1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) sự vận động của thể loại truyền kỳ từ truyền kỳ mạn lục đến truyền kỳ tân phả​

99 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sự Vận Động Của Thể Loại Truyền Kỳ Từ Truyền Kỳ Mạn Lục Đến Truyền Kỳ Tân Phả
Tác giả Phạm Thị Lan Anh
Người hướng dẫn GS.TS. Trần Ngọc Vương
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 99
Dung lượng 1,12 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (6)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (7)
  • 3. Phạm vi nghiên cứu (11)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (11)
  • 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài (12)
  • 6. Cấu trúc luận văn (13)
  • hương 1: Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ (14)
    • 1.1. Khái niệm thể loại (14)
    • 1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ (15)
      • 1.2.1. Đặc trưng về nội dung (15)
      • 1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật (16)
    • 1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở Việt Nam 16 1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV (19)
      • 1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII (22)
      • 1.3.3. Giai đoạn thế kỷ XVIII – cuối thế kỷ XIX (27)
  • hương 2: N ỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC (0)
    • 2.1. Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực (30)
      • 2.1.1. Sự tích hợp trong cốt truyện (30)
      • 2.1.2. Sự tích hợp trong kỹ xảo xây dựng nghệ thuật (39)
      • 2.2.1. Sự thâu hóa về chủ đề, đề tài (45)
      • 2.2.2. Sự thâu hóa về cốt truyện (48)
      • 2.2.3. Sự thâu hóa trong trình bày nhân vật (49)
    • 2.3. Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục (50)
  • hương 3: SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ (66)
    • 3.1. ình hình văn bản của Truyền kỳ tân phả (66)
    • 3.2. Những xu hướng mới của truyện truyền kỳ tích hợp trong Truyền kỳ tân phả (67)
      • 3.2.1. Quá trình “tục hóa” để tiến tới (67)
      • 3.2.2. Những xu hướng mới trong nội dung (71)
      • 3.2.3. Những xu hướng mới về nghệ thuật biểu hiện (76)
  • KẾT LUẬN (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (95)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Truyện truyền kỳ là một lĩnh vực phong phú, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu từ các góc độ khác nhau Các nghiên cứu có thể tập trung vào từng tác phẩm cụ thể hoặc phân tích các khía cạnh chung xuất hiện trong nhiều tác phẩm, cũng như quá trình hình thành và phát triển của thể loại này Nhiều bài nghiên cứu về truyện truyền kỳ đã được công bố trên các tạp chí, sách báo và trong các công trình khoa học Một trong những tác phẩm tiêu biểu là "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ.

Truyền kỳ tân phả của Oàn Thị Điểm đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, nhưng chưa có công trình nào so sánh hai tác phẩm để khám phá sự phát triển của thể loại truyền kỳ Về Truyền kỳ mạn lục, các vấn đề như tên tác giả, niên đại sống và số lượng tác phẩm vẫn còn gây tranh cãi Hơn nữa, những đóng góp của Truyền kỳ mạn lục cho thể loại và mối quan hệ giữa tác phẩm của Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc) cũng được nghiên cứu sâu sắc Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là bài viết “Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kỳ mạn lục” của Lại Văn Hùng trên Tạp chí Văn học.

Bài viết đề cập đến các tác phẩm liên quan đến "Truyền kỳ mạn lục", bao gồm câu hỏi liệu tác phẩm này có 20 hay 22 truyện Nó cũng nhấn mạnh đến nghiên cứu của Nguyễn ăng Na về "Truyền kỳ mạn lục" từ góc độ so sánh văn học, được xuất bản trong cuốn "Con đường giải mã văn học trung đại" của NXB Giáo dục năm 2006 Bên cạnh đó, bài viết cũng giới thiệu nghiên cứu về khuynh hướng sáng tác trong "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ, được đăng trên Tạp chí văn học.

Bài viết "Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kỳ Đông Á" của Vũ Thanh và "Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại" của Trần Nghĩa, được đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1987, đã phân tích những ảnh hưởng và đặc điểm nổi bật của thể loại truyền kỳ trong văn học Đông Á, đặc biệt là sự đóng góp của Nguyễn Dữ Những nghiên cứu này không chỉ làm rõ giá trị văn học của các tác phẩm mà còn mở ra hướng tiếp cận mới trong việc so sánh các thể loại truyền kỳ khác nhau.

Năm 1987, trong chương trình Trung học phổ thông, học sinh chỉ tiếp cận một số tác phẩm nhỏ lẻ trong Truyền kỳ mạn lục, bao gồm Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, mà chưa được tìm hiểu tổng quan về sự phát triển của thể loại truyền kỳ Điều này cho thấy các em chỉ được giới thiệu một số tác phẩm được coi là kiệt tác trong kho tàng văn học dân tộc.

Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Một số công trình nổi bật về tác phẩm này bao gồm “Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả” của Bùi Thị Thiên Thai, đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An vào tháng 9 năm 2010, và “Mối liên hệ giữa Truyền kỳ tân phả và lễ hội văn hóa dân gian” của Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai, được đăng trên trang báo điện tử của Viện Văn học vào tháng 8.

2011 hay Luận văn Thạc sĩ “Khảo sát giá trị văn bản Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm” của Trần Thị Hải Bình năm 2009…

Nghiên cứu về thể loại truyền kỳ ở Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu và soạn sách chú trọng, với nhiều công trình tiêu biểu như luận án Tiến sĩ của Phạm Văn Thắm năm 1996, xác lập tiêu chí nhận diện và danh mục truyện truyền kỳ, đồng thời đánh giá tình trạng văn bản, niên đại và tác giả của các tác phẩm Công trình này góp phần quan trọng trong việc xác định giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện truyền kỳ Một công trình khác, bộ sách Truyện truyền kỳ Việt Nam do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 1999, đã tổng hợp và giới thiệu các tác phẩm truyền kỳ cùng với khái quát về cuộc đời tác giả và nội dung tư tưởng, nhưng chưa có sự so sánh và nhìn nhận mối tương quan giữa các tác phẩm, do đó vẫn chủ yếu mang tính chất tổng hợp.

Nghiên cứu về thể loại văn học trung đại Việt Nam cho thấy sự vận động và phát triển của thể loại truyền kỳ, đặc biệt qua tác phẩm “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” của GS.TS Trần Nho Thìn (2008) và bài viết của P.S TS Vũ Thanh trong cuốn “Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIX” (2015) Vũ Thanh phân tích sự phát triển của thể loại truyện kỳ ảo, nhấn mạnh Truyền kỳ mạn lục như đỉnh cao của thể loại này Ông khám phá ảnh hưởng của văn học dân gian đến thể loại truyện kỳ ảo, đồng thời để ngỏ giai đoạn từ sau Truyền kỳ mạn lục đến cuối thế kỷ XIX Ngoài ra, ông còn có nhiều công trình nghiên cứu khác, như bài viết về sự biến đổi của yếu tố “kì” và “thực” trong truyện truyền kỳ Việt Nam trên Tạp chí Văn học (1994).

Trong bài viết "Truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XIX" và "Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại" trong công trình "Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học" (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001), tác giả đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về thể loại truyền kỳ Các công trình này không chỉ khái quát những giai đoạn lịch sử phát triển của truyền kỳ mà còn phân tích đặc điểm đặc trưng của thể loại, cùng với những phân tích chi tiết từng tác phẩm Điều này mở ra nhiều luận giải sắc bén cho những ai muốn tìm hiểu và nghiên cứu về thể loại truyền kỳ trong văn học Việt Nam.

Một số luận văn thạc sĩ nổi bật có thể kể đến là “Đặc điểm truyện truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX” của Lương Thị, nghiên cứu sâu về các đặc điểm văn hóa và nghệ thuật trong thể loại truyện truyền kỳ của Việt Nam trong giai đoạn này.

Huyền Thương (2009) đã phân tích các đặc trưng của thể loại truyền kỳ và chỉ ra những điểm mới trong truyện truyền kỳ từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX Bài viết "Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam" của Trần Nghi cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của thể loại này trong bối cảnh văn học Việt Nam.

Nghiên cứu năm 2012 chỉ ra rằng thể loại truyền kỳ đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối văn học dân gian với văn học viết, đồng thời đánh dấu sự phát triển của văn xuôi trung đại và ảnh hưởng đến văn học hiện đại.

Mặc dù đã có nhiều bài viết, nghiên cứu, luận văn và luận án phân tích các tác phẩm truyền kỳ cũng như các đặc trưng của thể loại này, nhưng vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về sự phát triển của thể loại thông qua hai tác phẩm nổi bật.

Luận văn "Sự vận động của thể loại truyền kỳ từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả" nhằm mục đích cung cấp cái nhìn mới về sự phát triển của thể loại truyền kỳ qua hai tác phẩm kiệt xuất của dân tộc Bằng cách phân tích sự chuyển biến trong nội dung và hình thức của hai tác phẩm này, nghiên cứu hy vọng sẽ làm sáng tỏ những đặc điểm nổi bật và ảnh hưởng của chúng đối với văn học truyền kỳ Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để có cái nhìn tổng quát và sâu sắc về vấn đề, từ đó tiến hành phân tích, lý giải và đưa ra những luận cứ cụ thể cho nghiên cứu Các phương pháp được sử dụng bao gồm:

Phương pháp so sánh hai tác phẩm văn học, như Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả, giúp làm rõ sự vận động và biến đổi trong văn học Bên cạnh đó, việc so sánh này còn được thực hiện dưới góc nhìn văn hóa và lịch sử, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa văn học với các vấn đề đời sống và sự tác động qua lại của lịch sử.

Phương pháp thống kê được áp dụng nhằm chỉ ra và so sánh các luận cứ, từ đó tìm ra những đặc điểm nổi bật thể hiện sự vận động thể loại của truyền kỳ.

Phân tích và tổng hợp là quá trình nghiên cứu sâu từng tác phẩm cụ thể nhằm đưa ra luận cứ và lý luận cho vấn đề cần giải quyết Qua việc tổng hợp các ý kiến, chúng tôi mong muốn khái quát và bao quát vấn đề, đồng thời áp dụng phương pháp này để có cái nhìn đa chiều, tránh bỏ sót bất kỳ ý kiến nào.

Chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp khoa học để xây dựng hệ thống luận điểm và luận cứ, nhằm giải thích và làm rõ vấn đề một cách hiệu quả.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Luận văn này nghiên cứu quá trình phát triển của thể loại truyền kỳ thông qua hai tác phẩm tiêu biểu: "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ và "Truyền kỳ tân phả" của Hồ Thị Hĩem Chúng tôi hy vọng rằng nghiên cứu sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự vận động và biến đổi của một hiện tượng văn học đang thu hút sự chú ý của nhiều người.

Luận văn này hy vọng sẽ đóng góp tích cực vào việc khẳng định giá trị của một thể loại văn học từng bị lãng quên trong quá khứ.

Cấu trúc luận văn

Luận văn được cấu trúc gồm ba chương chính, bên cạnh phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về thể loại truyền kỳ, trong khi Chương 2 tập trung vào những thành tựu nổi bật của truyền kỳ Việt Nam cho đến tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục" Cuối cùng, Chương 3 khám phá sự tích hợp của các yếu tố truyền kỳ từ sau "Truyền kỳ mạn lục" cho đến "Truyền kỳ tân phả".

Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ

Khái niệm thể loại

Truyền kỳ là một thể loại văn học đặc trưng bởi các yếu tố “kỳ” và “ảo”, phản ánh những câu chuyện lạ lùng và huyền bí Theo giáo sư Vũ Ngọc Khánh, truyền kỳ có nghĩa là kể lại những điều kỳ diệu, từ thần thánh đến ma quái, cũng như những thông tin khác biệt với thực tại Những vấn đề liên quan đến mộng mị và hư thực đều thuộc về thể loại này, tạo nên sự phong phú và đa dạng cho kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam.

Truyền kỳ là một thể loại văn học cổ điển có nguồn gốc từ Trung Quốc, đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Đường Theo Từ điển thuật ngữ văn học, "truyền kỳ" được định nghĩa là thể loại tự sự ngắn, nhấn mạnh tính chất hư cấu với ý nghĩa không có thực Tên gọi này chỉ xuất hiện vào cuối thời kỳ Đường, phản ánh sự phong phú và đa dạng của văn học Trung Quốc trong giai đoạn này.

Theo Từ điển Văn học (bộ mới), Truyền kỳ là một thể loại văn xuôi tự sự của Trung Quốc, phát triển từ truyện kể dân gian Các nhà văn đã nâng cao thể loại này thành văn chương bác học, kết hợp những môtip kỳ quái và hoang đường vào cốt truyện mang ý nghĩa trần thế.

Truyện truyền kỳ khi du nhập vào Việt Nam đã phát triển thành một thể loại ngắn gọn, tương tự như truyện ngắn hiện đại Nó không chỉ là sự tiếp thu từ nền văn học gốc mà còn được hình thành dựa trên các yếu tố văn hóa, đặc trưng dân tộc và cảm quan sáng tạo của tác giả Điều này giúp truyện truyền kỳ Việt Nam giữ được bản sắc riêng, gắn liền với truyền thống và văn hóa của người Việt.

ặc trưng của thể loại truyền kỳ

1.2.1 Đặc trưng về nội dung

Truyện truyền kỳ là thể loại văn học sử dụng yếu tố kỳ ảo và ly kỳ, tạo nên những câu chuyện đặc sắc phản ánh tâm tư và tình cảm của tác giả Những tác phẩm này thường mang đến những suy nghĩ sâu sắc về hiện thực đương thời, đặc biệt là trong bối cảnh tối tăm và đầy rẫy chiến tranh, đấu đá.

Nam Xương nữ tử lục kể về cuộc đời của Vũ Thị Thiết, người phụ nữ phải chịu đựng nỗi đau khi chồng ra chiến trận do chiến tranh loạn lạc Trong bối cảnh xã hội đầy bất công, tham nhũng lan tràn, câu chuyện phản ánh rõ nét những khổ đau và thử thách mà phụ nữ phải đối mặt, điển hình là trong tác phẩm Túy.

Trong câu chuyện về nàng Túy Tiêu, cô bị quan Trụ quốc họ Thân bắt làm vợ, khiến Dư Nhuận phải kiện lên triều đình nhưng không ai dám can thiệp do uy quyền của quan Trụ quốc quá lớn Thực trạng của triều đình thời bấy giờ cho thấy sự suy đồi của vua quan, như vua Hồ trong Na Sơn, nổi bật với tính tham dục, lãng phí của cải dân, và những hành động tàn bạo Quan lại trong triều thì tham nhũng, chạy chọt để có chức quyền, sống xa hoa và tiêu xài phung phí, trong khi lòng dân thì bất an và bất mãn Những hình ảnh như việc vua Trần Phế bị chỉ trích vì những hành động tàn nhẫn với dân cũng phản ánh sự tàn bạo và vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền.

Tình trạng tham nhũng và hối lộ không chỉ xảy ra trong xã hội mà còn lan rộng đến các nơi thờ cúng như đền miếu Điển hình là Bách hộ họ Thôi, người đã chiếm đoạt ngôi đền của thần nước Việt và thực hiện những hành vi sai trái mà không ai hay biết, nhờ vào sự tiếp tay của các đền miếu xung quanh Hơn nữa, xã hội hỗn loạn về đạo đức cũng được phản ánh qua những câu chuyện truyền kỳ, như việc bạn bè lợi dụng sự đẹp đẽ của vợ bạn để lừa gạt và cướp đoạt, thể hiện một thực trạng đáng báo động về luân lý trong cộng đồng.

Truyện truyền kỳ thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc, đặc biệt là sự cảm thương của tác giả đối với nhân vật, nhất là người phụ nữ trong xã hội Những người phụ nữ này thường mang vẻ đẹp nết na, hy sinh vì gia đình và quốc gia, nhưng số phận của họ lại đầy ngang trái Họ thường không có cái kết tốt đẹp, như trường hợp của nàng Phù Dung trong Truyện đền thiêng nơi cửa bể, người đã phải chịu đựng oan nghiệt và không được sử dụng tài năng của mình.

1.2.2 Đặc trưng về nghệ thuật

Sự kết hợp giữa yếu tố ảo và thực trong việc truyền tải nội dung thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc Yếu tố kỳ ảo không chỉ làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn mà còn tạo ra một thế giới khác, phản ánh và lột tả hiện thực Qua những tác phẩm như Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, các tác giả khắc họa những mối tình kỳ diệu, như cuộc tình giữa hai nàng yêu hoa Liễu và chàng học trò Hà Nhân, hay chàng Từ Thức được lấy tiên làm vợ Những trải nghiệm này không chỉ mang đến cái nhìn mới mẻ về cuộc sống mà còn thể hiện khát vọng vươn tới một thế giới tuyệt đẹp hơn.

Nguyễn Dữ khao khát thoát khỏi cuộc sống u ám của xã hội đương thời, mong muốn rời xa bóng tối và hỗn loạn để có thể tự do vẫy vùng trong ánh sáng.

Các motip dân gian thường xuất hiện trong các tác phẩm truyền kỳ, được xem là nguồn gốc quan trọng của thể loại này tại Việt Nam Một ví dụ điển hình là hiện tượng sinh đẻ kỳ lạ trong "Chuyện gã trà đồng giáng sinh," khi bà mẹ thấy một ngôi sao rơi vào bụng và sinh ra một cậu con trai Tương tự, trong "Chuyện nghiệp oan của Đào," vợ quan Hành chiêm bao thấy rắn cắn vào mạng sườn và sau đó sinh ra hai người con trai.

Truyện cổ tích Sọ Dừa và Chồng dê trong Thánh Tông di thảo gợi nhớ đến những câu chuyện dân gian như Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê, phản ánh motif "ở hiền gặp lành, ác giả ác báo" Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, chàng Tử Văn vì bất bình với tên Bách hộ họ Thôi đã dũng cảm đốt đền để bảo vệ dân lành, và mặc dù bị kiện, cuối cùng hắn ta phải chịu hình phạt Nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương, với phẩm hạnh thùy mị và hiếu thảo, đã phải chịu oan khuất và tự vẫn, nhưng cuối cùng cũng được minh oan và sống yên ổn trong cuộc sống cung nữ dưới thủy cung.

Nhân vật trong truyện truyền kỳ thường được khắc họa qua ngoại hình, tài năng và ngôn ngữ, thay vì tâm lý sâu sắc Vẻ đẹp phẩm chất của họ thể hiện qua hoàn cảnh và hành động, như Vũ Thị Thiết trong "Chuyện người con gái Nam Xương" thể hiện nỗi nhớ chồng qua những lời nói với con, hoặc Giáng Kiều trong "Cuộc kỳ ngộ ở Bích Câu" khuyên Tú Uyên qua thơ ca và van xin khi bị đuổi Những nhân vật nữ thường mang nét dịu dàng, trong khi nhân vật nam lại nổi bật với tài năng, như Dư Nhuận hi với khả năng âm nhạc và Tú Uyên với tài thơ xuất sắc Cách thể hiện này phản ánh phong cách riêng của các tác giả trong thể loại truyện truyền kỳ.

Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở Việt Nam 16 1 Giai đoạn thế kỷ X-XIV

1.3.1 Giai đoạn thế kỷ X-XIV

Chiến thắng năm 938 trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, giúp đất nước thoát khỏi nghìn năm đô hộ Bắc thuộc Sự kiện này mở ra thời kỳ hòa bình, độc lập và tự chủ, nâng cao ý thức về độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ Điều này không chỉ thể hiện qua các lĩnh vực chính trị và quân sự mà còn lan tỏa mạnh mẽ trong văn hóa và văn học, đặc biệt là sự phát triển của văn học viết.

Văn học viết Việt Nam ra đời chịu ảnh hưởng từ văn học dân gian và tiếp thu thể loại từ văn học Trung Hoa, như thơ phú, văn chính luận và văn xuôi lịch sử Các tác phẩm thời kỳ này chủ yếu được sưu tầm từ truyện dân gian, chỉnh lý và gắn liền với chức năng tôn giáo, lễ nghi Một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm Lĩnh Nam chích quái lục, Việt điện u linh tập, Báo cực truyện và Thiền uyển tập anh Đặc trưng của thể loại truyền kỳ bắt đầu xuất hiện qua yếu tố hoang đường, kỳ ảo Dù còn ở giai đoạn sơ khai với ít tính sáng tạo, những tác phẩm này có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho sự phát triển của thể loại truyền kỳ trong các thời kỳ sau.

Việt điện u linh tập là tác phẩm ghi chép về các vị thần linh được thờ cúng tại Việt Nam, bao gồm nhân quân (vua chúa), hạo khí anh linh (thần sông, thần núi) và quân thần (bề tôi trung liệt) Bài Tựa đề năm Khai ựu nguyên niên mở đầu cho những câu chuyện đầy ý nghĩa về tín ngưỡng và văn hóa dân tộc.

Trong tác phẩm của Lý Tế Xuyên, ông nhấn mạnh rằng chỉ những bậc hiền tài, ngay thẳng mới được coi là thần, không phải những thế lực tà ác hay ma quái 27 vị thần được thờ cúng tại Việt Nam không chỉ được kể về công lao khi còn sống mà còn về sự hiển linh, giúp đỡ dân chúng sau khi qua đời, theo công thức "dương trợ-âm phù" Những yếu tố huyền ảo và kỳ lạ trong Việt điện u linh tập thường liên quan đến báo mộng và hiện hồn Ví dụ, các truyện như Bố Cái Đại Vương và Truyện Trương Hống, Trương Hát đều kể về sự hiển linh của thần linh từ đời trước, hỗ trợ các anh hùng trong cuộc chiến chống quân xâm lược.

Thiền uyển tập anh ghi lại sự tích và hành trạng của 68 vị thiền sư nổi tiếng từ cuối thời Bắc thuộc đến thời Lý, Trần, Lê, thuộc các phái như Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni a Lưu hi, và Thảo Đường Theo Thượng Thích Thanh Tứ, tác phẩm này không chỉ có giá trị lịch sử trong việc nghiên cứu Phật giáo Việt Nam mà còn là một tác phẩm truyện ký có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian.

Thích Thanh Tứ là nhân vật nổi bật trong sách Thiền uyển tập anh, tác phẩm được dịch bởi Nguyễn Ức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, thường chứa đựng những yếu tố kỳ ảo liên quan đến hành trình của các thiền sư và sự cứu độ nhân dân Theo Từ điển Văn học Việt Nam, các tiểu truyện và truyện ký lịch sử trong tác phẩm này có thể được coi là những tác phẩm truyền kỳ Những câu chuyện về sự đầu thai, khả năng chữa bệnh bằng niệm chú, hay việc di chuyển mà không cần mở cửa, đều mang đậm tính chất kỳ lạ và hoang đường, đặc trưng cho thể loại truyền kỳ trong văn học Việt Nam.

Lĩnh Nam chích quái lục của Lý Tế Xuyên là một tuyển tập ghi chép những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian Việt Nam, được biên soạn vào cuối thời Trần Tác phẩm này chứa đựng nhiều truyền thuyết và cổ tích phong phú, phản ánh màu sắc kỳ ảo đặc trưng Các câu chuyện trong tập hợp này không chỉ gắn liền với nguồn gốc dân tộc Việt mà còn thể hiện phong tục tập quán độc đáo của người Việt, như Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Ngư tinh và Truyện Hồ tinh.

Mộc tinh, Truyện bánh chưng, và Truyện trầu cau là những tác phẩm phản ánh sự tích từ thời Bắc thuộc và các thần tích thời Lý – Trần như Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không Lĩnh Nam chích quái lục nổi bật với những yếu tố hoang đường, kỳ ảo như thụ thai thần kỳ, ra đời kỳ lạ, và sức mạnh phi thường, thể hiện thái độ yêu ghét của nhân dân Những câu chuyện này không chỉ khắc họa tâm tư của người dân mà còn khẳng định tinh thần tự tôn và niềm tự hào dân tộc.

Những tác phẩm văn xuôi thời kỳ này, mặc dù còn ảnh hưởng từ văn học dân gian, đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn xuôi ở các giai đoạn sau, đặc biệt là thể loại truyền kỳ Các tác phẩm như Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, và Lĩnh Nam chích quái không chỉ mang đậm màu sắc yêu nước mà còn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ca ngợi những anh hùng và nhân kiệt Những yếu tố kỳ ảo và hoang đường trong các tác phẩm này đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển rực rỡ của thể loại truyện truyền kỳ trong tương lai.

1.3.2 Giai đoạn thế kỉ XV - XVII

Sau khi giành độc lập từ giặc phương Bắc, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với các cuộc xâm lược từ giặc Tống, giặc Nguyên và giặc Minh Trong bối cảnh đó, vua và nhân dân đồng lòng chống giặc, quyền lợi của giai cấp phong kiến và lợi ích của nhân dân cùng chung một mục tiêu: bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc Sự thống nhất này đã ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung tư tưởng của các tác phẩm văn học trong thời kỳ này.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo (1418-1427) đã giành lại độc lập cho dân tộc, dẫn đến sự thành lập triều đại Hậu Lê (1428-1789) Dưới triều đại Lê Thái Tông và Lê Thánh Tông, đất nước phát triển mạnh mẽ, đạt đỉnh cao vào thế kỷ XV Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, xã hội phong kiến bắt đầu suy thoái, xung đột trong cung đình Hậu Lê gia tăng, đặc biệt sau cái chết của Lê Thánh Tông Sự bất ổn này khiến nhân dân lâm vào khổ cực, phản ánh rõ nét trong văn học thời kỳ này, nhất là trong thể loại văn xuôi Nội dung yêu nước và tinh thần ngợi ca dần nhường chỗ cho những tác phẩm phản ánh thực tế cuộc sống của nhân dân với tinh thần nhân đạo, đặc biệt trong các sáng tác truyền kỳ, đánh dấu bước phát triển rực rỡ của thể loại này.

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ tập trung vào những nhân vật bình dị, không phải là anh hùng hay cao tăng, mà là những người dân thường đang phải đối mặt với cuộc sống đầy rẫy khó khăn, rối ren và u ám.

Hoàn cảnh xã hội thay đổi không chỉ ảnh hưởng đến nội dung của văn học mà còn tác động đến các hình thức nghệ thuật Sau năm thế kỷ phát triển, văn học viết đã trở nên độc lập và vững chắc hơn, tạo ra những bước tiến mới và đỉnh cao trong một số thể loại Các tác giả không chỉ ghi chép và sưu tầm các câu chuyện dân gian mà còn có cái nhìn sâu sắc về vai trò của văn học trong xã hội Nhu cầu phản ánh hiện thực đã thúc đẩy sự đổi mới trong sáng tác, dẫn đến sự ra đời của những tác phẩm mang tính sáng tạo và cá tính riêng của người viết, tạo tiền đề cho thể loại truyền kỳ phát triển mạnh mẽ.

Văn học Việt Nam thế kỷ XV tiếp tục kế thừa cảm hứng yêu nước và âm hưởng hào khí, nhưng dần chuyển sang những chủ đề thế sự, tập trung vào đời sống con người, phê phán các tệ nạn xã hội và sự suy thoái đạo đức.

Trong bối cảnh đất nước trải qua nhiều biến động suốt hai thế kỷ, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của truyền kỳ Việt Nam Giai đoạn này chứng kiến sự thoát khỏi ràng buộc của văn học dân gian và văn học chức năng, thể hiện tính sáng tạo mạnh mẽ Hai tác phẩm nổi bật trong thời kỳ này đã ghi dấu ấn sâu sắc trong nền văn học Việt Nam.

Thánh tông di thảo được cho là của Lê Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm truyện truyền kỳ của tác giả Nguyễn

N ỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực

Thể loại truyền kỳ có nguồn gốc từ Trung Hoa và đã ảnh hưởng sâu sắc đến các nước đồng văn, bao gồm cả Việt Nam.

Tiễn đăng tân thoại của Cù Hự là tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất của thể loại truyện truyền kỳ Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ra đời của thể loại này tại nhiều quốc gia như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và đặc biệt là Việt Nam Tác phẩm này đã tác động mạnh mẽ đến Truyền kỳ mạn lục, được coi là truyện truyền kỳ đầu tiên của Việt Nam Nguyễn Dữ, thông qua việc tiếp thu các chất liệu và kỹ năng từ Tiễn đăng tân thoại, đã tạo ra một tác phẩm mang đậm nét độc đáo và sáng tạo, thể hiện sự khác biệt rõ rệt so với nguyên tác của Cù Hự.

Nguyễn Dữ đã tiếp thu nhiều khía cạnh quan trọng để khởi đầu thể loại truyện truyền kỳ tại Việt Nam, đặc biệt qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục Phần này sẽ được làm sáng tỏ hơn ở những phần sau của bài viết.

2.1.1 Sự tích hợp trong cốt truyện

Cốt truyện là hồn cốt của mỗi tác phẩm, và trong "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ, có thể nhận thấy sự ảnh hưởng từ "Tiễn đăng tân thoại" của Cù Hựu Mặc dù các tình tiết không hoàn toàn giống nhau, nhưng hình bóng nhân vật và sự kiện từ tác phẩm của Cù Hựu vẫn hiện hữu trong từng truyện Tuy nhiên, Nguyễn Dữ đã thể hiện sự sáng tạo cao độ, không chỉ sao chép mà còn phát triển các câu chuyện về tình yêu kỳ quái, những cuộc phiêu lưu của người sĩ tử và những hiện tượng siêu nhiên Các truyện thường xoay quanh những người đàn ông bị cuốn hút bởi những cô gái đẹp, thường là hồn ma, và những người có học không sợ hãi trước cái chết hay ma quỷ, khám phá những thế giới bí ẩn như âm phủ và thủy cung.

Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục đều gồm 20 truyện nhỏ, chia thành 4 quyển, nhưng Truyền kỳ mạn lục có dung lượng mỗi truyện dài hơn một chút Sự khác biệt này thể hiện sự sáng tạo và điều tiết ngôn ngữ của Nguyễn Dữ, đặc biệt qua phần lời bình ở cuối mỗi truyện Trong Truyền kỳ mạn lục, 19/20 truyện đều có lời bình, trừ truyện Kim Hoa thi thoại, điều này làm nổi bật sự khác biệt và sáng tạo của tác giả so với Tiễn đăng tân thoại.

Nguyễn Dữ thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật và mục đích sâu sắc của mình qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục Việc sáng tác trong bối cảnh lịch sử nhạy cảm lúc bấy giờ cho thấy sự đổi mới và tầm nhìn độc đáo của Nguyễn Dữ.

Nguyễn Dữ là một tác giả dũng cảm, thể hiện sự sáng tạo độc đáo trong tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục," nơi ông hòa quyện giữa thực tại và những câu chuyện huyền bí Mặc dù có những điểm tương đồng với "Tiễn đăng tân thoại," đặc biệt là trong truyện "Mộc miên thụ," Nguyễn Dữ không sao chép mà tích hợp nhiều yếu tố để tạo ra một câu chuyện mới mẻ Cốt truyện xoay quanh một chàng trai bị cuốn hút bởi ma nữ xinh đẹp, mặc dù bạn bè cảnh báo về mối quan hệ nguy hiểm này Khi phát hiện ra nguồn gốc thực sự của cô gái, chàng trai không thể thoát khỏi sự mê hoặc và phải chịu cái chết bi thảm Câu chuyện kết thúc với việc cả hai trở thành ma, gây rối cho dân lành, cho thấy sức mạnh của những câu chuyện huyền bí trong văn học.

Nguyễn Dữ đã tạo ra những điểm khác biệt trong tác phẩm của mình so với Mẫu đơn đăng ký của Cù Hựu, thể hiện qua việc lựa chọn nhân vật và tình tiết Trong khi Mẫu đơn đăng ký có chàng trai họ Kiều, thì trong Mộc miên thụ truyện, nhân vật chính là một người lái buôn, phản ánh tầng lớp xã hội Việt Nam thời bấy giờ Câu chuyện được phát hiện bởi ông già hàng xóm và bạn bè phường buôn Đặc điểm nhận dạng của cô gái trong truyện cũng khác biệt, với hình ảnh người hầu cầm đèn hoa mẫu đơn đi trước và cô gái xinh đẹp theo sau, trong khi một cô gái khác lại có người hầu cầm đàn cầm Sự khác biệt còn thể hiện ở nơi an nghỉ của các nhân vật, với một người con gái xuất thân danh giá được quàn trong chùa, trong khi một cô gái khác có quan tài nằm trong ngôi nhà nhỏ Nhân vật nữ trong tác phẩm của Nguyễn Dữ thường có xuất thân bình thường, không thuộc tầng lớp danh giá trong xã hội.

Truyện Tản Viên từ Phán sự lục trong Truyền kỳ mạn lục mang đậm "dáng dấp" của Tiễn đăng tân thoại, với những tình tiết và bối cảnh như tính cách con người và âm phủ có diêm vương, ma quỷ Nhân vật Từ Thức, với tính cách cương trực, ngay thẳng, không sợ hãi trước ma quỷ, có nhiều điểm tương đồng với Lệnh Hồ Soạn trong Lệnh Hồ sinh minh mộng lục Cả hai nhân vật đều không ngần ngại hành động để bảo vệ lẽ phải khi chứng kiến việc bất bình, và dù bị áp giải xuống âm phủ để Diêm vương hỏi tội, họ cuối cùng cũng được minh oan.

Tản Viên từ phán sự lục phản ánh những hình ảnh trong Vĩnh Châu dã miếu ký, nơi ngôi đền hay miếu bị kẻ xấu chiếm giữ, gây phiền phức cho dân lành Người dân trong vùng không dám đứng lên chống lại bọn chúng vì sợ tai họa Chàng trai Tất Ứng Tường đã viết tờ trạng tố cáo với hy vọng loại bỏ kẻ ác khỏi nơi đây Motip này thể hiện sự đấu tranh cho công lý và bảo vệ cộng đồng.

Tản Viên trong phán sự lục có nhiều điểm tương đồng với Vĩnh Châu dạ miếu ký, đặc biệt khi Ngô Tử Văn bị tố cáo bởi Bách hộ họ Thôi trước Diêm Vương Tử Văn đã trình bày sự việc một cách kiên quyết, không hề nhượng bộ Dù bị chỉ trích, Tử Văn vẫn khẳng định sự thật và yêu cầu Diêm Vương kiểm tra thông tin tại đền Tản Viên Cuối cùng, xác nhận từ đền Tản Viên đã chứng thực lời nói của Tử Văn Tương tự, trong câu chuyện của Tất Ứng Tường, khi bị con yêu trăn vu cáo, anh cũng đã kiên quyết trình bày sự thật và yêu cầu xác minh từ các cơ quan chức năng Kết quả là, thông tin từ phủ Hoành Sơn và Ty thành Vĩnh Châu đã khẳng định lời nói của Tất Ứng Tường, khiến con yêu trăn không còn lời biện hộ.

Ngô Tử Văn trong Tản Viên từ phán sự lục và chàng Phùng ại Dị trong Thái Hư Tư pháp truyện đều thể hiện sự chính trực và nghĩa khí, điều này đã giúp họ nhận được chức quan trọng trách lớn khi rời khỏi thế giới dương gian, như một sự báo đáp từ những thế lực chính nghĩa Nhờ vào những nhân vật này, ranh giới giữa thiện và ác được phân rõ Qua Tản Viên từ phán sự lục, ta có thể nhận thấy bóng dáng của nhiều tác phẩm khác trong Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu như Lệnh Hồ sinh minh mộng lục, Vĩnh Châu dã miếu ký, và Thái Hư Tư pháp truyện.

Nhân vật nữ luôn là tâm điểm trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, nơi có đến 11 trên 20 truyện xoay quanh họ Nhiều nhân vật nữ trong các truyện của Nguyễn Dữ mang nét tương đồng với các nhân vật trong Tiễn đăng tân thoại, như nàng Túy Tiêu và La Ái Ái, đều là những ca kỹ tài sắc vẹn toàn Tuy nhiên, diễn biến câu chuyện của Túy Tiêu lại hoàn toàn khác với Ái Khanh, mặc dù cốt truyện của Ái Khanh lại tương đồng với Lệ Nương, khi cả hai đều là những liệt nữ thề thủy chung và chọn cái chết để giữ lòng trung thành với chồng Sự kết hợp này cho thấy sự phong phú và đa dạng trong việc xây dựng nhân vật nữ của Nguyễn Dữ.

Nàng Ái Khanh xuất hiện trong nhiều tác phẩm như Lệ Nương, Khoái Châu nghĩa phụ và Túy Tiêu, thể hiện hình ảnh tài sắc và khả năng làm thơ nổi bật nhất qua nhân vật Túy Tiêu Nàng cũng thể hiện lòng hiếu thuận với mẹ chồng, chăm sóc tận tình khi mẹ chồng ốm đau và chồng vắng nhà, đồng thời quản lý mọi việc trong gia đình một cách chu toàn qua hình ảnh của nàng Vũ.

Thị Thiết và nàng Ái Khanh trung liệt thể hiện lòng thủy chung với chồng, sẵn sàng chọn cái chết để bảo vệ sự tiết hạnh khi rơi vào tay kẻ khác Hình ảnh này được khắc họa rõ nét qua những chi tiết tự sự và miêu tả của hai tác giả, đặc biệt là ở nhân vật Lệ Nương.

Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục

Truyền kỳ mạn lục, qua những yếu tố kỳ ảo và lối kể chuyện sinh động, phản ánh nỗi uất ức của kẻ sĩ trong bối cảnh xã hội đầy biến động Mặc dù Nguyễn Dữ viết những điều vượt ra ngoài khuôn khổ Nho giáo, ông vẫn không thể thoát khỏi bản sắc của một nho sĩ Tác phẩm không chỉ mang tính giải trí mà còn thể hiện lo lắng về tình hình xã hội, với những nhũng nhiễu, loạn lạc trong nước và mối đe dọa xâm lăng từ nhà Minh.

Truyền kỳ mạn lục phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh loạn lạc, tham nhũng và sự thoái hóa đạo đức Bắt đầu từ cuối thời nhà Trần, đất nước bước vào giai đoạn nhiều biến động, đặc biệt là vào năm 1400.

Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và tự lập làm vua, dẫn đến việc tông thất nhà Trần phải xin nhà Minh mang quân sang đánh Nhà Minh đã biến An Nam thành huyện lị của Trung Quốc, gây ra sự phản kháng mạnh mẽ từ nhân dân An Nam, ủng hộ con cháu nhà Trần Mặc dù phong trào khởi nghĩa diễn ra nhưng không đạt nhiều thành công, Lê Lợi đã tập hợp quân lính đánh đuổi giặc Minh và lập nên nhà Hậu Lê Tuy nhiên, đến năm 1527, Mạc ăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dẫn đến tình trạng chia cắt, chiến tranh liên miên và nhân dân lâm vào cảnh khổ cực Nguyễn Dữ, sinh ra trong thời kỳ loạn lạc, đã chứng kiến nỗi đau của dân chúng và bày tỏ tâm tư qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục Tác phẩm phản ánh thực trạng xã hội rối ren, chiến tranh, tham nhũng và bi kịch tình yêu, gia đình, với những câu chuyện như Nam Xương nữ tử lục, Khoái Châu nghĩa phụ truyện, và Lệ Nương truyện, thể hiện sự bất bình và nỗi khổ của con người trong thời kỳ này.

Trong bối cảnh xã hội hỗn loạn, ngay cả những nơi thờ phụng như cửa Phật cũng không còn giữ được sự tôn nghiêm Thần quyền bị mua chuộc, tượng Phật bị đánh cắp từ tay người dân, làm mất đi thể thống và phép tắc vốn có, như đã được ghi chép trong các tác phẩm như Đông Triều phế tự truyện và Tản Viên phán sự lục.

Nguyễn Dữ đã thể hiện sâu sắc nỗi chán chường với xã hội qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục Nhân vật lão tiều phu Na Sơn sống cuộc đời thanh bình giữa núi rừng, xa lánh những rối ren của thế sự Khi quan hầu Trương công mời ông làm việc, tiều phu đã từ chối và chỉ trích vua hiện tại vì sự dối trá và tham lam, chỉ chăm chăm vào việc xây dựng cung Kim Âu và mở phố Hoa Nhai, trong khi lòng dân thì bất an Ông chỉ ra rằng tình hình đất nước đã tồi tệ đến mức mất đất Cổ Lâu, và những kẻ trong triều đình chỉ biết theo đuổi lợi ích cá nhân.

Cử tuy đông nhưng thiếu năng động; Hoàng Hối Khanh có học thức nhưng không rõ ràng; Lê Cảnh có tài mưu lược nhưng thiếu quyết đoán; Lưu Thúc Kiệm là quân tử nhưng chưa đạt đến bậc nhân Ngoài ra, những kẻ tham lam tiền bạc hay nghiện rượu, chỉ tìm kiếm niềm vui mà không có kế hoạch sâu sắc để chăm lo cho dân Hiện tại, họ đang ẩn mình trong núi rừng, không thể trốn tránh mãi và không thể tiếp tục lội ngược dòng Tôi không cố chấp, chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đắm chìm trong triều đình, làm rối ren và còn muốn kéo người khác vào sự hỗn loạn của mình.

Nguyễn Dữ thể hiện tâm tư của mình qua lời nói của người tiều phu, với những cảm xúc mạnh mẽ như căm phẫn, trách móc và mỉa mai Dù thực tế chính trị không trực tiếp ảnh hưởng đến ông, nhưng ông luôn nắm bắt rõ tình hình diễn ra xung quanh Người tiều phu không chỉ hiểu rõ từng cá nhân trong bộ máy thối nát mà còn quyết tâm không bước vào để tránh trở nên nhơ nhuốc như họ.

Trong xã hội hiện thực, hình ảnh vua và thần không còn rõ ràng, điều này được thể hiện qua truyện "Đà Giang dạ ẩm ký" qua cuộc đối thoại giữa hai con cáo và khỉ giả dạng người cùng Hồ Quý Ly Các quân thần chỉ mải mê với ăn chơi, nhảy múa và săn bắn, hoàn toàn lơ là với những vấn đề chính trị quan trọng.

Trong mùa hè, việc gây khổ cho dân là không đúng thời điểm, và việc săn bắn trên ruộng lúa chỉ thỏa mãn sở thích cá nhân mà thôi Ngay cả hồ ly cũng hiểu được tình hình, nhưng quan quân lại không làm gì để giảm bớt nỗi khổ cho nhân dân và muôn loài Họ chỉ mải mê tìm kiếm một con hồ ly tinh ngàn năm, trong khi mối họa xung quanh vẫn chưa được giải quyết Những mối đe dọa như Bồng Nga và Lý Anh vẫn hoành hành, nhưng thay vì đối phó với chúng, các quan lại chỉ lo ăn chơi và thỏa mãn thú vui cá nhân, bỏ mặc sự khổ cực của nhân dân Nguyễn Dữ đã viết những dòng này với giọng điệu châm biếm, thể hiện sự phẫn nộ trước bất công xã hội.

Thế giới thực tại đã thối nát, và ngay cả trong thế giới thần linh cũng không có gì tốt đẹp hơn Sự tôn nghiêm và nét đẹp tôn giáo đã bị xã hội tác động, khiến dân nghèo không còn gì để cúng dường, dẫn đến việc Phật và hộ pháp phải đi ăn trộm Sự chèn ép và dọa nạt đã khiến cho tên Bách Hộ họ Thôi cướp ngôi đền của thần thổ địa mà không ai dám lên tiếng, khiến dân chúng phẫn uất Thần phật cũng tham lam mà bỏ qua sự thật, không còn công minh, để cho thế lực xấu hoành hành Cuộc sống trở nên đảo điên, không còn phân biệt được đúng sai, thật giả Trong bối cảnh tăm tối ấy, truyền kỳ mạn lục phản ánh sự khổ đau của dân chúng, nhưng cũng mang đến hy vọng qua những yếu tố kỳ ảo Nhân vật như Vũ Thị Thiết được thần tiên giúp đỡ để giải oan, hay Phạm Tử được thầy hướng dẫn, tạo nên những câu chuyện đầy ý nghĩa giữa thực tại u ám.

Trong Truyền kỳ mạn lục, những mặt trái của xã hội được tái hiện qua các nghi lễ thờ cúng, phản ánh sự tích hợp tín ngưỡng và tôn giáo trong đời sống tâm linh của người Việt Văn hóa thờ cúng gắn liền với các địa danh như chùa, đền, phủ, nhưng cũng bộc lộ những khía cạnh "nhem nhuốc" mà thường bị che giấu Nhân vật Ngô Tử Văn và tướng hộ pháp thể hiện sự vi phạm quy tắc thờ cúng, như việc đốt đền và ăn vụng, cho thấy sự mâu thuẫn trong tín ngưỡng Bên cạnh đó, sư Vô Kỷ trong Đào Thị nghiệp oan ký cũng đi ngược lại với đạo đức của người tu hành, mang dục vọng vào chốn cửa Phật Bức tranh tín ngưỡng thờ cúng này không chỉ là sự phản ánh chân thực mà còn là mặt trái của xã hội, điều mà trong một thời kỳ văn hóa, việc phô bày những điều tối kỵ này không hề dễ dàng Chùa chiền, miếu mạo, mặc định là nơi linh thiêng, tôn nghiêm, nhưng lại chứa đựng những thực tế phức tạp.

Trong "Truyền kỳ mạn lục", hình ảnh Phật ra khỏi chùa cũ nát vào ban đêm để ăn trộm đồ ăn của dân gây ra sự phẫn nộ trong cộng đồng Điều này dẫn đến việc người dân tìm mọi cách để bắt giữ "kẻ ăn trộm" Những vị Thần, Phật - vốn được tôn kính và thờ phụng - lại trở thành đối tượng bị chỉ trích trong tác phẩm này.

Trong xã hội, "nhân vật phản diện" thể hiện qua những hành vi xấu xa và đáng lên án Từ tác phẩm Tản Viên phán sự lục, việc hối lộ và bao che nơi thánh thần phản ánh thực trạng xã hội, khi viên quan phương Bắc chiếm đoạt ngôi đền của thần nước Việt mà không bị trừng phạt Nguyên nhân xuất phát từ sự tham nhũng của các vị thần khác, bị Bách hộ Thôi hối lộ Chỉ khi Ngô Tử Văn, một người ngay thẳng, dũng cảm đốt ngôi đền, mọi chuyện mới được giải quyết Bên cạnh đó, yếu tố dục vọng và tình yêu nam nữ trong giới tu hành cũng được thể hiện qua Đào thị nghiệp oan ký, với hình ảnh nàng Hàn Than đẹp xuất hiện nơi cửa chùa do sư cụ Pháp Vân trụ trì.

Vô Kỷ, một người tu hành, đã không thể kiềm chế bản thân trước những cám dỗ thế tục và vi phạm đạo đức của người tu Trong chốn chùa chiền, tình yêu giữa Vô Kỷ và Hàn Than đã dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng, khiến Hàn Than phải chịu cái chết khi sinh con Thực trạng này phản ánh một xã hội rối ren, nơi mà nhiều người sống không đúng chuẩn mực, gây ra những vấn đề nhức nhối như tham nhũng, hối lộ, mua quyền bán chức, và lạm dụng quyền lực để ức hiếp người khác.

Truyền kỳ mạn lục không chỉ phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội mà còn thể hiện nỗi lòng thương cảm cho những số phận bi thảm, đặc biệt là những người phụ nữ trong thời kỳ tăm tối Trong xã hội loạn lạc, đồng tiền và quyền lực được coi trọng, dẫn đến cảnh chia ly đau khổ của Dư Nhuận Chi và Túy Tiêu, khi Túy Tiêu bị cướp đi bởi tên quan Thân Những người phụ nữ như Túy Tiêu và Lệ Nương không thể quyết định số phận của mình, phải chịu đựng những bi kịch không lối thoát Họ là hình ảnh của những người con gái đẹp, hiền lành nhưng cũng có thể mạnh mẽ, đều phải chịu kết cục đau đớn trong một xã hội đầy bất công Vũ Thị Thiết, một người vợ hiếu thảo, cũng không thoát khỏi cái chết oan uổng do chiến tranh, cho thấy tác động tàn khốc của chiến tranh đến cuộc sống con người Những câu chuyện trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ phản ánh nỗi đau khổ và bi kịch của nhiều phận đời trong xã hội, nhấn mạnh sự bất lực và bi thảm của những người phụ nữ trong thời kỳ lịch sử đầy biến động này.

SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

Ngày đăng: 06/04/2022, 21:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Toan Ánh (2006), Tân truyền kỳ Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tân truyền kỳ Việt Nam
Tác giả: Toan Ánh
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2006
2. Lại Nguyên Ân chủ biên (2005), Từ điển Văn học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB ại học Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Văn học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX
Tác giả: Lại Nguyên Ân chủ biên
Nhà XB: NXB ại học Quốc gia
Năm: 2005
3. Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kỳ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện truyền kỳ Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1999
4. Nguyễn Văn Dân (2012), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp luận nghiên cứu văn học
Tác giả: Nguyễn Văn Dân
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2012
5. Trần Nghi Dung (2012), Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam
Tác giả: Trần Nghi Dung
Năm: 2012
6. oàn Thị iểm, Ngô Lập Chi – Trần Văn iáp (dịch) (2013), Truyền kỳ tân phả, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyền kỳ tân phả
Tác giả: oàn Thị iểm, Ngô Lập Chi – Trần Văn iáp (dịch)
Nhà XB: NXB TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2013
7. Trần Văn iáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn hóa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm
Tác giả: Trần Văn iáp
Nhà XB: NXB Văn hóa
Năm: 1984
8. Lê Bá Hán, Trần ình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điên thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điên thuật ngữ văn học
Tác giả: Lê Bá Hán, Trần ình Sử, Nguyễn Khắc Phi
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2010
9. ỗ Thị Hảo chủ biên (2010), Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam
Tác giả: ỗ Thị Hảo chủ biên
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
Năm: 2010
10. ỗ ức Hiểu, Nguyễn Huệ hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Văn học (bộ mới)
Tác giả: ỗ ức Hiểu, Nguyễn Huệ hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên
Nhà XB: NXB Thế giới
Năm: 2004
11. Nguyễn Ngọc Hiệp (2007), Truyện truyền kỳ Việt Nam: Sự kết hợp giữa văn hóa bác học và truyền thống dân gian, Văn hóa dân gian, (Số 2), tr.40 – 48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa dân gian
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hiệp
Năm: 2007
12. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học Trung đại, NXB ại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trên hành trình văn học Trung đại
Tác giả: Nguyễn Phạm Hùng
Nhà XB: NXB ại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2001
13. Nguyễn Phạm ùng (2006), oán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 1), tr 123 – 134 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu văn học
Tác giả: Nguyễn Phạm ùng
Năm: 2006
14. Cù Hựu - Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục
Tác giả: Cù Hựu - Nguyễn Dữ
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 1999
15. Mai Thu Huyền (2018), Cấm kỵ và vượt rào: Trường hợp Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/cam-ki-va-vuot-rao-truong-hop-truyen-ky-man-luc-cua-nguyen-du Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cấm kỵ và vượt rào: Trường hợp Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
Tác giả: Mai Thu Huyền
Năm: 2018
16. Jean Karel, Phan Minh Châu (dịch) (2010), Truyện kỳ ảo, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện kỳ ảo
Tác giả: Jean Karel, Phan Minh Châu (dịch)
Nhà XB: NXB TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2010
17. S Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn Quang Ân (1995), Kho Tàng truyện truyền Kỳ Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kho Tàng truyện truyền Kỳ Việt Nam
Tác giả: S Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn Quang Ân
Nhà XB: NXB Văn hóa - Thông tin
Năm: 1995
18. inh Thị Khang (2007), So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 4), tr. 62 – 72 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu văn học
Tác giả: inh Thị Khang
Năm: 2007
19. Nguyễn Thị Diệu Linh (2017), Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ Đông Á, NXB Văn hóa Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ Đông Á
Tác giả: Nguyễn Thị Diệu Linh
Nhà XB: NXB Văn hóa Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2017
20. Nguyễn Thị Mai Liên (2014), Mộng - ảo và khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong Tiễn đăng tân thoại, Kim ngao tân thoại, Truyền kỳ mạn lục và Vũ nguyệt vật ngữ, Nghiên cứu Đông Bắc Á, (Số 1) (155), tr. 32 – 42 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu Đông Bắc Á
Tác giả: Nguyễn Thị Mai Liên
Năm: 2014

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w