Phương pháp nghiên cứu
Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình
Hình 3.1 Bản đồ tỉnh Hà Giang
Nguồn: UBND huyện Vị Xuyên (2015)
Vị Xuyên là huyện vùng núi thấp của tỉnh Hà Giang có toạ độ địa lý từ
Thị trấn Vị Xuyên, trung tâm huyện lỵ, tọa lạc tại tọa độ 22°29'30" đến 23°02'30" vĩ độ Bắc và 104°23'30" đến 105°09'30" kinh độ Đông, nằm trên trục Quốc lộ 2, cách Thành phố Hà Giang 20 km về phía Nam Vị trí địa lý của thị trấn có sự giáp ranh rõ ràng với các khu vực xung quanh.
- Phía Bắc giáp Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và huyện Quản Bạ
- Phía Đông giáp huyện Bắc Mê và tỉnh Tuyên Quang
- Phía Tây giáp huyện Hoàng Su Phì
- Phía Nam giáp huyện Bắc Quang
Huyện Vị Xuyên có tổng diện tích tự nhiên 149.525 ha, bao gồm 24 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn, trong đó có 5 xã giáp với Trung Quốc: Minh Tân, Thanh Thủy, Thanh Đức, Xín Chải và Lao Chải Là huyện vùng núi thấp của tỉnh Hà Giang, Vị Xuyên có địa hình phức tạp với nhiều khe suối và độ dốc lớn, được chia thành 3 dạng địa hình chính.
- Địa hình núi cao: Có độ cao trung bình trên 1.000m bao gồm các xã như Lao Chải, Xín Chải, Thanh Đức, Thanh Thủy, Thượng Sơn, Quảng Ngần, Cao
- Địa hình núi thấp: Có độ cao từ 500 - 800m gồm các xã như Trung Thành, Bạch Ngọc, Ngọc Minh, Ngọc Linh, Minh Tân, Thuận Hòa, Việt Lâm, Linh Hồ
Khu vực địa hình thấp, nằm xen kẽ giữa các đồi núi cao với độ cao trung bình dưới 500m, bao gồm các xã Tùng Bá, Phong Quang, Kim Linh, Phú Linh, Kim Thạch, Đạo Đức, cùng với thị trấn Việt Lâm và thị trấn Vị Xuyên.
Huyện Vị Xuyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng do vị trí sâu trong lục địa nên ít bị ảnh hưởng bởi mưa bão mùa hè và gió đông bắc mùa đông so với các khu vực khác ở đồng bằng Bắc Bộ Khí hậu nơi đây chia thành hai mùa rõ rệt: mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 với gió mùa Đông Nam và Tây Nam, thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều; mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với gió bắc, thời tiết lạnh, khô và ít mưa Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,6°C, với nhiệt độ cao trung bình 27,5°C và nhiệt độ thấp trung bình 19,6°C, trong đó nhiệt độ thấp tuyệt đối có thể xuống tới 1,5°C Độ ẩm không khí trung bình hàng năm đạt 80%, với khoảng 1.500 giờ nắng và từ 33-34 ngày có sương mù mỗi năm.
Huyện có hệ thống sông ngòi phong phú, chủ yếu là các khe suối nhỏ, trong đó sông Lô là sông lớn nhất, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy qua huyện Vị Xuyên, Bắc Quang và vào tỉnh Tuyên Quang Mùa khô, mực nước sông Lô dao động từ 0,6-1,5m với bề rộng lòng sông khoảng 40-50m, chảy qua huyện với chiều dài 70km và diện tích lưu vực khoảng 8.700km² Ngoài sông Lô, sông Miện cũng chảy qua huyện với chiều dài khoảng 20km, cùng với nhiều suối lớn như suối Việt Lâm, suối Nậm Má, và suối Ma Huyện còn có nhiều hồ chứa nước phục vụ tưới tiêu và thủy điện tại các xã như Thuận Hòa, Phú Linh, Phương Tiến, Đạo Đức, và Quảng Ngần.
3.1.1.3 Đất đai, thổ nhưỡng Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được đối với bất cứ vùng nông thôn nào, đặc biệt là trong quá trình sản xuất nông nghiệp Đối với Vị Xuyên cũng vậy, việc phân bố và sử dụng đất đai có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của vùng
Bảng 3.1 chỉ ra rằng tổng diện tích đất tự nhiên không thay đổi, nhưng cơ cấu các nhóm đất đã có sự biến động qua các năm Cụ thể, vào năm 2013, diện tích đất nông nghiệp đạt 142.217 ha, chiếm 95.11% tổng diện tích đất tự nhiên của xã Đến năm 2014, diện tích đất nông nghiệp tăng lên 142.398 ha.
Tính đến năm 2015, diện tích đất nông nghiệp giảm còn 142.374 ha, với mức tăng trung bình chỉ 0,06% trong ba năm qua, tương đương 157 ha Sự phát triển xã hội và gia tăng dân số địa phương đã dẫn đến sự giảm sút bình quân đất nông nghiệp trên đầu người, từ 1,82 km²/người năm 2013 xuống 1,78 km²/người năm 2015 Tương tự, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người nông nghiệp cũng giảm từ 2,65 km²/người năm 2013 xuống 2,52 km²/người năm 2015 Mặc dù tổng diện tích đất nông nghiệp không thay đổi nhiều trong ba năm, nhưng vẫn phản ánh sự chuyển dịch trong cơ cấu sử dụng đất sản xuất nông nghiệp và đất lâm nghiệp.
Năm 2013, diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 20.560 ha đến năm
Tính đến năm 2015, diện tích đất nông nghiệp đã tăng lên 21.315 ha, tương ứng với mức tăng bình quân 1,82% trong ba năm Diện tích đất nuôi trồng thủy sản cũng ghi nhận sự tăng trưởng, với 18 ha tăng thêm so với năm 2013 Sự chuyển đổi này chủ yếu do cơ chế sử dụng đất của địa phương tích cực khai hoang và cải tạo các vùng đất chưa sử dụng Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ đất lâm nghiệp sang đất sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do đặc thù địa hình đồi núi Diện tích đất lâm nghiệp giảm từ 121.430 ha năm 2013 xuống còn 120.814 ha vào năm 2015, tương đương với mức giảm 0,25% mỗi năm Xu hướng giảm diện tích đất lâm nghiệp và chuyển sang đất sản xuất nông nghiệp cho thấy sự phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện miền núi biên giới phía Bắc.
Đất phi nông nghiệp đã ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây, với diện tích tăng từ 4.798 ha năm 2013 lên 4.474 ha năm 2014 và 4.496 ha năm 2015, tương ứng với mức tăng bình quân 9.64% trong ba năm Nguyên nhân chính cho sự gia tăng này là do sự phát triển của nền kinh tế và sự gia tăng dân số, dẫn đến nhu cầu lớn về đất ở Việc chuyển đổi đất sản xuất và đất chưa sử dụng thành đất thổ cư, cùng với đầu tư xây dựng trường học và công trình giao thông thủy lợi, đã trở thành cần thiết để phục vụ đời sống của người dân và xã hội.
Diện tích đất chưa sử dụng tại huyện Vị Xuyên đã giảm từ 2.510 ha (1,68%) vào năm 2013 xuống còn 1.383 ha (0,92%) vào năm 2015, cho thấy cơ chế sử dụng đất hiệu quả Huyện đã khai thác thêm diện tích có khả năng canh tác phục vụ sản xuất nông nghiệp, mặc dù phần lớn đất chưa sử dụng còn lại nằm ở những khu vực địa hình khó khăn Huyện cam kết trong tương lai sẽ tận dụng triệt để diện tích đất để không còn đất bỏ hoang.
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của huyện Vị Xuyên
SL CC (%) SL CC (%) SL CC (%) 14/13 15/14 BQ
I Tổng diện tích đất TN Ha 149525 100 149525 100 149525 100,00 100,00 100,00 100,00
1 Đất nông nghiệp Ha 142217 95,11 142398 95,23 142374 95,22 100,13 99,98 100,06 Đất trồng sản xuất nông nghiệp Ha 20560 13,75 21071 14,09 21315 14,26 102,49 101,16 101,82 Đất lâm nghiệp Ha 121430 81,21 121101 80,99 120814 80,80 99,73 99,76 99,75 Đất nuôi trồng thủy sản Ha 227 0,15 226 0,15 245 0,16 99,56 108,41 103,89
2 Đất phi nông nghiệp Ha 4798 3,21 5272 3,53 5768 3,86 109,88 109,41 109,64
3 Đất chưa sử dụng Ha 2510 1,68 1855 1,24 1383 0,92 73,90 74,56 74,23
II Một số chỉ tiêu BQ
1 BQ đất NN/khẩu Km2 1,82 1,79 1,78
2 BQ đất NN/ khẩu NN Km2 2,65 2,62 2,52
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Vị Xuyên (2015) download by : skknchat@gmail.com
3.1.1.4 Hệ thống cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng của một địa phương bao gồm hệ thống giao thông, điện, cơ sở vật chất, trường học và trạm y tế, phản ánh trình độ phát triển của khu vực đó Vị Xuyên, huyện giáp biên giới Việt - Trung, có tiềm năng giao thương lớn nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng Theo báo cáo kinh tế xã hội năm 2014, cần phải hoàn thiện và nâng cao các yếu tố hạ tầng để phát triển bền vững.
2015 của UBND huyện Vị Xuyên cho biết
Trong lĩnh vực giao thông, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều tuyến đường mới đã được mở và nâng cấp, trong đó hơn 60% thôn có đường ô tô đến trung tâm Đã hoàn thành 3 tuyến đường nhựa dài 57,5 km, nâng tổng số đường nhựa toàn huyện lên 290,5 km Đồng thời, 34 cầu đã được xây dựng, nâng tổng số cầu các loại lên 134 cái Hệ thống đèn chiếu sáng cũng được nâng cấp và bổ sung giữa hai thị trấn, khu công nghiệp và các xã như Phú Linh, Ngọc Minh, Linh Hồ, Việt Lâm Tổng kinh phí đầu tư cho lĩnh vực giao thông đạt 780,4 tỷ đồng, cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hóa của nhân dân.
Huyện đã đầu tư xây mới và cải tạo 781 công trình với tổng vốn trên 750 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước, cùng với 6 công trình xã hội hóa trị giá 33,58 tỷ đồng Hệ thống cơ sở hạ tầng xã đã đáp ứng cơ bản nhu cầu của hộ nông dân, cải thiện sản xuất, giao thông, buôn bán, và đảm bảo chăm sóc sức khỏe cũng như giáo dục Tuy nhiên, cần thiết phải thiết kế, xây dựng bổ sung và nâng cấp thường xuyên những cơ sở hạ tầng còn thiếu và xuống cấp để hoàn thiện hệ thống, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu sản xuất của người dân trong huyện.
3.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
3.1.2.1 Dân số và nguồn lao động
Dân số và lao động là nguồn nhân lực quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và huyện Vị Xuyên Với diện tích 149.525 ha và dân số 103.542 người (năm 2014), mật độ dân số đạt 68 người/km2 Theo bảng 3.2, dân số trong 3 năm qua có sự biến động nhẹ và có xu hướng tăng dần.
Bảng 3.2 Tình hình lao động dân số huyện Vị Xuyên ĐVT 2013 2014 2015 So sánh (%)
SL CC (%) SL CC (%) SL CC (%) 14/13 15/14 BQ
I Tổng số nhân khẩu Khẩu 103542 100 105184 100 106889 100 101,59 101,62 101,60
II Tổng số hộ Hộ 20883 100 21037 100 21416 100 100,737 101,802 101,27
III Tổng lao động LĐ 44523 100 45229 100 45974 100 101,586 101,647 101,62
2 Lao động phi NN LĐ 7912 17,77 9046 20,0 9655 21.00 114,33 106,73 110,47
IV Một số chỉ tiêu BQ
2 BQ lao động/ hộ LĐ 2.13 2,15 2,15
3 BQ khẩu NN/ hộ NN Khẩu 5.13 5,23 5,35
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Vị Xuyên (2015) download by : skknchat@gmail.com
Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Sơ đồ khung phân tích của đề tài
Nghiên cứu thực trạng lao động di cư mùa vụ tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư của lao động nông thôn, với sự tương tác giữa nhiều yếu tố khác nhau Đề tài sẽ được thực hiện dựa trên khung phân tích từ diễn biến di cư của lao động tại huyện Vị Xuyên, điều tra các yếu tố tác động đến quyết định di cư và đánh giá ảnh hưởng của di cư đến cộng đồng địa phương Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp phù hợp.
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tình hình di cư lao động tại huyện, tập trung vào di cư mùa vụ và thông tin về các hộ gia đình được điều tra Để phân tích thực trạng di cư của lao động, chúng tôi đã áp dụng các chỉ tiêu như thu nhập, ngành nghề sản xuất, các chỉ tiêu bình quân về nhân khẩu và lao động, diện tích đất sản xuất, cũng như các chỉ tiêu liên quan đến đời sống của lao động di cư.
Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư của hộ gia đình, bao gồm giới tính, tuổi tác, tình trạng hôn nhân và trình độ học vấn Chúng tôi cũng phân tích các lực hút và lực đẩy từ cộng đồng nơi xuất cư và nơi nhập cư, xem xét các yếu tố như thu nhập, cơ hội việc làm, thời gian nông nhàn, vốn đầu tư, đất sản xuất và các yếu tố tự nhiên.
Di cư có tác động sâu rộng đến cộng đồng xuất cư, ảnh hưởng đến cả cuộc sống hộ gia đình và cộng đồng địa phương Để đánh giá những ảnh hưởng này, chúng tôi áp dụng các chỉ tiêu về đời sống kinh tế và phi kinh tế của hộ gia đình, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về nhận thức của họ đối với di cư và tác động của nó đến địa phương.
Khung nghiên cứu các yếu tố tác động đến quyết định di cư theo mùa vụ của lao động nông thôn tại huyện Vị Xuyên được minh họa trong hình 3.2.
Sơ đồ 3.2 Khung phân tích của đề tài
Nguồn: Tác giả tổng hợp (2015.)
Nghiên cứu thực trạng di cư theo mùa vụ của lao động nông thôn huyện Vị Xuyên cho thấy sự ảnh hưởng đáng kể của di cư đến cộng đồng xuất cư Việc di cư không chỉ mang lại nguồn thu nhập bổ sung cho hộ gia đình mà còn tác động đến cấu trúc xã hội và kinh tế của địa phương Những thay đổi này cần được đánh giá kỹ lưỡng để có những chính sách hỗ trợ phù hợp, đảm bảo phát triển bền vững cho cả cộng đồng di cư và khu vực tiếp nhận lao động.
Khái quát tình hình chung về di cư lao động huyện Vị Xuyên
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư của người lao động
Lực đẩy trong quá trình quyết định di cư
Lực hút trong quá trình quyết định di cư
Tình hình di cư mùa vụ của lao động nông thôn huyện Vị Xuyên
Thông tin về các hộ gia đình ở các thôn điều tra
Thực trạng di cư của lao động di cư
Thiếu vốn, đất sản xuất
Nuôi con em ăn học trên thành phố
Giải pháp nhằm ổn định cuộc sống của lao động di cư đối với việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương
Tính chọn lọc di cư của hộ gia đình Ảnh hưởng đến cuộc sống hộ gia đình Ảnh hưởng đến cộng đồng địa phương nơi xuất cư
Huyện Vị Xuyên, với hơn 95% diện tích đất dành cho nông, lâm nghiệp, có đặc điểm khác biệt so với các vùng đồng bằng phát triển công nghiệp hiện đại Trong thời gian nông nhàn, người dân thường di cư tự do để tìm kiếm việc làm tại các khu vực lân cận có điều kiện phát triển hơn Điều này khiến việc nghiên cứu thực trạng di cư tự do theo mùa vụ tại huyện trở nên cần thiết Để đảm bảo kết quả nghiên cứu có tính thực tiễn cao, địa bàn nghiên cứu cần đại diện cho vùng về các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Trong huyện, ba xã được chọn làm điểm nghiên cứu bao gồm thị trấn Thanh Thủy, xã Thanh Đức và xã Thượng Sơn Những xã này được cán bộ đánh giá có nhiều lao động di cư và đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể nhờ vào quá trình di cư.
3.2.3 Phương pháp thu thập thông tin
3.2.3.1 Thu thập thông tin thứ cấp
Thông tin thứ cấp được thu thập từ các nguồn số liệu và tài liệu đã công bố, phục vụ cho nghiên cứu về di cư theo mùa vụ Các thông tin này bao gồm hệ thống lý luận và thực tiễn liên quan, được lấy từ sách, báo cáo của tổng cục thống kê, báo cáo tốt nghiệp, cùng với các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về di cư lao động và các website.
Nghiên cứu này sử dụng thông tin thứ cấp từ các báo cáo của phòng Thống kê và báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội hàng năm của huyện Vị Xuyên.
3.2.3.2 Thu thập thông tin sơ cấp
Thông tin sơ cấp là dữ liệu mới, chưa được công bố, được thu thập từ các cuộc điều tra thực địa tại các hộ lao động nông thôn trong huyện, thông qua các phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của di cư mùa vụ của lao động nông thôn tại huyện Vị Xuyên đến kinh tế hộ gia đình, chúng tôi đã khảo sát 38 hộ với 63 người di cư, bao gồm 40 nam và 23 nữ Hầu hết người di cư có thời gian ngắn hạn từ 1 đến 2 tháng, trong khi 22 hộ không có người di cư không bao gồm học sinh, sinh viên Đặc điểm chung của các hộ là dân tộc thiểu số, chủ yếu là dân tộc Tày (chiếm 33%) và các dân tộc khác (chiếm 12%) Các hộ điều tra chủ yếu là hộ trung bình và hộ thuần nông, với sự tham gia của cả nam và nữ trong lao động di cư Cuộc khảo sát được thực hiện ngẫu nhiên tại ba xã: Thanh Thủy, Thanh Đức, và Thượng Sơn.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn sâu đối với lao động di cư, hộ có người di cư và hộ không có người di cư Thông qua hệ thống câu hỏi đã được xây dựng trước, chúng tôi thu thập thông tin về tình hình kinh tế và thông tin chung của các hộ Đối với hộ không có người di cư, chúng tôi tập trung vào điều tra thông tin chung và kinh tế Trong khi đó, với hộ có người di cư, chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về thông tin kinh tế của hộ và tình hình của các lao động nông thôn di cư, cũng như thực trạng cuộc sống của họ tại nơi đến Cuối cùng, chúng tôi thu thập ý kiến đánh giá từ lao động di cư và các hộ về các yếu tố ảnh hưởng đến di cư, tác động của di cư đến gia đình và xã hội tại cộng đồng xuất cư, cùng với xu hướng di cư trong tương lai.
Phương pháp PRA (đánh giá nhanh nông thôn) là một kỹ thuật nghiên cứu thực địa, bao gồm việc quan sát và phỏng vấn nông dân địa phương để thu thập thông tin về tình hình đời sống và sản xuất nông nghiệp trong khu vực nghiên cứu.
3.2.4 Phương pháp xử lý và tổng hợp thông tin
Tiến hành phân loại và sắp xếp thông tin thứ cấp theo mức độ quan trọng, nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong nghiên cứu Sau khi thu thập, số liệu sẽ được tổng hợp và phân tích để phục vụ cho nội dung của đề tài nghiên cứu.
Xử lý thông tin sơ cấp: Các thông tin thu thập được kiểm tra tổng hợp, phân loại và tập hợp thành dạng bảng biểu, đồ thị
3.2.5 Phương pháp phân tích thông tin
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Khái quát tình hình chung về di cư lao động theo mùa vụ trên địa bàn huyện Vị Xuyên
4.1.1 Tình hình di cư mùa vụ của lao động nông thôn huyện
Kể từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ “Đổi Mới”, di cư trong nước và quốc tế đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế Di dân mùa vụ gia tăng do nhu cầu phát triển và đất canh tác ở nông thôn bị thu hẹp Bên cạnh đó, sự chênh lệch về thu nhập và tiền công lao động giữa đô thị và nông thôn, cũng như giữa lao động trong nước và ngoài nước, đã dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động mùa vụ.
Huyện Vị Xuyên, với địa hình đồi núi rộng lớn và diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người thấp, đang phải đối mặt với tình trạng đất đai bạc màu do canh tác manh mún và thiếu dinh dưỡng Mặc dù sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi là chính, quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ lẻ Dân số huyện ngày càng tăng dẫn đến nguồn lao động nông nghiệp dồi dào, chiếm khoảng 70% tổng số lao động, nhưng sản xuất nông nghiệp lại mang tính thời vụ, gây ra tình trạng dư thừa lao động và thiếu việc làm Điều này tạo ra nỗi lo cho các gia đình khi thu nhập không tăng nhưng chi tiêu vẫn cao Người dân đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để tận dụng thời gian nông nhàn, tăng thêm thu nhập và cải thiện cuộc sống.
Với trình độ học vấn và tay nghề thấp, người lao động di cư trong huyện thường gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp Họ chấp nhận làm những công việc nặng nhọc mà người dân thành phố và người nước ngoài không muốn thực hiện, nhằm kiếm thêm thu nhập và giải quyết việc làm trong thời gian nông nhàn Sự kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và thời gian rảnh rỗi đã dẫn đến hiện tượng di cư không chỉ từ nông thôn ra thành thị, mà còn từ trong nước ra nước ngoài, tạo thành luồng di cư tự phát theo mùa vụ Luồng di cư này diễn ra thường xuyên và có tính chu kỳ trong năm.
Hiện tượng lao động di cư sang Trung Quốc đã diễn ra lâu dài, với lý do chính là cải thiện kinh tế gia đình Sự di cư này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, mang lại cả tác động tích cực lẫn tiêu cực cho người lao động, gia đình có người di cư, cũng như cộng đồng nơi xuất cư và nơi đến Tình hình di cư lao động của cả nước và huyện Vị Xuyên phản ánh xu thế tất yếu trong quá trình phát triển xã hội hiện nay.
4.1.2 Một số thông tin về các hộ gia đình ở các thôn điều tra
Theo thống kê của Ủy ban nhân dân huyện Vi Xuyên, năm 2015 huyện Vị Xuyên có 810 lao động đi làm thêm ở Trung Quốc, trong có 360 lao động nữ, và
Số lượng lao động di cư nam giới chiếm ưu thế hơn nữ giới, điều này phản ánh sự khác biệt trong tính chất và phân công công việc trong gia đình Theo Bảng 4.1, tình trạng di cư tự do qua biên giới sang Trung Quốc để làm thuê đang gia tăng, với số lượng lao động tăng từ 652 người vào năm 2013 lên 810 người vào năm 2015.
Bảng 4.1 Tình hình di cư lao động sang Trung Quốc trong các năm 2013 – 2015 ĐVT: người
Chỉ tiêu Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Nguồn: Chi Cục Thống kê huyện Vị Xuyên (2015)
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa nhóm hộ có người di cư và hộ không có người di cư
Trong số các hộ điều tra, sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm hộ có người di cư và hộ không có người di cư được nhận thấy Nhóm hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao nhất với 58.33%, trong khi hộ kiêm ngành nghề chiếm 18.33%, và hộ chuyên buôn bán sản xuất kinh doanh cùng các hộ khác chỉ chiếm dưới 3.33% Điều này cho thấy cuộc sống của các hộ chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp Bên cạnh đó, nông dân còn chăn nuôi gia súc gia cầm và tham gia vào một số ngành nghề phụ, giúp các hộ có khả năng tự cung tự cấp về lương thực và thực phẩm.
Bảng 4.2 Đặc trưng của hộ di cư
Hộ di cư Hộ không có người di cư Tổng
I Theo ngành nghề sản xuất 38 100 22 100 60 100
2 Hộ kinh doanh buôn bán 10 26,32 4 18,18 14 23,33
III Diện tích đất nông nghiệp 38 100 22 100 60 100 Ít hơn 3 sào 20 52,63 11 50,00 31 51,67
V Các chỉ tiêu bình quân
3 BQ khẩu ăn theo/hộ 2,37 2 2,19
Theo số liệu điều tra năm 2015, khi phân loại hộ theo thu nhập, nhóm hộ trung bình chiếm 55%, hộ khá 23.33% và hộ nghèo trên 21.67% Có sự khác biệt rõ rệt giữa hộ có người di cư và hộ không có người di cư; trong đó, tỷ lệ hộ khá ở nhóm có người di cư chỉ chiếm 13.16%, trong khi nhóm không có di cư đạt 40.9% Đồng thời, tỷ lệ di cư trong nhóm hộ trung bình là 57.89%, cao hơn so với nhóm không di cư khoảng 50% Điều này cho thấy hầu hết lao động di cư đều ưu tiên mục tiêu kinh tế, với nhóm hộ khá là đích đến mà họ hướng tới.
Nhóm lao động có số nhân khẩu bình quân cao nhất là hộ có trên 3 nhân khẩu, chiếm 68.33%, trong khi 31.67% là số hộ có lao động dưới 3 nhân khẩu Đối với hộ có người di cư, tỷ lệ hộ trên 3 nhân khẩu là 71.05%, còn hộ dưới 3 nhân khẩu chiếm 28.95% Điều này cho thấy rằng lao động nông thôn di cư chủ yếu đến từ các hộ đông nhân khẩu, với nhiều người ăn theo, thường là 2 người mỗi hộ.
4.1.3 Thông tin về lao động di cư của huyện Vị Xuyên
Di cư được xem như một chiến lược sinh kế quan trọng của các hộ gia đình nông thôn, nhằm tối đa hóa thu nhập trong bối cảnh khó khăn Ở những vùng nông thôn nghèo, di cư trở thành lựa chọn khả thi nhất để vượt qua bế tắc kinh tế Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã tiếp cận được hơn một nửa thành viên trong hộ di cư, trong khi nhiều người khác đang trong quá trình di cư và vắng nhà Thông tin về những người di cư được thu thập thông qua đại diện của hộ, vì hầu hết họ đều chia sẻ thông tin với người thân trong gia đình.
Bảng 4.3 Thông tin cơ bản của lao động di cư
Trung cấp 2 05,00 0 0,00 2 3,17 Đào tạo nghề 3 07,50 2 8,70 5 7,94
Theo số liệu điều tra năm 2015, đa số lao động nông thôn di cư ngắn hạn từ 1 đến 2 tháng đến dưới 1 năm, chủ yếu làm việc tại Trung Quốc và một số tỉnh lớn như Hà Nội, Hải Phòng Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn thấp chiếm ưu thế, với 66,67% chỉ đạt cấp 1, 17,46% cấp II và 15,87% cấp III Điều này cho thấy trong lĩnh vực nông nghiệp, lao động chủ yếu là phổ thông, có trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn chế, phần lớn chỉ hoàn thành bậc phổ cập giáo dục mà chưa qua đào tạo nghề hay học tại các trường cao đẳng, đại học.
Tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo tại địa phương lên tới 88,89%, trong khi lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 7,94% và trình độ trung cấp là 3,17% Điều này cho thấy trình độ lao động còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động Hệ quả là tình trạng dư thừa lao động diễn ra phổ biến Độ tuổi di cư rất đa dạng, chủ yếu là những người trong độ tuổi lao động từ 20-40, bên cạnh một số người trên 50 tuổi và một số ít dưới 18 tuổi, chưa đủ tuổi lao động.
4.1.4 Thực trạng lao động di cư mùa vụ của huyện
4.1.4.1 Thời điểm người lao động di cư đi và trở về
Vị Xuyên là huyện nông nghiệp chủ yếu, mặc dù diện tích đất trồng trọt hạn chế nhưng sản lượng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn Thời gian di cư của lao động thường từ 1 đến 9 tháng, với một số ít kéo dài tới 11 tháng Những lao động trở về dưới 6 tháng thường do công việc tại quê nhà hoặc vấn đề sức khỏe Lịch mùa vụ yêu cầu sự chính xác về thời gian, vì thu hoạch muộn có thể dẫn đến mất mùa hoặc năng suất kém Thời điểm gặt, cấy là lúc căng thẳng nhất, cần nhiều lao động di cư Kết quả khảo sát cho thấy trong 63 người di cư, 55.56% cho biết họ sẽ trở về để hỗ trợ sản xuất gia đình, gần 34.92% có thể trở về tùy thuộc vào vụ mùa, và gần 10% không trở về, cho thấy sự quan tâm lớn của lao động di cư đối với sản xuất nông nghiệp gia đình.
Kinh tế gia đình là nguyên nhân chính khiến người lao động phải di cư, họ chấp nhận làm những công việc mà người giàu không muốn, thường là những công việc không tên với thời gian làm việc không xác định Người lao động di cư thường làm việc từ 9-12 giờ mỗi ngày, với cường độ lao động cao và công việc rất vất vả, chịu sự quản lý chặt chẽ và đôi khi còn bị bạo hành từ chủ lao động.
Nhiều lao động nông nghiệp từ Trung Quốc trở về cho biết rằng công việc không hề dễ dàng như quảng cáo của các môi giới Họ phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt, nặng nhọc và độc hại, không có ngày nghỉ Khi có mùa vụ, họ trở về quê để hỗ trợ gia đình thu hoạch, và trong thời gian rảnh, họ tiếp tục di cư để kiếm thêm thu nhập.
4.1.5 Các loại hình tổ chức và hình thức di cư tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Di cư theo mùa vụ qua biên giới là hình thức di cư không được chính quyền địa phương chấp thuận, dẫn đến sự tồn tại của nhiều loại hình tổ chức di cư khác nhau, mỗi loại hình có những đặc điểm riêng Người lao động sẽ lựa chọn phương thức di cư phù hợp nhất với nhu cầu của mình Các loại hình tổ chức di cư này được thể hiện rõ ràng trong đồ thị 4.2.
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra (2015)
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di cư mùa vụ của lao động nông thôn
Quyết định di cư của người lao động nông thôn thường dựa trên việc cân nhắc kỹ lưỡng các rủi ro và yếu tố thành công liên quan đến việc di cư Thông tin về nơi định cư mới và lợi ích của việc di cư đóng vai trò quan trọng trong quá trình này Chúng tôi đã xác định hai nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định di cư mùa vụ của lao động nông thôn dựa trên nghiên cứu và đặc điểm của nơi đi và nơi đến.
Nhóm yếu tố đẩy bao gồm những hoàn cảnh khó khăn mà người di cư phải đối mặt, như khó khăn kinh tế và suy thoái tài nguyên, dẫn đến mất sinh kế và vòng luẩn quẩn của đói nghèo Khi lực hút và lực đẩy kết hợp, di cư có thể diễn ra ồ ạt Các điều kiện tự nhiên khan hiếm, đất đai cằn cỗi, và sự phát triển cơ sở hạ tầng làm giảm cơ hội việc làm, tạo ra tình trạng đói nghèo và chênh lệch thu nhập lớn giữa các tầng lớp dân cư và vùng miền, từ đó kích thích di cư.
Rời bỏ quê hương để tìm kiếm cơ hội việc làm tại các đô thị lớn hay các nước láng giềng đã trở thành câu chuyện phổ biến của nhiều lao động trong những năm qua Thu nhập và việc làm là động lực chính cho quá trình di cư này Trước những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp và sự sụt giảm giá cả nông sản, nông dân không thể chỉ trông chờ vào ruộng đất khi mà diện tích ngày càng thu hẹp và gánh nặng gia đình ngày càng lớn Hơn nữa, sự chênh lệch thu nhập giữa thành phố và nông thôn càng thúc đẩy họ tìm kiếm cơ hội tại các khu vực đô thị.
Theo kết quả nghiên cứu từ 38 hộ có người di cư, lý do chính dẫn đến việc lao động di cư làm ăn xa chủ yếu xuất phát từ mục tiêu kinh tế Cụ thể, 81,40% lao động di cư cho biết họ tìm kiếm việc làm xa do địa phương thiếu việc làm có thu nhập và tỷ lệ thất nghiệp cao Ngoài ra, 79,11% cho rằng dù có việc nhưng thu nhập lại thấp, trong khi 56,94% cho rằng sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và thời gian nông nhàn quá dài Một số lao động cũng đề cập đến việc thiếu đất sản xuất Những yếu tố kinh tế này khiến nông dân phải di cư để kiếm sống, đặc biệt là để đáp ứng các chi phí như học hành cho con cái, chi phí y tế và sản xuất, mà họ không thể kiếm được tại quê hương.
Hộp 4.5 Việc làm và thu nhập của lao động di cư
Nguồn: Phỏng vấn sâu (2015) Đồ thị 4.3 Lý do di cư của Lao động di cư
Theo số liệu điều tra năm 2015, ngoài sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, hầu hết lao động nông thôn cho rằng không có việc làm thêm để tăng thu nhập Với thu nhập từ nông nghiệp thấp và nhiều rủi ro, họ đã lựa chọn di cư sang Trung Quốc để tìm kiếm cơ hội làm việc và cải thiện đời sống.
Quê tôi chỉ có 3 sào ruộng, sau khi cấy gặt xong lại không có gì làm, thời gian trôi qua rất nhanh nhưng không có tiền để chi tiêu Một ngày làm việc không kiếm được đồng nào, nếu không đi làm thì lại không có tiền để tiêu Hàng tháng, tôi phải lo tiền học cho con và tiền thuốc thang cho bố Tất cả gánh nặng tài chính đè lên vai tôi, vì vậy tôi phải đi làm kiếm tiền để nuôi gia đình và cho con cái học hành.
Cô Dung, 45 tuổi, sống tại xã Thượng Sơn, luôn nỗ lực kiếm tiền và tiết kiệm Theo điều tra 63 người di cư, 47.22% trong số họ không có việc làm, với tỷ lệ nam giới là 44.64% và nữ giới 56.25% Nhiều người không tiếp tục học sau khi tốt nghiệp do hạn chế về trình độ và gia đình không đủ điều kiện, cùng với việc thiếu cơ hội việc làm tại quê Tỷ lệ lao động di cư trước khi di chuyển có việc làm không ổn định là 71.43%, chủ yếu làm trong nông nghiệp Họ thường có công việc bấp bênh, làm khi có việc và nghỉ dài khi không có thu nhập Mặc dù công việc tạm thời, nó vẫn giúp tăng thu nhập cho gia đình Số lượng người không có việc làm và lao động có việc làm ổn định chỉ chiếm hơn 10%, do đặc thù công việc nông nghiệp, họ tranh thủ làm thêm trong thời gian nông nhàn để kiếm thêm thu nhập.
Đồ thị 4.4 Tình trạng công việc của lao động trước khi di cư
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
Thu nhập của người lao động trước khi di cư rất thấp, chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập hộ gia đình, với 52.22% là hộ thuần nông Khoảng 58.33% hộ có thu nhập từ 1 – dưới 2 triệu/tháng, trong khi chỉ có dưới 2% hộ có thu nhập trên 3 triệu/tháng Hầu hết thu nhập đến từ trồng lúa và chăn nuôi nhỏ lẻ, nhưng sau khi trừ chi phí, họ chỉ có lãi rất ít Thêm vào đó, rủi ro thiên tai và dịch bệnh thường xuyên xảy ra, khiến mùa màng thất bát, làm cho thu nhập không đủ trang trải cho nhu cầu sinh hoạt, học hành của con cái và chữa bệnh.
Nhiều người lao động di cư sang Trung Quốc với hy vọng tìm kiếm công việc phù hợp với khả năng của mình Mặc dù mức lương không cao như mong đợi, nhưng nó vẫn giúp cải thiện thu nhập cho bản thân và gia đình Chính thu nhập hàng tháng là yếu tố quyết định khiến họ lựa chọn di cư để làm thuê.
Từ 2 - 3 triệu Trên 3 triệu Đồ thị 4.5 Thu nhập bình quân/tháng của hộ gia đình trước khi có LĐDC
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
Thời gian nông nhàn tại xã diễn ra khi sản xuất nông nghiệp theo đúng mùa vụ, với hai vụ lúa chính: đông xuân và hè thu Người nông dân bắt đầu gieo trồng và thu hoạch vào cuối tháng 12, đầu tháng 1, giữa tháng 5, đầu tháng 6 và cuối tháng 10 âm lịch, tạo ra khoảng thời gian căng thẳng và cần nhiều lao động Ngoài những thời điểm này, người dân có nhiều thời gian rảnh rỗi và ít việc làm Theo thống kê, 5% lao động di cư dưới 3 tháng, trong khi 55% di cư từ 6-9 tháng, cho thấy thời gian nông nhàn của người nông dân rất lớn Do đó, việc tìm kiếm việc làm diễn ra phổ biến hơn và với khoảng cách xa hơn trong nhiều thời điểm trong năm.
Thiếu đất sản xuất, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân/khẩu là
Nhiều hộ gia đình có đông con nhưng không có ruộng, phụ thuộc vào bố mẹ do chính sách chia ruộng đất từ nhiều năm trước Diện tích đất nông nghiệp hiện chỉ chiếm 31,67% với hộ có diện tích từ 1 - 3 sào, trong khi 51,67% hộ có diện tích trên 3 sào Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử dụng, trong khi dân số tăng cao khiến lao động thiếu đất canh tác Cuộc sống của nông dân gặp nhiều khó khăn, việc làm tại quê nhà khan hiếm, dẫn đến việc lao động di cư để tìm kiếm việc làm trong thời gian nông nhàn, nhằm cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho gia đình, đồng thời vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp tại quê nhà.
Hộp 4.6 Khó khăn thúc đẩy việc di cư của lao động nông thôn Ở nhà chỉ làm nông nghiệplà chủ yếu , chăn nuôi thì chẳng được là bao, mà ruộng lại ít con cái hai đứa sinh ra đều không có ruộng, cả nhà 4 người được 2 sào ruộng, chẳng đủ ăn còn phải đi đong thêm gạo để ăn,mà tiền thì không làm ra, suốt ngày quanh quẩn ở nhà cũng chết, chi tiêu thì lại rất cần đến tiền, có tiền mới mua được những vật dụng cần thiết Nên tôi quyết địnhphải sang Trung Quốc làm để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình, con cái tôi được đi học đầy đủ như chúng bạn
Anh Thắng, 34 tuổi, từ xã Thanh Đức, cho biết rằng nhiều người lao động nông thôn di cư sang Trung Quốc với hy vọng kiếm thu nhập cao nhằm cải thiện cuộc sống Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là thu nhập từ sản xuất nông nghiệp rất thấp, chiếm đến 65,52% trong số lao động được khảo sát Bình quân thu nhập của lao động nông nghiệp hiện nay không đủ để đáp ứng nhu cầu sống cơ bản, thúc đẩy họ tìm kiếm cơ hội việc làm ở nước ngoài.
Với mức thu nhập bình quân hàng năm chỉ 6 triệu đồng, người lao động không thể trang trải cho các nhu cầu trong gia đình Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa dẫn đến việc diện tích đất nông nghiệp giảm, gây thiếu đất sản xuất Bên cạnh đó, rủi ro từ thiên nhiên cũng là nguyên nhân khiến 20,35% người lao động phải di cư, theo số liệu điều tra.
Các yếu tố đẩy trong xã hội có mối liên hệ chặt chẽ, với mỗi yếu tố là nguyên nhân dẫn đến kết quả của yếu tố khác Thời gian nông nhàn kéo dài, đất canh tác hạn hẹp và dân số gia tăng dẫn đến tình trạng thiếu việc làm và thu nhập thấp cho người lao động Bên cạnh đó, việc tham gia vào kinh doanh và phát triển sản xuất cũng gặp khó khăn do yêu cầu vốn đầu tư lớn, khiến nhiều hộ gia đình phải vay ngân hàng và chịu áp lực lãi suất hàng tháng Số tiền lãi thường không đủ để trang trải chi phí sinh hoạt, trong khi các ngành nghề phụ lại khan hiếm, dẫn đến tình trạng không có thu nhập Do đó, các yếu tố đẩy này đều quan trọng và phụ thuộc lẫn nhau; khi một vấn đề được giải quyết, mọi thứ khác sẽ trở nên dễ dàng hơn, với mục tiêu cuối cùng là tạo ra thu nhập đủ để nuôi sống bản thân và gia đình.
Một số giải pháp giải quyết vấn đề về lao động di cư mùa vụ tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Vấn đề lao động di cư đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, vừa thúc đẩy kinh tế xã hội, vừa tạo ra thách thức cho chính phủ trong việc quản lý lao động và kiểm soát tệ nạn xã hội Quá trình chuyển dịch lao động và chuyển đổi cơ cấu kinh tế giúp phát huy vai trò của di cư trong công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nông thôn hiện nay.
Mặc dù nhiều giải pháp có vẻ đơn giản, nhưng thực tế lại phức tạp hơn Chính quyền huyện cần nắm bắt tình hình địa phương và kết hợp với các chính sách vĩ mô của nhà nước để đưa ra những giải pháp hiệu quả cho lao động tại địa phương Dưới đây là một số giải pháp cụ thể.
4.3.1 Phổ biến các chủ trương của Đảng và Nhà nước về ổn định dân cư
Tăng cường sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc tuyên truyền các chủ trương của Đảng và Nhà nước về ổn định dân cư là rất cần thiết Cần đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền sao cho phù hợp với trình độ dân trí và văn hóa của từng dân tộc, giúp người dân hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước Phát huy vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng để nâng cao nhận thức và khuyến khích sự chấp hành chính sách của Nhà nước, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân Cần ngăn chặn kịp thời các tổ chức, cá nhân lợi dụng tôn giáo và vấn đề dân tộc, cũng như những khó khăn của đồng bào để kích động di cư tự phát.
4.3.2 Thực hiện chương trình việc làm, chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Vị Xuyên, một huyện miền núi nghèo, chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, trong khi người dân địa phương ít được tiếp cận với các chương trình hướng nghiệp và đào tạo nghề Do đó, cần thiết phải có sự quan tâm từ chính phủ và địa phương để nâng cao nhận thức và đào tạo nghề cho lao động, đặc biệt là thanh niên và người trung tuổi Người trung tuổi thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm tại các công ty do khả năng làm việc giảm, dẫn đến việc họ phải chấp nhận những công việc nặng nhọc, vất vả và nguy hiểm mà địa phương không có đủ cơ hội việc làm.
Bồi dưỡng tay nghề cho hộ gia đình nên tập trung vào các nghề phù hợp với đặc thù của huyện, nhằm mở rộng sản xuất trong cả lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp.
4.3.3 Cải thiện điều kiện kinh tế và hạ tầng cơ sở của địa phương
Tập trung đầu tư vào phát triển nông, lâm nghiệp với các cây, con có mức sinh lợi cao nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội giữa các xã và địa phương khác Đầu tư cho chương trình phát triển nông thôn mới cần gắn liền với chương trình xóa đói, giảm nghèo, ưu tiên phát triển sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao và khu vực biên giới để cải thiện đời sống Đồng thời, cần chú trọng phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, cung cấp nước sinh hoạt, xây dựng trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt và nhà văn hóa, cũng như nâng cấp các tuyến đường ra biên giới và cửa khẩu.
Hình thành các trung tâm dịch vụ ở nông thôn nhằm cung cấp vốn vay xóa đói giảm nghèo và vay ưu đãi sẽ giúp người dân thoát nghèo và nâng cao đời sống Đồng thời, phát huy lợi thế biên giới và cửa khẩu để phát triển kinh tế biên mậu, khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động dịch vụ và sản xuất tại vùng biên giới Cần xây dựng chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội giữa Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời triển khai chính sách phát triển kinh tế du lịch dựa trên việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
4.3.4 Khuyến khích, giúp người dân trong huyện phát triển các ngành nghề sản xuất phi nông nghiệp Để bắt kịp xu hướng CNH – HĐH của đất nước, ngành nông nghiệp phải chuyển đổi từ sản xuất truyền thống sang đa dạng hóa các sản phẩm, cây trồng, vật nuôi Hình thành các vùng chuyên canh phát triển cây công nghiệp bên cạnh đó cần phải giải quyết vững chắc vấn đề an ninh lương thực của địa phương Phát triển các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao để tăng thu nhập cho người lao động
Chúng tôi cam kết hỗ trợ người dân trong xã huy động mọi nguồn vốn cho sản xuất, đồng thời tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao khả năng quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn Chúng tôi khuyến khích việc mở trang trại và phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp VAC, đồng thời giảm và miễn một số khoản đóng góp cho người dân Điều này không chỉ tạo việc làm tại chỗ cho các thành viên trong gia đình mà còn thu hút thêm lao động từ các gia đình xung quanh, giúp họ không phải đi xa làm việc.
UBND các xã, thị trấn nên hợp tác với các tổ chức và đơn vị trong và ngoài nước để triển khai các dự án tạo việc làm cho lao động địa phương, đồng thời hỗ trợ người dân trong việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
4.3.5 Cải tạo và phân bổ đất đai một cách hợp lý
Vị Xuyên cần thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa để tập trung đất sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh nhằm mở rộng quy mô và thâm canh cây trồng, vật nuôi Cải tạo những vùng đất bỏ hoang và khai hoang các khu vực mới có tiềm năng sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế Cải thiện đất đai không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân mà còn tạo sự gắn bó giữa họ với đồng ruộng, góp phần hạn chế di cư.
4.3.6 Đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp
Công cụ và máy móc sản xuất tại huyện hiện còn thô sơ, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, thiếu kỹ thuật hiện đại Để nâng cao hiệu quả sản xuất, cần xây dựng hệ thống thủy lợi kiên cố nhằm giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt Việc trang bị kiến thức về sản xuất và quản lý kinh doanh, kết hợp với các chính sách phát triển kinh tế địa phương, sẽ giúp nông dân cải thiện thu nhập và làm giàu ngay trên quê hương của mình.
4.3.7 Xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc về quản lý lao động di cư
Nhà nước đang tiến hành rà soát và đơn giản hóa các quy định liên quan đến di cư để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động Mục tiêu là đảm bảo người lao động di cư có việc làm và thu nhập ổn định Đồng thời, cần tăng cường tuyên truyền và giáo dục về luật lao động, giúp người lao động nhận thức rõ tầm quan trọng của hợp đồng lao động Khi hiểu rõ vấn đề này, lao động di cư sẽ tránh được những rủi ro liên quan đến tiền lương và công việc trong tương lai.
Các cơ quan chức năng và lực lượng nghiệp vụ cần thực hiện nghiêm túc việc giám sát và quản lý di cư, đồng thời xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức vi phạm Các cơ quan đại diện của Việt Nam tại Trung Quốc nên phối hợp với các cơ quan chức năng của nước sở tại để hỗ trợ kịp thời cho người lao động khi gặp rắc rối liên quan đến nhập cảnh, cư trú, việc làm và tiền lương Hơn nữa, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền về pháp luật và quy định xuất nhập cảnh để người lao động nắm rõ và thực hiện đúng.
Nhà nước và chính quyền địa phương cần tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu rõ về lối sống và quy định nơi làm việc Việc này sẽ giúp người lao động dễ dàng thích nghi với môi trường mới, đồng thời nâng cao nhận thức về hậu quả của di cư trái phép và các chiêu trò lừa đảo từ tổ chức môi giới, từ đó hạn chế tình trạng di cư trái phép.
4.3.8 Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn xã