Lý do ch ọn đề tài
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp ở các nước như Nhật Bản, Đức và Việt Nam Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hiện nay, các quốc gia đều chú trọng hỗ trợ DNNVV để tối đa hóa nguồn lực và nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm Tại Việt Nam, DNNVV không chỉ chiếm 97% tổng số doanh nghiệp mà còn có tỷ lệ tăng trưởng mới bình quân 22%/năm, với 15% ở các tỉnh khó khăn Sự phát triển của DNNVV góp phần tạo ra nhiều việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và đóng góp hơn 40% GDP cùng khoảng 17,64% tổng thu ngân sách từ doanh nghiệp, duy trì đà tăng trưởng kinh tế bền vững.
Việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một xu thế tất yếu đối với Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược lâu dài nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cải thiện môi trường kinh doanh là một biện pháp hiệu quả mà Nhà nước áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp (DN) và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia Tuy nhiên, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2013, Việt Nam chỉ xếp hạng 99 trên 185 quốc gia, cho thấy vị trí khá thấp Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến xếp hạng này là chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế, với tổng thời gian tuân thủ luật thuế lên đến 872 giờ Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của DN, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), khi nhiều chủ DN phải kiêm nhiệm công việc kê khai thuế.
Nghiên cứu và hoàn thiện chính sách thuế có vai trò quan trọng trong việc giảm gánh nặng chi phí sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Điều này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, kinh doanh của các DNNVV trên địa bàn TPHCM” cho luận văn nghiên cứu của mình.
CPTTT là một vấn đề phức tạp, bao gồm cả chi phí hối lộ cho nhân viên thuế và những chi phí tâm lý như lo lắng hay bực mình mà người nộp thuế phải gánh chịu Những chi phí này khó thu thập dữ liệu, nhưng việc nghiên cứu CPTTT là cần thiết để tìm ra giải pháp cắt giảm các chi phí có thể kiểm soát Do đó, tác giả sẽ tập trung vào nghiên cứu các chi phí bằng tiền và thời gian để hỗ trợ việc tuân thủ thuế hiệu quả hơn.
M ục tiêu nghiên cứu
M ục tiêu chung
Phân tích chi phí sản xuất, tiêu thụ và tiếp thị (CPTTT) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại TPHCM là cần thiết để hiểu rõ hơn về những thách thức mà họ đang đối mặt Qua đó, cần đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm giảm bớt gánh nặng về CPTTT cho các DNNVV, từ đó giúp họ nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trong thị trường.
M ục tiêu cụ thể
Đánh giá thực trạng chuyển đổi số (CPTTT) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại TPHCM cho thấy sự cần thiết phải cải thiện hiệu quả của các quy định thuế do Nhà nước ban hành Công tác quản lý thuế áp dụng cho DNNVV cũng cần được tối ưu hóa nhằm giảm bớt gánh nặng về CPTTT, từ đó hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển bền vững hơn trong môi trường kinh doanh hiện đại.
Từ kết quả nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm giảm gánh nặng về CPTTT cho các DNNVV trên địa bàn TPHCM.
Câu h ỏi nghiên cứu
Đề tài ‘‘ Các nhân t ố ảnh hưởng đến CPTTT của các DNNVV trên địa bàn
TPHCM” được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn với các câu hỏi nghiên cứu như sau:
Những yếu tố nào cấu thành và ảnh hưởng đến CPTTT?
Thực trạng chính sách thuế hiện nay ở Việt Nam hỗ trợ DNNVV giảm gánh nặng về CPTTT như thế nào?
Cần có những giải pháp gì để hoàn thiện chính sách thuế góp phần giảm gánh nặng về CPTTT cho các DNNVV trong thời gian sắp tới?
Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua việc phân tích tài liệu và văn bản quy phạm pháp luật về thuế, cùng với việc tham khảo ý kiến từ các chuyên gia kế toán thuế Mục tiêu là xây dựng bảng câu hỏi để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí tuân thủ thuế (CPTTT) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại TPHCM Sau khi phân tích dữ liệu thực trạng, nghiên cứu định lượng được tiến hành để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến CPTTT Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm giảm gánh nặng CPTTT cho các DNNVV trên địa bàn TPHCM.
- Thực hiện nghiên cứu định lượng (bằng phần mềm SPSS 20.0) gồm:
+ Xác định tổng thể mẫu và mẫu nghiên cứu
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, dữ liệu được thu thập thông qua việc hoàn thiện và phát phiếu điều tra, cũng như thu thập thông tin từ các phiếu điều tra đã được phát.
+ Phân tích hồi quy để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến CPTTT của các DNNVV trên địa bàn TPHCM
+ Kiểm định các giả thuyết và độ phù hợp của mô hình.
Ý nghĩa của đề tài
- Về mặt lý thuyết: Hệ thống hóa các nghiên cứu có liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến CPTTT của các DNNVV trên địa bàn TPHCM
Thông qua việc xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với chi phí sản xuất, bài viết nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi phí sản xuất tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên địa bàn TPHCM.
K ết cấu của đề tài nghiên cứu
Luận văn bao gồm 5 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Cơ sở lý luận
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu
- Chương 5: Kiến nghị và các giải pháp
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Các nghiên c ứu nước ngoài
CPTTT được cho là một “chi phí ẩn” của việc đánh thuế cho đến khi Haig
Cedric Sandford được coi là cha đẻ của các nghiên cứu về chi phí tuân thủ thuế (CPTTT) hiện đại, với các nghiên cứu chi tiết đầu tiên về chi phí tuân thủ thuế GTGT được thực hiện vào năm 1981 (Sandford và cộng sự) Ông cũng đã có nhiều tác phẩm khác liên quan đến chủ đề này, bao gồm các nghiên cứu vào năm 1973 và 1994.
Năm 1973, Sandford mô tả CPTTT là “chi phí ẩn của thuế”, từ đó chủ đề này đã thu hút nhiều nghiên cứu Tính đến nay, đã có hơn 100 nghiên cứu về CPTTT hoặc chi phí hành chính được công bố, bắt đầu từ nghiên cứu đầu tiên của Haig vào năm 1935 tại Hoa Kỳ, với hơn 60 nghiên cứu được thực hiện chỉ trong khoảng thời gian gần đây.
Nghiên cứu hiện nay được thực hiện tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi và các nước đang phát triển, áp dụng hầu hết các phương pháp nghiên cứu hiện có và bao quát toàn bộ các loại thuế cũng như các vấn đề liên quan đến thuế.
Theo Evans (2003), mặc dù mục đích nghiên cứu khác nhau, thành phần của
CPTTT được phân tích từ nhiều góc độ và bởi nhiều tác giả khác nhau, nhưng đều rút ra những kết luận chung: (1) CPTTT mang ý nghĩa thống kê và có tính lũy thoái, đặc biệt gây gánh nặng cho các DNNVV; (2) CPTTT có tính hồi quy, phụ thuộc vào từng sắc thuế và quy mô doanh nghiệp khác nhau; (3) CPTTT không phải lúc nào cũng giảm.
According to Chris Evans (2006), numerous studies have been conducted globally, including in the United States and Canada (Vaillancourt, 1989; Blumenthal and Slemrod, 1992), as well as in the United Kingdom (Sandford, Godwin, and Hardwick, 1989; Collard, Green, Godwin, and Maskell) These research efforts highlight the significance of understanding tax compliance and its implications across different regions.
Research on tax compliance has been conducted across various countries, including studies by Hasseldine and Hansford (1998) in the UK, Allers (1994) in the Netherlands, and Diaz and Delgado (1995) in Spain In Australia, multiple researchers such as Pope, Fayle, and Duncanson (1990), along with others from 1991 to 1997, have contributed significant findings New Zealand's tax compliance was examined by Sandford and Hasseldine (1992) and Prebble (1995), while Ariff, Loh, and Talib (1995) conducted research in Singapore Additionally, studies in Malaysia by Loh et al (1997) and in Hong Kong by Chan et al (1999) further enrich the understanding of tax compliance issues globally.
Nội dung các vấn đề nghiên cứu tập trung đến:
CPTTT liên quan đến nhiều loại sắc thuế, bao gồm thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế xăng dầu và thuế cầu đường Đối tượng khảo sát chủ yếu là các doanh nghiệp, nhưng cũng có một số nghiên cứu tập trung vào người nộp thuế cá nhân, bao gồm nhân viên và người về hưu.
- Các nghiên cứu chia mục tiêu hướng tới các DN nhỏ hoặc các DN lớn, nhưng không phân chia các ngành nghề khác nhau
Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào chi phí phát sinh từ doanh nghiệp, nhưng một số nghiên cứu cũng xem xét quan điểm của các chuyên gia Đặc biệt, chi phí thuê chuyên gia được coi là một trong những yếu tố quan trọng trong chi phí sản xuất và thương mại.
Gần đây, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh chi phí tuân thủ thuế tại các quốc gia khác nhau Một số nghiên cứu nổi bật bao gồm nghiên cứu của Bannock và Albach (1989), trong đó so sánh chi phí tuân thủ thuế GTGT giữa Đức và Anh, cùng với khảo sát của Cordova-Novion và De Young (2001) được thực hiện ở 11 quốc gia cho tổ chức OECD Tuy nhiên, nghiên cứu của Sandford cũng đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này.
(1995) xác định một số lý do việc so sánh này làm lạc hướng hơn là sáng tỏ vấn đề
Nghiên cứu của Eichfelder và Kegels (2012) chỉ ra rằng chi phí tuân thủ pháp luật thuế (CPTTT) không chỉ bị ảnh hưởng bởi các quy định pháp luật thuế mà còn bởi cách thức quản lý thuế của cơ quan thuế (CQT) Theo tính toán của các tác giả, việc quản lý thuế không thân thiện có thể làm tăng CPTTT trung bình của doanh nghiệp lên khoảng 25%.
Các nghiên c ứu trong nước
Mặc dù chi phí thời gian và chi phí bằng tiền đều là thành phần của CPTTT, nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam chủ yếu chỉ tập trung vào hao phí thời gian, trong khi các công bố về chi phí tiền tệ vẫn còn hạn chế Hơn nữa, các nghiên cứu về hao phí thời gian lại cho ra những kết quả khác nhau, cho thấy sự thiếu đồng nhất trong các nghiên cứu hiện có.
Theo tổ chức Ngân hàng Thế giới (2008), các số liệu nghiên cứu cho thấy thời gian hao phí cho mục đích thuế tại Việt Nam là rất đáng kể.
Báo cáo đánh giá môi trường đầu tư của Ngân hàng Thế giới năm 2005 đã khảo sát các công ty sản xuất tại 25 tỉnh thành Việt Nam, tập trung vào việc đánh giá môi trường đầu tư tổng thể hơn là gánh nặng thuế Trong cuộc khảo sát, có đề cập đến thời gian xử lý kiểm tra thuế, cho thấy trung bình các công ty phải trải qua 2,5 lần kiểm tra mỗi năm, mỗi lần kéo dài khoảng 9,5 giờ, tổng cộng khoảng 24 giờ làm việc cho các công việc liên quan đến thuế Tuy nhiên, kiểm tra thuế chỉ là một phần trong chi phí tuân thủ tổng thể, dẫn đến việc báo cáo chỉ đưa ra ước lượng thấp hơn so với chi phí thực tế mà các công ty phải chịu để tuân thủ các quy định thuế.
Báo cáo Doing Business của Ngân hàng Thế giới nhằm định lượng các khía cạnh của môi trường kinh doanh ở các quốc gia, trong đó có chi phí tuân thủ thuế (CPTTT) Đối với Việt Nam, báo cáo dựa trên đánh giá chuyên gia về một doanh nghiệp giả định có 60 nhân viên và doanh thu 0,7 triệu USD/năm Từ năm 2005 đến 2007, doanh nghiệp này cần 1.055 giờ/năm để hoàn thành các nghĩa vụ liên quan đến thuế TNDN, GTGT, TNCN, và các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp Báo cáo cũng tính đến thời gian chuẩn bị hồ sơ khai thuế và công việc sổ sách kế toán, mặc dù sổ sách kế toán là bắt buộc dù không có nghĩa vụ nộp thuế Cần lưu ý rằng chỉ một số ít doanh nghiệp nộp thuế TNCN tại Việt Nam và ước tính rằng khai thuế qua mạng chưa được áp dụng, dẫn đến khả năng báo cáo này ước lượng quá mức chi phí tuân thủ thực tế.
Báo cáo của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương về “Chi phí tuân thủ thủ tục thuế ở Việt Nam” cho thấy, năm 2007, thời gian trung bình để tuân thủ quy định thuế là 1.959 giờ, chủ yếu do thuế GTGT chiếm 1.733 giờ, trong đó riêng việc lập hồ sơ đã mất 1.680 giờ Doanh nghiệp cũng phải dành 728 giờ/năm cho nghĩa vụ nộp thuế TNDN Tuy nhiên, báo cáo không phân biệt chi phí một lần để có mã số thuế và chi phí thường xuyên liên quan đến hoạt động nộp thuế Phân tích cho thấy ước lượng thời gian thanh tra cao gấp 4 lần so với đánh giá môi trường đầu tư, và chi phí xử lý thuế cao hơn 2 lần so với báo cáo kinh doanh, đặc biệt chi phí thuế GTGT cao hơn khoảng 30 lần Điều này cho thấy Viện đã ước lượng chi phí tuân thủ thuế cao hơn thực tế Ngân hàng thế giới liên tục xếp Việt Nam trong top 10 quốc gia tốn nhiều thời gian nhất trong quá trình nộp thuế, dẫn đến xếp hạng thấp trong báo cáo môi trường kinh doanh về chỉ tiêu “nộp thuế”.
Bảng 1.1 Thống kê xếp hạng về thuế của Việt Nam
Nguồn: tác giả tổng hợp từ trang web http://www.doingbusiness.org
Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, vào năm 2010, mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải mất hơn 1.000 giờ chỉ để nộp thuế, nhưng đến năm 2015, thời gian này đã giảm xuống còn hơn 870 giờ Sự cải thiện này cho thấy Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách thủ tục hành chính thuế trong những năm qua, mang lại hiệu quả tích cực và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho môi trường kinh doanh.
Bảng 1.2 So sánh chi phí tuân thủ thuế của Việt Nam với các nước (năm 2015)
Chỉ số Việt Nam Đông Á – Thái
Bình quân chung toàn thế giới
So với các quốc gia trên thế giới, kết quả về thời gian doanh nghiệp phải dành cho việc đóng thuế tại Việt Nam chưa thực sự thuyết phục Cụ thể, trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trung bình mỗi doanh nghiệp chỉ mất hơn 200 giờ mỗi năm cho việc này, trong khi ở các nước OECD con số là 186 giờ Điều này cho thấy mặc dù Việt Nam đã nỗ lực cải cách, nhưng tác động đến môi trường kinh doanh vẫn chưa mạnh mẽ Các quốc gia khác đã thực hiện nhiều chương trình cải cách tích cực trên nhiều lĩnh vực để tạo thuận lợi hơn cho môi trường kinh doanh Do đó, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để cải thiện tình hình.
Bảng 1.3 So sánh chi phí tuân thủ thuế của Việt Nam với các nước ASEAN
Nước Số giờ nộp thuế
Nguồn: tác giả tổng hợp từ trang web http://www.doingbusiness.org
Theo báo cáo môi trường Kinh doanh 2015, chỉ số thuận lợi về thuế của Việt Nam xếp thứ 173/189 nền kinh tế toàn cầu, đứng cuối trong khu vực Một doanh nghiệp quy mô trung bình tại Việt Nam phải nộp thuế 32 lần mỗi năm, với thời gian chuẩn bị hồ sơ và nộp tờ khai lên đến 872 giờ, cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu, đặc biệt là về chi phí thời gian cho thủ tục hành chính thuế.
Chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế ở Việt Nam đứng trong nhóm cao nhất thế giới, đặc biệt là về thời gian thực hiện Do quy định phức tạp, doanh nghiệp phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị tài liệu và hồ sơ Nhiều chính sách thuế còn bất cập và không rõ ràng, dẫn đến sự khác biệt so với quy định kế toán Tờ khai thuế có nhiều mẫu biểu và bảng kê, cùng với việc trùng lặp không cần thiết trong hồ sơ, làm tăng khối lượng công việc và thời gian cho doanh nghiệp.
Năm 2016, Ngân hàng Thế giới ghi nhận Việt Nam đã có những tiến bộ trong cải cách thủ tục hành chính thuế, đặc biệt là cho phép doanh nghiệp trong nước tự in hóa đơn thuế GTGT Tuy nhiên, cải cách vẫn chưa đủ mạnh so với các quốc gia khác, khiến hệ thống thuế của Việt Nam xếp hạng thấp (168/189 quốc gia) Nguyên nhân chủ yếu là do số lần nộp thuế vẫn cao (30 lần/năm) và thời gian thực hiện thủ tục thuế lớn (770 giờ/năm), trong khi Singapore chỉ yêu cầu 6 lần nộp thuế và 83,5 giờ/năm.
Các nh ận xét
Kết quả từ các nghiên cứu trước đây cho thấy, nghiên cứu về CPTTT đã được thực hiện rộng rãi trên toàn cầu và tại Việt Nam, cung cấp nền tảng lý thuyết tham khảo quan trọng cho các nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu nước ngoài cho thấy sự khác biệt trong tình hình kinh tế - xã hội có thể ảnh hưởng đến cách phân tích các thành phần của chi phí tuân thủ thuế (CPTTT), dẫn đến mức độ đo lường CPTTT không đồng nhất Tại Việt Nam, số lượng nghiên cứu về CPTTT còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào thời gian tuân thủ thuế, trong khi các công bố đầy đủ bao gồm cả chi phí bằng tiền rất hiếm.
Nghiên cứu về chi phí phát sinh từ thời gian và tiền bạc trong CPTTT tại Việt Nam đang còn nhiều khoảng trống, cho thấy đây là một vấn đề mới cần được khai thác Đề tài nghiên cứu từ góc độ doanh nghiệp nhằm tìm ra các giải pháp hỗ trợ giảm bớt gánh nặng về CPTTT Đồng thời, chính phủ và các cơ quan thuế có thể xem xét hoàn thiện và sửa đổi chính sách thuế cũng như cải cách thủ tục hành chính thuế, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Kết luận chương 1 cho thấy rằng nhiều nghiên cứu về CPTTT và chính sách thuế đã cung cấp những khái niệm, thành phần và nhân tố ảnh hưởng đến CPTTT Những kết quả này là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CPTTT của DNNVV Dựa trên đánh giá các nghiên cứu trước và những vấn đề chưa được giải quyết, đề tài đã xác định mục tiêu và phương pháp nghiên cứu phù hợp để trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
T ổng quan về chi phí tuân thủ thuế
2.1.1 Khái niệm về chi phí tuân thủ thuế
Trên thế giới, có khá nhiều khái niệm về CPTTT, trong đó có một số khái niệm phải kể tới như sau:
Theo Slemrod và Sorum (1984), khái niệm chi phí tuân thủ thuế (CPTTT) bao gồm tất cả các chi phí mà người nộp thuế (NNT) hoặc bên thứ ba phải gánh chịu để tuân thủ các yêu cầu của hệ thống thuế, bên cạnh khoản tiền thuế phải nộp.
Theo Sandford, Godwin và Hardwick (1989), Chi phí tuân thủ pháp luật thuế (CPTTT) xuất hiện từ khu vực công và sẽ không tồn tại nếu không có thuế Họ định nghĩa CPTTT là những chi phí mà người nộp thuế hoặc các bên thứ ba, như doanh nghiệp, phải chi trả để đáp ứng các yêu cầu của luật thuế và các quy định liên quan.
Theo Sandford (1995), CPTTT là các chi phí mà người nộp thuế phải chịu để đáp ứng yêu cầu của luật thuế và cơ quan thuế Những chi phí này không chỉ bao gồm số tiền thuế phải nộp mà còn phản ánh những biến dạng vốn có trong bản chất của thuế.
Evans (2003), Hệ thống thuế hiện đại có khả năng áp đặt một gánh nặng lên
NNT, đặc biệt là NNT kinh doanh nhỏ, phải đối mặt với ba yếu tố gánh nặng thuế Thứ nhất là bản thân các loại thuế, bao gồm thuế lợi nhuận, thuế sản phẩm và thuế thu nhập Thứ hai là chi phí hiệu quả liên quan đến biến dạng thị trường do thuế gây ra Cuối cùng, yếu tố thứ ba là chi phí vận hành của hệ thống thuế, bao gồm chi phí quản lý và thu thuế của chính phủ, mà cuối cùng cũng sẽ được NNT gánh chịu.
NNT dùng cho việc tuân thủ thuế (hoặc đôi khi không tuân thủ) (thường được gọi là
Theo Chris Evans (2006), mặc dù việc xác định chi phí trong tính toán CPTTT vẫn còn gây tranh cãi, nhưng có thể xác định những chi phí cốt lõi không thể phủ nhận để đáp ứng yêu cầu thuế.
Chi phí lao động và thời gian cần thiết để hoàn thành các hoạt động liên quan đến thuế là rất quan trọng Điều này bao gồm thời gian mà nhân viên cần để nắm vững các quy định thuế như thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và thuế giá trị gia tăng (GTGT) Ngoài ra, việc thu thập chứng từ và ghi chép số liệu cũng tốn thời gian, góp phần vào quy trình hoàn thuế hiệu quả.
Chi phí thuê chuyên gia bên ngoài để hỗ trợ các hoạt động liên quan đến thuế, chẳng hạn như phí dịch vụ của chuyên gia tư vấn thuế, là một khoản đầu tư quan trọng giúp doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và tối ưu hóa nghĩa vụ thuế.
- Những chi phí không thường xuyên phát sinh trong khi hoàn thành các hoạt động về thuế, bao gồm phần mềm máy tính, cước bưu điện, phí đi lại
Ngoài các chi phí chính, cần lưu ý đến chi phí tâm lý do hệ thống thuế gây ra, khi người nộp thuế (NNT) thường phải đối mặt với áp lực, lo lắng và thất vọng trong quá trình tuân thủ các quy định thuế Những chi phí tâm lý này khó có thể đo lường chính xác, dẫn đến việc một số chi phí xã hội khác cũng thường bị bỏ qua trong các nghiên cứu liên quan.
CPTTT là những chi phí mà người nộp thuế (NNT), bao gồm cá nhân và doanh nghiệp, phải gánh chịu khi tuân thủ các quy định của luật thuế Chi phí này bao gồm cả thời gian và tiền bạc, như chi phí thuê nhân viên kế toán, chuyên gia tư vấn, tiền phạt khi vi phạm quy định, và chi phí tìm hiểu pháp luật thuế Thời gian tiêu tốn có thể kể đến việc hoàn thành báo cáo, tìm hiểu luật thuế, và nộp hồ sơ thuế Ngoài ra, NNT còn phải đối mặt với chi phí tâm lý do lo lắng và căng thẳng khi tuân thủ luật thuế.
2.1.2 Nội dung của chi phí tuân thủ thuế
2.1.2.1 Chi phí tuân thủ gộp và chi phí tuân thủ ròng Đầu tiên, chúng ta cần phân biệt chi phí tuân thủ gộp (hoặc chi phí tuân thủ xã hội) và chi phí tuân thủ ròng (hoặc chi phí tuân thủ của NNT) Theo Chris Evans
Chi phí tuân thủ gộp, hay còn gọi là chi phí tuân thủ xã hội, là những chi phí phát sinh trong nền kinh tế và thường được Bộ Tài chính cùng các nhà kinh tế quan tâm Trong khi đó, chi phí tuân thủ ròng, hay chi phí tuân thủ của người nộp thuế (NNT), là những chi phí trực tiếp mà NNT phải gánh chịu, được chú ý nhiều hơn bởi các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài và cơ quan thuế.
Theo Sandford (1989), chi phí tuân thủ ròng được xác định bằng chi phí tuân thủ gộp trừ đi lợi ích từ việc tuân thủ thuế Lợi ích chính của việc tuân thủ thuế là dòng tiền mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong một khoảng thời gian trước khi nộp thuế cho Nhà nước.
(1) Chi phí tuân thủ ròng = Chi phí tuân thủ gộp - Các lợi ích dòng tiền
Theo Chris Evans, Tran-Nam và Michael Walpole (2000), nghiên cứu này mô tả các lợi ích bù đắp cho người nộp thuế (NNT) khi thực hiện hoạt động tuân thủ thuế, tuy nhiên, chưa phân biệt rõ giữa chi phí tuân thủ ròng và chi phí tuân thủ gộp Các lợi ích bù đắp bao gồm lợi ích quản lý, lợi ích dòng tiền và lợi ích từ việc được khấu trừ thuế Ba lợi ích này được giải thích chi tiết trong nghiên cứu.
Các lợi ích quản lý từ việc ghi chép sổ sách để tuân thủ luật thuế giúp doanh nghiệp cải thiện quyết định và giảm chi phí kiểm soát nội bộ, đặc biệt cho các doanh nghiệp nhỏ Mặc dù lý thuyết cho thấy sự tồn tại của những lợi ích này, việc tính toán chúng thường gặp khó khăn, dẫn đến việc chúng thường bị bỏ qua trong các nghiên cứu thực nghiệm, ngoại trừ một số nghiên cứu như Sandford et al (1981) và văn phòng kiểm toán quốc gia Anh (1994).
• Thứ hai, các lợi dòng tiền phát sinh khi:
- Thu nhập không bị tính thuế và nộp tại thời điểm nhận và NNT sử dụng tiền thuế một thời gian trước khi nộp thuế cho Nhà nước
- Luật thuế cho phép DN trì hoãn việc nộp thuế mà DN đại diện thu hộ cho nhà nước
Lợi ích dòng tiền có thể âm khi người nộp thuế (NNT) nộp nhiều hơn số tiền thuế phải nộp trong năm tài chính hoặc nộp thuế trước khi nhận được tiền Điều này dẫn đến việc lợi ích dòng tiền trở thành tổn thất cho Nhà nước, phản ánh sự chuyển đổi trong nền kinh tế Mặc dù lợi ích dòng tiền làm giảm chi phí tài chính của NNT, nhưng không ảnh hưởng đến nền kinh tế chung.
(2) Lợi ích dòng tiền của NNT = Lợi ích dòng tiền mất đi của CQT
T ổng quan về chi phí tuân thủ thuế của DNNVV
DNNVV, hay doanh nghiệp nhỏ và vừa, là những doanh nghiệp có quy mô hạn chế về vốn, lao động và doanh thu Chúng được phân loại thành ba loại dựa trên quy mô, bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ.
DN nhỏ và DN vừa Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, DN siêu nhỏ là
Doanh nghiệp (DN) được phân loại thành ba loại chính: DN siêu nhỏ có dưới 10 lao động, DN nhỏ với 10 đến dưới 200 lao động và vốn dưới 20 tỷ, và DN vừa có từ 200 đến 300 lao động với vốn từ 20 đến 100 tỷ Quan niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) khác nhau giữa các quốc gia do tiêu chí và định mức đánh giá quy mô không đồng nhất Ngay cả trong một quốc gia, các tiêu chí này có thể thay đổi theo thời gian do sự phát triển của DN và đặc điểm kinh tế Các tiêu chí phổ biến để đánh giá DNNVV bao gồm số lượng lao động bình quân hàng năm, tổng vốn đầu tư và tổng doanh thu hàng năm.
2.2.2 Đặc điểm chi phí tuân thủ thuế của DNNVV
Theo ủy ban châu Âu, về giá trị tuyệt đối, các DN lớn có CPTTT lớn hơn các
Dù quy mô nhỏ, nhưng khi so sánh gánh nặng thuế với tổng số thuế phải nộp, doanh thu, số lượng nhân viên và lợi nhuận, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phải chịu gánh nặng lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn.
Một khảo sát của ủy ban châu Âu được thực hiện vào năm 2004 đã chứng minh cho nhận định trên
Bảng 2.4 Chi phí tuân thủ thuế tại các nước thành viên EU
DNNVV Doanh nghiệp lớn Tổng chi phí tuân thủ thuế (1.000 EUR) 203 1.460
Chi phí tuân thủ thuế/số thuế phải nộp 30,9% 1,9%
Chi phí tuân thủ thuế/doanh thu 2,6% 0,02%
Nguồn: European Commission,European Tax Survey, Working paper n o 3/2004 [59]
Theo bảng thống kê, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại châu Âu có tỷ lệ tổng chi phí thuế tính toán (CPTTT) so với tổng số thuế phải nộp là 30,9%, trong khi tỷ lệ này so với doanh thu là 2,6% Đối với các doanh nghiệp lớn, tỷ lệ CPTTT so với thuế phải nộp chỉ đạt 1,9% và 0,02% so với doanh thu.
Tình hình này cũng xuất hiện ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, như được chỉ ra trong khảo sát của Klun và Blazic năm 2004 tại Slovenia và Croatia, cho thấy những kết quả tương tự.
Bảng 2.5 Tổng chi phí tuân thủ thuế/doanh thu (%) tại Slovenia và Croatia
Quy mô DN Slovenia Croatia
Nguồn: Klun và Blazic (2004),Tax Compliance Cost for Companies in Slovenia and
Có hai lý do được xác định là bất lợi đối với DNNVV về CPTTT
CPTTT thường là cố định trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như khi điền vào tờ khai, không thể cao hơn giữa các doanh nghiệp do sự khác biệt về số liệu Do đó, CPTTT trung bình trên mỗi nhân viên sẽ giảm khi quy mô doanh nghiệp gia tăng.
Các doanh nghiệp lớn thường giải quyết các vấn đề thuế một cách hiệu quả hơn so với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nhờ vào chi phí cao cho việc thuê chuyên gia thuế và đầu tư vào hệ thống quản lý Việc đầu tư vào phần mềm và các công cụ hỗ trợ giúp doanh nghiệp lớn kiểm soát tốt hơn các vấn đề liên quan đến thuế, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Kinh nghi ệm quốc tế trong việc cắt giảm chi phí tuân thủ thuế cho các
DNNVV và bài học cho Việt Nam
2.3.1 Kinh nghiệm quốc tế trong việc cắt giảm chi phí tuân thủ thuế cho các
2.3.1.1 Đơn giản hóa pháp luật về thuế
Hệ thống thuế đơn giản là một mô hình thuế với ít loại thuế và mức thuế suất thấp, hạn chế việc miễn giảm thuế Đối với các quốc gia đang phát triển, chính sách thuế đơn giản giúp dễ dàng quản lý và nâng cao mức độ tuân thủ so với hệ thống thuế phức tạp Gần đây, nhiều quốc gia đã tiến hành đơn giản hóa luật thuế bằng cách giảm thuế suất thuế GTGT và thuế TNCN, quy định ngưỡng kê khai thuế GTGT, ngưỡng doanh thu đăng ký kê khai nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, giảm tần suất kê khai nộp thuế, và xây dựng hệ thống thuế khoán.
Về việc quy định ngưỡng kê khai thuế GTGT
Hầu hết các quốc gia, bao gồm cả những nước phát triển và đang phát triển, đều có quy định ngưỡng doanh thu kê khai thuế GTGT Nhiều quốc gia trong EU, cũng như các nước ASEAN như Thái Lan, Indonesia và Philippines, đã thiết lập ngưỡng này Thêm vào đó, nhiều quốc gia ở Châu Phi cũng áp dụng quy định ngưỡng khi triển khai thuế GTGT Tuy nhiên, một số quốc gia như Chi Lê, Nigeria, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Paraguay và Nga lại không có quy định ngưỡng doanh thu này.
Mục tiêu quy định ngưỡng là giảm thiểu thủ tục không cần thiết cho doanh nghiệp nhỏ và CQT, vì số thuế thu được từ các đối tượng này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thu từ thuế GTGT, trong khi số lượng doanh nghiệp nhỏ lại rất lớn.
Bảng 2.6 Ngưỡng doanh thu kê khai thuế GTGT của một số nước
Thời gian Theo đồng bản tệ Quy ra USD (theo tỷ giá
5.000-20.000 NDT (mức cụ thể do cơ quan thuế địa phương quy định)
In the fiscal year, Thailand recorded 1.8 million Baht, equivalent to 59,100 USD, while the Philippines reported 1.9195 million Pesos, amounting to 35,900 USD over 12 months Singapore's figures stood at 1 million SGD, translating to 795,000 USD within four quarters Indonesia's financial data showed 600 million Rupiah, which is 64,000 USD for the fiscal year South Africa documented 1 million RAND, equating to 137,800 USD over 12 months, and the United Kingdom reported 73,000 Pounds, valued at 114,700 USD within the same timeframe.
Séc 1 triệu CZK 50,1 nghìn USD Trong 12 tháng
Ba Lan 150 nghìn PLN 44,2 nghìn USD Năm tài khóa
Nhật Bản 10 triệu Yên 126,1 nghìn USD Năm tài khóa
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo “The 2011 Worldwide GTGT, GST and Sales Tax Guide” của Công ty Ernst and Young và tài liệu của Ủy ban EC
Chính sách thuế đối với doanh nghiệp có doanh thu dưới ngưỡng kê khai thuế GTGT ở các quốc gia khác nhau có sự khác biệt rõ rệt Một số quốc gia, như các nước trong EU và Thái Lan, không áp dụng thêm khoản thu nào thay thế cho thuế GTGT Đặc biệt, Thái Lan còn phân loại các doanh nghiệp có doanh thu dưới ngưỡng vào nhóm không chịu thuế GTGT, tương tự như một số loại hàng hóa và dịch vụ khác.
Nhiều quốc gia quy định các doanh nghiệp nhỏ có doanh thu dưới ngưỡng kê khai phải chịu thuế trên doanh thu với mức thuế suất thấp hơn, như Đài Loan, Indonesia và Philippines, với mức thuế từ 1-4% và không được khấu trừ thuế đầu vào Tại Anh, người nộp thuế GTGT có doanh thu dưới 150 nghìn bảng có thể chọn nộp thuế theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, với tỷ lệ từ 4% đến 14,5% tùy theo ngành nghề Tương tự, Canada cho phép các doanh nghiệp có doanh thu dưới 200 nghìn CAD lựa chọn nộp thuế với mức thuế suất 3% hoặc 5%.
Về việc quy định ngưỡng doanh thu đăng ký kê khai nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
Ngưỡng đăng ký kê khai thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp áp dụng cho các doanh nghiệp (DN) vượt ngưỡng kê khai thuế GTGT DN trong ngưỡng này có thể lựa chọn nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc khấu trừ Với phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp, DN không cần căn cứ vào từng hóa đơn mà chỉ dựa vào tổng doanh thu cuối cùng, giúp giảm chi phí lưu trữ chứng từ và chi phí hoạt động Điều này cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có số thuế GTGT đầu vào lớn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào một cách thuận lợi.
Về thuế suất thuế GTGT và cơ cấu biểu thuế
Theo Ngân hàng Thế giới (2012), trong số 112 nước khảo sát, có 88 nước áp dụng mức thuế suất từ 12% đến 25%, trong đó 56 nước có mức thuế từ 17% đến 25%, và 24 nước còn lại có mức thuế phổ biến trên 10% Các nước lân cận Việt Nam như Lào, Indonesia và Campuchia thường áp dụng thuế suất 10%, trong khi Trung Quốc có mức thuế phổ thông 17% và ưu đãi 13%, và Philippines là 12% Tại Canada, không chỉ chính quyền trung ương thu thuế GTGT, mà một số bang còn thu thêm loại thuế này Hàn Quốc đã điều chỉnh tăng thuế suất GTGT từ 10% lên 10,5%, với 0,5% tăng thêm được chuyển cho địa phương Để khuyến khích sản xuất kinh doanh, một số hàng hóa và dịch vụ được hưởng mức thuế suất ưu đãi, dẫn đến sự đa dạng trong mức thuế GTGT và làm cho luật thuế trở nên phức tạp, gây ra gánh nặng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Do đó, nhiều quốc gia đã đơn giản hóa luật thuế GTGT bằng cách chỉ áp dụng một hoặc hai mức thuế suất.
Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới, hiện có khoảng 54% quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) với một mức thuế suất, không bao gồm mức thuế suất 0% cho xuất khẩu Trong khi đó, 23% quốc gia sử dụng hai mức thuế suất GTGT, và phần còn lại áp dụng nhiều hơn hai mức thuế suất.
Áp dụng một mức thuế suất duy nhất có thể giảm chi phí thuế và đơn giản hóa quản lý, trong khi nhiều mức thuế suất có thể làm tăng chi phí cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế Khoảng 23% quốc gia bên cạnh mức thuế suất phổ thông còn áp dụng mức thuế suất GTGT thấp hơn cho một số hàng hóa và dịch vụ cần khuyến khích tiêu dùng, đặc biệt là đối với nhóm hàng hóa mà người có thu nhập thấp thường chi tiêu nhiều hơn Danh mục hàng hóa và dịch vụ áp dụng mức thuế suất thấp rất khác nhau giữa các quốc gia, nhưng thường bao gồm các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, sản phẩm y tế và nông sản, những sản phẩm mà người có thu nhập thấp sử dụng nhiều.
Bảng 2.7 Mức thuế suất của một số quốc gia tại thời điểm năm 2011
Quốc gia Thuế suất phổ thông (%) Thuế suất khác (trừ mức thuế suất 0%) Các nước phát triển Úc 10 Áo 20 10/12
Cộng hòa Séc 20 10 Đan Mạch 25
Nhật Bản 5 (tăng lên 8 từ 01/4/ 2014 và
Về thuế suất thuế TNCN
Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia đã giảm thuế suất, bao gồm cả thuế suất luỹ tiến cao nhất và thuế suất thấp nhất, nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước Điều này không chỉ thu hút lao động có kỹ thuật cao từ nước ngoài mà còn góp phần phát triển kinh tế, với các ví dụ điển hình như Indonesia, Singapore, Malaysia, Ba Lan và Cộng hòa Séc.
Một số quốc gia, đặc biệt là các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, đã cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bằng cách bỏ biểu thuế suất lũy tiến và áp dụng một mức thuế suất cố định thấp Cụ thể, Nga áp dụng thuế suất 13%, Latvia 15%, Cộng hòa Séc 24%, và Bulgaria 10%.
Bảng 2.8 Một số quốc gia áp dụng một mức thuế suất thuế TNCN
Nước Mức thuế suất thuế TNCN trước cải cách (trước những năm 2002-2003)
Mức thuế suất thuế TNCN hiện nay (một mức)
Theo nghiên cứu về thuế TNCN tại 189 quốc gia, tỷ lệ các quốc gia có mức thuế suất cao nhất trên 40% đã giảm từ 32,07% trong giai đoạn 1991-1995 xuống còn 17,18% trong giai đoạn 2001-2005 Ngược lại, tỷ lệ các quốc gia có mức thuế suất cao nhất dưới 30% tăng từ 35,73% lên 48,79% Mặc dù một số quốc gia như Anh và Mexico đã điều chỉnh tăng thuế suất cao nhất để cải thiện ngân sách sau khủng hoảng, nhưng số lượng quốc gia thực hiện điều này vẫn không nhiều.
Giảm tần suất kê khai nộp thuế
Giảm tần suất kê khai nộp thuế có thể giảm bớt chi phí tuân thủ thuế (CPTTT) và tăng cường lợi ích dòng tiền cho doanh nghiệp (DN) Một số quốc gia yêu cầu các DN lớn kê khai thuế hàng tháng, trong khi doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có thể kê khai theo quý, nửa năm hoặc hàng năm Dòng tiền mà DN giữ lại được coi là hỗ trợ cho việc tuân thủ thuế Tại New Zealand, DN phải kê khai thuế hai tháng một lần, còn DNNVV có thể chọn kê khai hai lần trong năm, trùng với thời điểm nộp báo cáo kế toán Ở Hàn Quốc, DN kê khai thuế GTGT theo phương pháp giản đơn chỉ cần kê khai hai lần trong năm Tại Nhật Bản, DN trong ngưỡng kê khai thuế GTGT theo phương pháp giản đơn có thể chọn nộp thuế hàng tháng, hai tháng hoặc một quý một lần, với tờ khai thuế chỉ lập một lần vào cuối năm tài chính.
Xây dựng hệ thống thuế khoán
Xây dựng hệ thống thuế khoán đơn giản hóa là một giải pháp hiệu quả giúp giảm bớt gánh nặng chi phí thuế cho các doanh nghiệp Với phương pháp này, các doanh nghiệp nhỏ chỉ cần nộp một loại thuế khoán duy nhất, thay vì phải chịu nhiều loại thuế trực thu và gián thu khác nhau.