hội bên ngoài; thứ hai, dù thiếu thốn, người tù vẫn có thể kết nối với thiên nhiên tự do; và thứ ba, họ tìm thấy sự tự do trong tâm hồn, giao cảm với vũ trụ bên ngoài Những đặc điểm này được thể hiện qua các tác phẩm như bài thơ đề từ trên bìa tập Nhật ký trong tù, cùng với nhiều bài thơ khác như Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây, Chiều hôm, và Ngắm trăng Qua đó, tư tưởng nghệ thuật của Hồ Chí Minh thể hiện sự giao thoa giữa thân thể và tinh thần, giữa lao và ngoài lao, được bộc lộ rõ nét trong bài thơ đề từ.
Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn lên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao (Nam Trân dịch)
Bốn câu thơ khẳng định rằng, mặc dù xiềng xích có thể giam cầm thân xác của người tù trong lao, nhưng không thể ngăn cản tinh thần quả cảm và lòng hướng về dân, về nước của Bác.
Dù bị giam cầm trong tù, tâm hồn của người tù vẫn luôn hướng về thế giới bên ngoài, tràn đầy cảm xúc và hy vọng.
Thanh minh lất phất mưa phùn
Tù nhân nghe thấm nỗi buồn xót xa
Tự do, thử hỏi đâu là ? Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường
Tết Thanh Minh là dịp để tưởng nhớ và tri ân những người đã khuất, trong khi xã hội luôn biến động, người tù phải đối mặt với những khổ đau và áp lực trong cảnh ngục tù.
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận, Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh;
Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi, Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh
Bài thơ thể hiện nỗi buồn bực của Bác khi liên tưởng đến các tráng sĩ xưa, những người dũng cảm ra trận với khí thế mạnh mẽ để bảo vệ quê hương Hiện tại, Bác đang phải ngồi trong tù, cảm thấy tức giận vì không có cơ hội cùng đồng chí tham gia vào công cuộc bảo vệ đất nước.
Bên ngoài cánh cửa nhà lao, ánh trăng tròn rực rỡ chiếu sáng khắp nơi, mọi gia đình sum họp vui Tết Trung Thu Trong khi đó, Bác vẫn đón Trung Thu trong ngục tù, nơi chỉ có sự giam cầm và nỗi đau khổ.
Trung thu vành vạnh mảnh gương thu, Sáng khắp nhân gian bạc một màu;
Sum họp nhà ai ăn tết đó, Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu
Trung thu ta cũng tết trong tù, Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu;
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu
Bác cảm thấy buồn khi thấy hạnh phúc của các gia đình trong dịp Trung thu, nhưng Người vẫn giữ vững tinh thần lạc quan và tiếp tục đón Tết, mong chờ ngày đất nước được tự do.
Trong không gian u tối của nhà tù, tinh thần của Bác đã thể hiện sự "vượt ngục" qua cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên tự do bên ngoài Người đã rung động trước ánh nắng mai chiếu rọi vào cửa ngục, thể hiện niềm khát khao tự do và sự kết nối với thế giới bên ngoài.
Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất, Đốt tan khói đặc với sương dày; Đất trời phút chốc tràn sinh khí,
Tù phạm cười tươi nở mặt mày
Trong ánh nắng sớm, Người thả hồn vào khung cảnh làng xóm ven sông, nơi chiếc thuyền đáp thẳng xuống huyện Ung Ninh, với hình ảnh chân treo lủng lẳng tựa như giảo hình.
Làng xóm ven sông đông đúc thế, Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh
(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh - Nam Trân dịch)
Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hình thái phê phán đặc biệt có cảm xúc
Thơ xưa thường sử dụng tư tưởng và triết lý nhân sinh để chỉ trích và phê phán các đối tượng Một ví dụ tiêu biểu là thơ trào phúng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện rõ nét sự phê phán sâu sắc và cảm xúc Điều này cũng được thấy trong thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chí Minh, nơi ông không chỉ thể hiện sự chỉ trích mà còn mang đến những cảm xúc mạnh mẽ, làm nổi bật phong cách và tư tưởng của mình.
Nguyễn Bỉnh Khiên nhận thức rõ sự thay đổi lớn lao trong thời đại của mình, khi các giá trị đạo đức trước kia dần bị thay thế bởi quyền lực của đồng tiền Ông thấm thía rằng: “Còn bạc, còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi”, thể hiện sự lệ thuộc vào vật chất Trước thực trạng đó, Nguyễn Bỉnh Khiên chỉ biết than thở: "Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười", cho thấy sự tiếc nuối về những giá trị nhân nghĩa đang dần mai một.
Có của thì hơn hết mọi lời
Trước đến tay không, nào thốt hỏi Sau vào gánh nặng, lại vui cười
Anh anh, chú chú, cười hơ hải, Rượu rượu, chè chè, thết tả tơi
Người của, lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người
Sức mạnh của đồng tiền có khả năng thay đổi mọi thứ, khiến con người từ chỗ không màng đến nhau trở nên vui vẻ, thân thiết chỉ trong chốc lát Trước sự biến đổi nhanh chóng này, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm nhận được sự suy đồi đạo đức trong xã hội, nhận ra rằng "của nặng hơn người" Ông nhìn nhận cuộc sống từ góc độ triết lý, phê phán những kẻ hám lợi sẵn sàng bán rẻ tình bạn Thơ trào phúng của ông không chỉ là sự châm biếm mà còn chứa đựng những suy ngẫm sâu sắc về quy luật cuộc đời Đọc thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đọc sẽ thấy được một nhà thơ và một triết nhân đang hiện hữu song song.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi bật với hình thái phê phán mang tính triết lý và chất trí tuệ, trong khi đó, thơ Đường luật lại thể hiện hệ hình phê phán trào phúng, phản ánh sự châm biếm và sâu sắc trong cách nhìn nhận xã hội.
Hồ Chí Minh thể hiện nhiều trạng thái cảm xúc trong "Nhật kí trong tù", từ sự lên án và phê phán những bất công trong nhà tù, đến nỗi xót thương cho những số phận bị đày đọa dưới chế độ Tưởng Giới Thạch Ông cũng bộc lộ cảm xúc ung dung tự tại, như một "khách tiên" trong chốn lao tù Đọc xong tác phẩm, người đọc cảm thấy thoải mái và thỏa mãn về tinh thần, chuyển từ bi quan sang lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi và tương lai.
Với giọng điệu nhẹ nhàng và dí dỏm, Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ lên án chế độ xã hội đầy bất công và vô nhân đạo, nơi quyền sống của con người không được đảm bảo Trong xã hội này, những người lương thiện thường bị bắt giam một cách tùy tiện, bao gồm cả những nạn nhân đáng thương và vô tội.
Cha trốn không đi lính nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi, Phải theo mẹ đến ở nhà pha
(Cháu bé trong ngục Tân Dương - Nam Trân dịch)
Cảnh tượng người phụ nữ cùng đứa con nhỏ mới nửa tuổi phải vào tù thay chồng không thể nào gây cười Tuy nhiên, chi tiết hài hước lại nằm ở câu thơ thứ hai: “Gia phạ đương binh cứu quốc gia”, thể hiện sự tương phản đầy mỉa mai giữa hoàn cảnh bi thảm và ý nghĩa cao cả của việc cứu quốc.
Bài thơ đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của người đàn ông hèn nhát khi không tham gia cứu quốc, cũng như chính sách trưng binh gia quyến mà chính quyền thực thi Giọng điệu mỉa mai được thể hiện rõ qua tiếng khóc và lời tố cáo của em bé sơ sinh, người chưa biết nói nhưng đã cảm nhận được sự bất công giữa "gia" và "quốc gia".
Bài thơ Gia quyến người bị bắt lính có cấu trúc nhân quả giống bài Cháu bé trong ngục Tân Dương:
Biền biệt anh đi không trở lại, Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh, Nên lại mời em tạm ở tù
Việc nhà chức trách bắt vợ (con) đi tù chỉ vì chồng (cha) trốn lính phản ánh sự phi lý và bất công trong xã hội Thay vì để người có tội chịu trách nhiệm, lại bắt người thân gánh chịu hậu quả, cho thấy sự mỉa mai trong cách xử lý Điều này không chỉ chỉ trích sự thiếu công minh mà còn phê phán cách đối xử bất công đối với phụ nữ Hơn nữa, việc bắt cả hài nhi mới nửa tuổi vào tù là một hành động phi nhân tính, lên án sự tàn nhẫn của xã hội đối với những người yếu thế.
Nhật ký trong tù phản ánh sự phi lý, bất công và vô nhân đạo của chế độ Tưởng Giới Thạch Qua những bài thơ, độc giả được đưa vào thế giới cửa quan, nơi những người vô tội bị coi là phạm nhân, và nơi cai tù vi phạm pháp luật còn nhiều hơn cả tù nhân Đặc biệt, nhà tù, nơi giam giữ và cải tạo, lại biến thành sòng bạc, với thực tế là đánh bạc ở ngoài bị trừng phạt, trong khi việc này lại diễn ra công khai trong tù.
Người tù hối hận vì không đến đây sớm hơn để được tham gia vào trò chơi bạc công khai Trong tù cũng giống như ngoài xã hội, có người cầm quyền và kẻ bị áp bức Những kẻ cầm quyền có thể vi phạm pháp luật, dù chỉ là những hành vi nhỏ như hút thuốc.
Nó thì kéo tẩu tha hồ hút, Anh hút, còng đây, tay ké vào
Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp trào phúng để phơi bày mặt trái của xã hội, qua bức tranh tả thực về nhà tù như một quán trọ nhếch nhác và quái gở Tại đây, để có giấc ngủ ngon và tránh nằm cạnh cầu tiêu, người tù buộc phải tuân theo “luật rừng”.
Lệ thường tù mới đến, Phải nằm cạnh cầu tiêu;
Muốn ngủ cho ngon giấc, Anh phải trả tiền nhiều
Bác chỉ trích nhà tù như một cái chợ, nơi diễn ra các hoạt động mua bán và đổi trác, cho thấy sức mạnh của đồng tiền vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ.
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào, Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Một đồng của đáng sáu hào chỉ, Giá cả trong tù định rõ sao!
Trong nhà tù này, tù nhân phải chi một đồng để mua hàng hóa trị giá chỉ sáu hào, do giá cả đã được quy định sẵn Đây có lẽ là một trong những nhà tù kỳ lạ nhất trên thế giới, được ví như một "tiểu gia đình".
Nhà lao mà giống tiểu gia đình, Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;
Trước mỗi phòng giam bày một bếp, Suốt ngày lụi hụi với cơm canh
Trong tập nhật ký của Nhà lao Quả Đức, Huệ Chi đã dịch nhiều bài thơ phản ánh chân thực cuộc sống khắc nghiệt trong tù Những điều kiện sống tối thiểu bị tước bỏ, khiến tù nhân phải chịu đựng đói khát và hành hạ từ nhà tù này đến nhà tù khác Bác đã ghi chép lại những cảnh tượng này một cách tỉ mỉ và chi tiết, đặc biệt là tại nhà lao Tĩnh Tây.
Không rau, không muối, canh không có, Mỗi bữa lưng cơm đỏ gọi là