MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA ĐOÀN
Nhận thức về vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh thiếu niên
1.1.1 Khái quát về vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
1.1.1.1 Một số khái niệm cơ bản a) Thanh thiếu niên
Từ góc độ pháp luật, theo điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ
Theo Khoản 8, Điều XI của Luật Thanh niên, thanh niên được định nghĩa là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 16 đến 30 Đây là giai đoạn mạnh mẽ nhất về thể chất, đồng thời cũng là thời điểm phát triển vượt bậc về trí tuệ, sự nhạy bén, năng động và sáng tạo, với nhiều ước mơ và hoài bão.
Từ góc độ xã hội học, thanh niên được coi là một nhóm xã hội bao gồm những người đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn Tuổi thanh niên là thời kỳ không ổn định, thường xuyên thay đổi với việc tiếp nhận các thành viên mới và chia tay những người đã trưởng thành, vượt qua giới hạn độ tuổi của nhóm.
Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là giai đoạn giữa trẻ em và tuổi trưởng thành, với sự phát triển thể chất đạt đỉnh và các yếu tố tâm lý mới được hình thành Đặc điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú và đa dạng, phụ thuộc vào tuổi tác, nơi sống và nghề nghiệp Tuy nhiên, điểm chung của họ là tính trẻ, thể hiện qua sự năng động, nhiệt huyết, chấp nhận mạo hiểm, ước mơ lớn và mong muốn đóng góp cho xã hội, khẳng định bản thân.
Phạm vi tuổi của thanh niên từ 16 đến 30 tạo ra nhiều nhóm nhỏ với những đặc điểm nghề nghiệp khác nhau Nhóm trẻ tuổi nhất đang chuẩn bị chọn nghề và trường học, trong khi một bộ phận khác theo học tại các trường cao đẳng, đại học để nâng cao kỹ năng chuyên môn Một số thanh niên mới bắt đầu sự nghiệp, đối mặt với những thử thách ban đầu, trong khi những người khác đã khẳng định được vị trí và có những đóng góp cho xã hội Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã thu hút thanh niên, giúp họ đạt được thành tựu lớn và khẳng định bản thân Với sự nhanh nhạy, nhiệt huyết và sức khỏe, thanh niên được coi là lực lượng lao động chủ chốt của xã hội.
Thanh niên Việt Nam được định nghĩa là những người trong độ tuổi từ 16 đến 30, sở hữu sức khỏe thể chất tốt nhất Họ là những cá nhân năng động, nhiệt huyết, dám nghĩ dám làm, thích giao lưu và học hỏi để nâng cao trình độ Thanh niên mong muốn đóng góp cho xã hội nhằm khẳng định bản thân và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội hiện tại và tương lai.
Tuổi thiếu niên, hay còn gọi là Teen, xì-tin, là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng giữa trẻ em và trưởng thành, diễn ra từ 13 đến 19 tuổi Giai đoạn này đi kèm với những thay đổi sinh học, xã hội và tâm lý, trong đó sự phát triển thể chất và tâm lý là nổi bật nhất Gần đây, tuổi dậy thì đã có xu hướng bắt đầu sớm hơn, đặc biệt ở nữ giới, và đôi khi tuổi thiếu niên có thể kéo dài đến sau tuổi teen, nhất là ở nam giới Những thay đổi này đã làm cho việc xác định khung thời gian của tuổi thiếu niên trở nên khó khăn hơn.
Trong tiếng Việt, "giáo" có nghĩa là dạy và "dục" có nghĩa là nuôi, do đó "giáo dục" mang ý nghĩa dạy dỗ và nuôi dưỡng trí thức, đạo đức và thể chất Giáo dục là hình thức học tập qua đó kiến thức, kỹ năng và thói quen được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hoặc nghiên cứu Quá trình giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học Mọi trải nghiệm có ảnh hưởng đến cách suy nghĩ, cảm nhận và hành động đều có thể coi là giáo dục Giáo dục được chia thành nhiều giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học.
Chính trị được hiểu từ nhiều góc độ khác nhau, với nhiều quan điểm đa dạng Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, chính trị bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc và tầng lớp xã hội Cốt lõi của chính trị là vấn đề chính quyền, bao gồm việc duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, tham gia vào các công việc của nhà nước, và xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ cũng như nội dung hoạt động của nhà nước.
Mọi vấn đề chính trị đều gắn liền với quyền lợi của các giai cấp và nhà nước Chính trị, nằm trong kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng, nhà nước và đảng phái, phát sinh khi xã hội phân chia thành các giai cấp.
Chính trị không chỉ là sự phản ánh sâu sắc của kinh tế mà còn có vai trò độc lập và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế Để giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, việc hình thành quan điểm chính trị đúng đắn là điều cần thiết Chính trị còn thể hiện nền văn minh, hoạt động sáng tạo và sự giải phóng Trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hiệu lực quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với quyền làm chủ của nhân dân lao động là rất quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khái niệm về tư tưởng có thể hiệu các khía cạnh sau:
Suy nghĩ hay ý kiến cá nhân về một vấn đề, sự kiện, hay một cá nhân nào đó là điều quan trọng Mỗi người có cách nhìn nhận khác nhau, phản ánh quan điểm và cảm xúc riêng của họ đối với những tình huống cụ thể trong cuộc sống.
Quan điểm và ý nghĩ của một tập thể, giai cấp hay tầng lớp xã hội thường phản ánh sự đồng thuận về một vấn đề hay sự kiện cụ thể Chẳng hạn, đội ngũ đảng viên luôn thể hiện niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, trong khi thanh niên thể hiện lòng yêu mến và sự kính trọng đối với các thế hệ đi trước.
Tư tưởng là hệ thống quan điểm và luận điểm được xây dựng trên nền tảng triết học nhất quán, phản ánh ý chí và nguyện vọng của một giai cấp hoặc dân tộc Nó hình thành từ thực tiễn và có vai trò chỉ đạo trong việc cải tạo hiện thực.
Mục đích của quá trình nhận thức không chỉ dừng lại ở việc phản ánh các khái niệm, mà còn hình thành những chủ kiến và dự định hành động của mỗi người Do đó, Lênin xem tư tưởng là hình thức cao nhất của nhận thức, bao gồm các mục tiêu, chương trình và kế hoạch nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.
Tư tưởng là một sản phẩm chủ quan của con người, tồn tại như một thực tế khách quan và gắn liền với hoạt động của con người Tư tưởng của mỗi cá nhân phụ thuộc vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức của họ Sự phát triển của thực tại khách quan tác động đến tư tưởng và nhận thức của con người Để hình thành tư tưởng tích cực, cần chú trọng vào công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đầu tư phù hợp với nhu cầu ngày càng cao nhằm xây dựng tư tưởng vững vàng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, giúp họ không dao động trước những biến động của nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng của biến động chính trị toàn cầu.
1.1.1.2 Vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có những vai trò như sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh thiếu niên
Sau Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập trong thư gửi học sinh vào ngày khai trường tháng 9 năm 1945, khẳng định rằng sự vinh quang của non sông Việt Nam và vị thế của dân tộc trên trường quốc tế phụ thuộc lớn vào nỗ lực học tập của các em.
Năm 1947, trong thư gửi các bạn thanh niên, Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của thanh niên, cho rằng họ không chỉ là những người tiếp sức cho thế hệ trước mà còn là người dẫn dắt thế hệ tương lai Thanh niên được xem là lực lượng xung phong trong phát triển kinh tế và văn hóa, đồng thời là lực lượng chủ chốt trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ, hăng hái giữ gìn trật tự an ninh và bảo vệ Tổ quốc.
Bác Hồ luôn coi trọng vai trò cách mạng và đóng góp của thanh niên cho tương lai dân tộc và sự nghiệp cách mạng Thanh niên là cầu nối giữa các thế hệ, tiếp nối công việc của các thế hệ đi trước và hỗ trợ thế hệ kế tiếp Họ luôn hăng hái, nhiệt tình và tiên phong trong những công việc khó khăn: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm” Điều này không chỉ phản ánh bản chất cách mạng và sức mạnh của thanh niên mà còn thể hiện lòng tin yêu của Bác Hồ đối với thế hệ trẻ Việt Nam.
Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đang phát triển trong bối cảnh phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc toàn cầu Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa
Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đang trưởng thành trong bối cảnh cơ chế thị trường, vì vậy việc hiểu rõ suy nghĩ và định hướng của họ là rất quan trọng Chúng ta cần tìm ra những cơ chế điều chỉnh phù hợp để hỗ trợ và định hướng cho thế hệ này trong sự phát triển tương lai.
C.Mác từng cho rằng bộ phận giác ngộ trong giai cấp công nhân nhận thức rõ ràng tương lai của giai cấp họ và do đó, tương lai của cả loài người, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên V.I.Lênin cũng đã khẳng định: Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thực sự xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên… chỉ có cải tổ triệt để việc tổ chức và giáo dục thanh niên thì chúng ta mới có thể, bằng những cố gắng của thế hệ trẻ, đạt được kết quả là xây dựng nên một nền xã hội không giống xã hội cũ, tức là xã hội cộng sản
Từ năm 1925, Bác Hồ đã khẳng định rằng để thức tỉnh dân tộc, cần phải bắt đầu từ thanh niên, vì họ có khả năng cách mạng to lớn và là lực lượng cứu nguy cho đất nước Trong thư gửi thanh niên Việt Nam, Người đã chỉ ra tấm gương cần cù, tiết kiệm của thanh niên Trung Quốc tại châu Âu, nhấn mạnh rằng thanh niên Việt Nam cũng phải hành động để chấn hưng đất nước Bác Hồ cảnh báo rằng nếu không có sự hồi sinh của thế hệ trẻ, vận mệnh dân tộc sẽ gặp nguy hiểm Qua đó, Người nhấn mạnh rằng sự tồn vong của đất nước phụ thuộc vào ý chí và nghị lực của thanh niên.
Vào đầu thế kỷ XX, mặc dù Đông Dương có nhiều tiềm năng, nhưng lại thiếu tổ chức và người lãnh đạo Vì lý do này, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung vào việc mobilize thanh niên, dựa vào Tâm Tâm xã, một tổ chức thanh niên yêu nước đang hoạt động tại thời điểm đó.
Tại Quảng Châu, việc thiếu phương hướng hoạt động đúng đã dẫn đến việc lựa chọn những hạt nhân tích cực và mở các lớp huấn luyện chính trị Từ đó, tổ chức Hội Việt Nam thanh niên cách mạng được thành lập, tạo nền tảng cho việc xây dựng tổ chức Đảng từ tổ chức Thanh niên Đồng chí Lê Duẩn đã nhận định rằng thanh niên đã đóng vai trò quan trọng, như những người châm ngòi lửa đầu tiên cho phong trào cách mạng tại Việt Nam.
Trong cuộc đấu tranh xã hội, các giai cấp và lực lượng chính trị đều nỗ lực thu hút thanh niên, nhưng mục đích và động cơ của họ lại khác nhau Kẻ gian hùng lợi dụng sức trẻ như công cụ phục vụ cho tham vọng cá nhân, trong khi những vĩ nhân lại chăm lo bồi dưỡng thế hệ tương lai vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc và sự phát triển bền vững của nhân loại.
Thanh niên Việt Nam đã khẳng định vai trò và sức mạnh của mình trong lịch sử đấu tranh cách mạng, nhưng điều này không phải là bất biến Sự tiếp nối lý tưởng và con đường mà các thế hệ cha anh đã chọn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và việc nêu gương về lý tưởng cũng như đạo đức của thế hệ đi trước.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích cực tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng, gửi thanh niên đi học tại trường Quân sự Hoàng phố và đào tạo ở Mátxơcơva Ông đã nuôi dạy thanh niên Việt Nam từ Thái Lan, trong đó có Lý Tự Trọng, người được Đảng cử về nước để chuẩn bị thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Cuối đời, trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn viên và thanh niên, nhấn mạnh rằng Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cho họ, nhằm đào tạo những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“hồng” vừa “chuyên”, coi đó là một việc rất quan trọng và rất cần thiết
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường đang khuyến khích lòng tham và tính tư hữu, khiến con người chạy đua làm giàu bằng mọi giá Trong bối cảnh này, tuổi trẻ Việt Nam cần định hướng tương lai của mình Họ có thể sống và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại, hướng tới mục tiêu “Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hoặc theo đuổi ước mơ trở thành triệu phú trẻ tuổi.
Tương lai của Việt Nam xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc thực hiện Di chúc của Bác Hồ, đặc biệt là trong việc chăm lo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho các thế hệ sau.
Trong công tác bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho tương lai, Bác Hồ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục chính trị và tư tưởng cách mạng cho thanh niên.
Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
1.3.1 Tổ chức và hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
1.3.1.1 Tổ chức bộ máy, lực lượng cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Theo báo cáo của Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2012), cả nước hiện có hơn 7 triệu đoàn viên và hơn 25 triệu thanh niên Tổ chức này hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, góp phần thúc đẩy phong trào thanh niên trong cả nước.
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn do bầu cử lập ra, thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn là Đại hội Đại biểu toàn quốc, trong khi ở mỗi cấp, cơ quan lãnh đạo là Đại hội Đại biểu hoặc Đại hội Đoàn viên Giữa hai kỳ Đại hội, Ban Chấp hành được bầu ra bởi Đại hội Đoàn cùng cấp sẽ đảm nhận vai trò lãnh đạo Trong khoảng thời gian giữa hai kỳ họp của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, cũng do Ban Chấp hành bầu ra, sẽ là cơ quan lãnh đạo.
- Nghị quyết của Đoàn phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức
Trước khi quyết định công việc và biểu quyết nghị quyết của Đoàn, các thành viên sẽ được cung cấp đầy đủ thông tin và có cơ hội phát biểu ý kiến Ý kiến thuộc về thiểu số có quyền bảo lưu và báo cáo lên Đoàn cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, tuy nhiên, mọi thành viên phải nghiêm túc chấp hành nghị quyết hiện hành.
Đại hội và hội nghị của các cơ quan lãnh đạo Đoàn chỉ có hiệu lực khi có ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên tham dự Đối với thành viên tham dự theo cơ chế đại biểu, cần có ít nhất hai phần ba (2/3) số đại biểu và đại diện cho ít nhất hai phần ba (2/3) số tổ chức Đoàn trực thuộc Quyết định của đại hội, hội nghị chỉ có giá trị khi được sự đồng ý của trên một phần hai (1/2) số thành viên có mặt.
Hệ thống tổ chức của Đoàn được tổ chức thành 4 cấp từ Trung ương xuống cơ sở, cụ thể:
- Cấp cơ sở gồm Đoàn cơ sở và Chi đoàn cơ sở;
- Cấp Huyện và tương đương;
- Cấp Tỉnh và tương đương;
1.3.1.2 Các phong trào của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Các phong trào lớn của tổ chức Đoàn có vai trò nhất định và gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của đất nước, cụ thể đó là:
- Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ I (tháng 2/1950) đã phát động phong trào “Tòng quân giết giặc lập công”;
Sau Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II vào tháng 11/1956, thanh niên miền Bắc đã khởi xướng phong trào thi đua lao động sản xuất nhằm phục hồi kinh tế, cải tạo và xây dựng một xã hội mới.
- Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (tháng 3/1961) đã phát động phong trào “Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”
Vào tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ đã gia tăng chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc Việt Nam, khởi xướng phong trào “Ba sẵn sàng” Đến tháng 2 năm 1965, đại hội Đoàn thanh niên miền Nam đã phát động phong trào “Năm xung phong”, thu hút hàng vạn đoàn viên thanh niên tham gia chỉ sau một thời gian ngắn.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, hàng triệu đoàn viên thanh niên đã tham gia tích cực vào các phong trào như “Ba xung kích làm chủ tập thể”, “Thanh niên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, và “Hành quân theo bước chân những người anh hùng” Đặc biệt, vào tháng 11/1978, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ V đã phát động phong trào “Tuổi trẻ xung kích sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, khẳng định vai trò quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Năm 1993, hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” đã được thông qua tại Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương Đoàn (khóa VI) và tiếp tục phát triển tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII (1997) Năm 2000, Bộ Chính trị và Chính phủ quyết định lấy là “Năm thanh niên”, đánh dấu bước phát triển mới cho phong trào thanh niên tình nguyện, thu hút sự tham gia nhiệt tình của đông đảo cán bộ Đoàn và đoàn viên thanh niên.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII vào tháng 12 năm 2002 đã khởi xướng phong trào “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Nhiều cuộc vận động mới đã được triển khai, bao gồm “Sáng tạo trẻ”, “Bốn mới” (kỹ thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình mới), “Cán bộ công chức trẻ với cải cách hành chính”, và “Học tập tốt, rèn luyện tốt” Đặc biệt, đợt sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ Việt Nam với tư tưởng Hồ Chí Minh” đã thu hút sự tham gia tích cực của thanh niên.
Tuổi trẻ Việt Nam đang sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương vĩ đại của Bác Hồ Các hoạt động như đợt sinh hoạt chính trị “Tiếp lửa truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi”, diễn đàn “Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích” và cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã góp phần tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của đông đảo đoàn viên, thanh niên.
Trong giai đoạn 2007 – 2012, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã triển khai phong trào “Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” nhằm chăm lo lợi ích chính đáng của thanh niên, khơi dậy tiềm năng và huy động nguồn lực xã hội để định hướng, hỗ trợ thanh niên Phong trào này không chỉ phát huy mạnh mẽ tiềm năng của thanh niên mà còn tạo ra môi trường giáo dục, rèn luyện cho họ, góp phần vào sự phát triển của thanh niên, cộng đồng và đất nước.
- Nhiệm kỳ 2012 – 2017, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục tiển khai
Phong trào “Xung kích tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” cùng với “Đồng hành với thanh niên lập thân lập nghiệp” cần được điều chỉnh nội dung và hoạt động phù hợp với từng vùng miền, địa phương Việc này nhằm phát huy tối đa năng lực và nhiệt huyết của thanh niên, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
02 phong trào lớn hiện nay của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là
“Xung kích tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và
“Đồng hành với thanh niên lập thân lập nghiệp”, cụ thể như sau:
Phong trào “Xung kích tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc” bao gồm nội dung:
+ Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội
+ Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng
+ Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
+ Xung kích thực hiện cải cách hành chính
+ Xung kích trong hội nhập kinh tế, quốc tế
Phong trào “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” bao gồm nội dung:
+ Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
+ Đồng hành với thanh niên trong hướng nghiệp, dạy nghề và giải quyết việc làm
+ Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn hóa tinh thần
+ Đồng hành với thanh niên trong việc nâng cao kỹ năng xã hội
1.3.2 Nội dung và phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cho thanh thiếu niên
1.3.2.1 Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh thiếu niên
Công tác giáo dục chính trị và tư tưởng cho thanh thiếu niên của tổ chức Đoàn hiện nay tập trung vào việc tuyên truyền cương lĩnh, đường lối của Đảng và nhà nước, giúp thanh niên nhận thức đầy đủ và tin tưởng vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Đồng thời, thanh niên cần hiểu rõ xu thế phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu, nhận diện các đặc điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam và đối phó với “âm mưu diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch Qua đó, củng cố niềm tin, hình thành lý tưởng và ý thức trách nhiệm, khuyến khích thanh niên hành động tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương.
Công tác tuyên truyền và giáo dục chính trị - tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức Đoàn, nhằm giúp mọi người hiểu và chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước Để các chủ trương này đi vào cuộc sống, cần có sự tự giác thừa nhận và ủng hộ từ đông đảo nhân dân Do đó, việc giáo dục chính trị - tư tưởng cho thanh niên là rất quan trọng, giúp họ thấu hiểu và biến những chủ trương, nghị quyết thành ý chí, niềm tin và trách nhiệm công dân.
Người cán bộ Đoàn trong giai đoạn hiện nay phải thật sự vừa hồng vừa chuyên và phải làm tốt các nhiệm vụ sau :
Tư tưởng chính trị của chúng ta phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao Cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước khó khăn thách thức, đồng thời luôn giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng.