Tính cấp thiết của đề tài
Công an xã đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn an ninh, trật tự tại địa phương, với 9.327 đơn vị và 136.008 cán bộ, bao gồm 1.290 sĩ quan và hạ sĩ quan Lực lượng này chủ động nắm bắt tình hình an ninh, phân loại và xử lý thông tin, đồng thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền ban hành nghị quyết và kế hoạch nhằm đảm bảo an ninh trật tự Qua đó, công an xã góp phần ngăn chặn tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm pháp luật, hỗ trợ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội tại địa phương.
Lực lượng công an xã đã tích cực tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự Họ chủ động nắm bắt tình hình và tiếp nhận hàng chục nghìn tin tức liên quan để xử lý, phân loại và báo cáo lên cấp trên Đặc biệt, công an xã đã trực tiếp giải quyết 80% vụ việc về an ninh, trật tự trong khu vực, đồng thời phối hợp hiệu quả trong các đợt cao điểm tấn công tội phạm, xóa bỏ các tụ điểm phức tạp và điều tra, xử lý các vụ việc liên quan đến an ninh, trật tự.
Từ năm 2011 đến nay, lực lượng công an xã đã phát hiện 17.020 vụ án, bắt giữ 26.082 đối tượng phạm tội quả tang và 1.452 đối tượng truy nã Họ tích cực tham mưu cho Ủy ban nhân dân xã trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy định pháp luật Đồng thời, lực lượng này tổ chức tuần tra, kiểm soát và kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ an ninh, trật tự, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trên địa bàn xã.
Công an xã đóng vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc thông qua việc tuyên truyền và vận động người dân địa phương thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về an ninh trật tự Họ đã xây dựng và nhân rộng các mô hình tiên tiến, kết hợp phong trào bảo vệ an ninh với các cuộc vận động yêu nước để khuyến khích nhân dân phát hiện và tố giác tội phạm Công an xã còn tích cực tham gia các phong trào tự quản, tự phòng, giúp đỡ những người cải tạo không giam giữ, người được đặc xá, và những người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng, đồng thời tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông và phòng chống cháy nổ.
Lực lượng công an xã đã nỗ lực vượt qua khó khăn và hy sinh để bảo vệ an ninh, trật tự, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Kể từ khi thực hiện Pháp lệnh Công an xã, đã có 44 đồng chí hy sinh và 487 đồng chí bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ, trong đó 27 đồng chí được công nhận liệt sĩ và 128 đồng chí được công nhận thương binh.
Lực lượng công an xã hiện đang nhận được sự quan tâm từ Đảng và Nhà nước, nhưng mức lương, phụ cấp và chế độ chính sách vẫn còn thấp, không tương xứng với khối lượng và tính chất công việc Đặc biệt, nhiều Phó trưởng công an xã và công an viên chưa được tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế Việc giải quyết các chế độ chính sách cho thương binh, liệt sỹ trong lực lượng này cũng gặp nhiều khó khăn Hơn nữa, cơ sở vật chất, vũ khí và công cụ hỗ trợ vẫn còn thiếu, không đáp ứng đủ yêu cầu công tác.
Tác giả quyết định nghiên cứu đề tài "Chính sách đãi ngộ đối với công an xã tại tỉnh Bắc Ninh" nhằm tìm hiểu và phân tích các chính sách công liên quan đến chế độ đãi ngộ cho lực lượng công an xã.
Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể chia làm hai nhóm:
Thứ nhất, nhóm đề tài nghiên cứu về chính sách công và chính sách công trong một số lĩnh vực nhất định Có thể kể đến:
Cuốn sách của PGS TS Lê Chi Mai (2001) mang tên "Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách" do Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh phát hành, cung cấp nhiều nội dung quan trọng liên quan đến luận án, bao gồm khái niệm chính sách, đặc trưng của chính sách, giai đoạn thực thi chính sách, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi, hình thức thực thi, công tác tổ chức thực thi, phương pháp thực thi, và điều kiện cần thiết cho việc thực thi chính sách.
Cuốn giáo trình "Hoạch định và phân tích chính sách công" do PGS TS Nguyễn Hữu Hải biên soạn (2008) tại Học viện Hành chính Quốc gia cung cấp nhiều nội dung quan trọng cho luận án, bao gồm các quan niệm về chính sách công, khái niệm và vị trí của thực thi chính sách công, cũng như các bước tổ chức thực thi và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình này Ngoài ra, sách còn nêu rõ những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực thi chính sách, các hình thức triển khai thực hiện, các mô hình tổ chức thực thi và phương pháp thực thi chính sách.
Cuốn sách "Quá trình xây dựng chính sách công tại các nước đang phát triển" của PGS TS Đỗ Phú Hải (2014) trình bày về thiết kế chính sách công, tập trung vào việc xác định các mục tiêu ưu tiên và lựa chọn giải pháp chính sách dựa trên phân tích hiệu quả, chi phí, lợi ích, công bằng và các giá trị chính trị - xã hội Để giải quyết các vấn đề xã hội, cần xác định một tập hợp các lựa chọn và công cụ chính sách, từ đó các nhà lập chính sách đưa ra quyết định dựa trên đánh giá tính hiệu quả, khả thi, và các yếu tố chi phí - lợi ích Quá trình xây dựng chính sách yêu cầu sự hợp tác giữa các nhà lập chính sách trong cộng đồng và mạng lưới chính sách.
TS Lê Văn Hòa (2016), Giám sát và đánh giá chính sách công,
Cuốn sách của Nxb Chính trị Quốc gia trình bày các vấn đề cơ bản liên quan đến giám sát và đánh giá chính sách công, bao gồm đánh giá tác động, đo lường kết quả thực hiện chính sách, và các phương pháp đánh giá tác động như thực nghiệm ngẫu nhiên và phi thực nghiệm Ngoài ra, sách còn đề cập đến việc kết hợp các phương pháp đánh giá tác động và đánh giá chương trình có nhiều can thiệp, tổ chức quy trình đánh giá tác động chính sách, cùng với báo cáo và phổ biến kết quả đánh giá.
Trong cuốn sách Chính sách công của Hoa Kỳ: Giai đoạn 1935-
Cuốn sách của Tiến sĩ Lê Vinh Danh, xuất bản năm 2001 bởi Nhà xuất bản Thống kê, trình bày kết quả nghiên cứu về chính sách công của Mỹ từ năm 1935 đến 2001 Tác phẩm cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực tiễn chính sách công của Hoa Kỳ, đặc biệt là quá trình thực hiện và điều chỉnh chính sách, quản lý việc thi hành chính sách, các công nghệ chủ yếu trong thực hiện và quản lý chính sách, cũng như vấn đề quản trị nhân sự trong chính quyền liên quan đến việc thực thi chính sách.
Cuốn sách "Quản trị công trong thời kỳ cải cách hành chính ở Việt Nam" do Lê Văn Chiến chủ biên (2016) trình bày kết quả nghiên cứu từ Dự án "Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay" Dự án này được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Hội đồng lý luận.
Dự án nghiên cứu của Trung ương áp dụng cả phương pháp định tính và định lượng nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản trị và hành chính công cấp tỉnh tại Việt Nam Cuốn sách cũng đề cập đến các nghiên cứu ở cấp huyện và cấp xã, nơi thực hiện các chính sách do Trung ương và cấp tỉnh ban hành.
Các đề tài này đã tạo ra một khung lý thuyết chung, từ đó luận văn có thể triển khai nghiên cứu sâu vào lĩnh vực chính sách đãi ngộ dành cho công an xã.
Thứ hai, nhóm đề tài nghiên cứu về công an xã và chính sách đãi ngộ đối với công an xã
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào công an xã và chính sách đãi ngộ dành cho họ Các nghiên cứu này không chỉ xem xét khía cạnh chính trị mà còn tiếp cận từ góc độ khoa học chính sách công Dưới đây là một số đề tài nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến chính sách đãi ngộ cho công an xã.
Đề tài "Công an xã, chính sách đãi ngộ nhìn từ thực tế" do Thiếu tướng Nguyễn Đức Minh, Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Công an, thực hiện và được xuất bản bởi NXB CAND vào năm 2013 Bài viết phân tích những chính sách đãi ngộ đối với lực lượng công an xã, từ đó đưa ra những nhận định và đề xuất nhằm cải thiện điều kiện làm việc và đời sống cho họ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm an ninh trật tự tại địa phương.
Đề tài "Xây dựng chính sách đãi ngộ đối với công an xã" được thực hiện cấp Bộ năm 2012, mã số NL-2012-X12-019, do Trung tướng Trần Bá Thiều, Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an nhân dân, làm chủ nhiệm Công trình này được xuất bản bởi Nhà xuất bản CAND tại Hà Nội năm 2012.
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2013 mang mã số [mã số] tập trung vào việc hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với công an xã trong bối cảnh đổi mới Nghiên cứu này nhằm đề xuất các giải pháp hiệu quả để nâng cao chế độ đãi ngộ, từ đó cải thiện điều kiện làm việc và đời sống cho lực lượng công an xã.
NL- 2013- V19- 001 do Thượng tá Đặng Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế làm chủ nhiệm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 2013
Đề tài luận văn "Chính sách đãi ngộ đối với công an xã tại tỉnh Bắc Ninh" tập trung vào việc cải thiện chính sách đãi ngộ cho lực lượng công an xã trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề này tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, do đó, đề tài này không chỉ mới mẻ mà còn mang lại giá trị thực tiễn cao.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, kết hợp với các quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh, nhằm phân tích đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước và các chính sách liên quan đến việc đãi ngộ công an xã.
Trong quá trình thực hiện luận văn, phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng bằng cách kết hợp các phương pháp của khoa học quản lý xã hội và quản lý nhà nước Các phương pháp tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu được sử dụng để đưa ra những đánh giá và kết luận khoa học.
6 Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Luận văn này sẽ đóng góp vào hệ thống lý luận về chính sách đãi ngộ dành cho công an xã, đồng thời trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực chính sách công và quản lý công Ngoài ra, luận văn cũng cung cấp các luận cứ khoa học cần thiết cho các nhà quản lý trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với công an xã tại tỉnh Bắc Ninh cũng như cho lực lượng công an xã trên toàn quốc.
7 Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách đãi ngộ đối với công an xã.
Chương 2: Thực trạng chính sách đãi ngộ đối với công an xã trên đ a bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với công an xã tại đ a bàn tỉnh Bắc Ninh.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI CÔNG AN XÃ
Khái quát về công an xã và chính sách đãi ngộ đối với công an xã
1.1.1 Khái niệm công an xã Để tìm hiểu khái niệm công an xã, cần xem xét lịch sử hình thành và phát triển của ngành công an
Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, để từng bước củng cố tổ chức bộ máy chính quyền các cấp, ngày 22 tháng 11 năm
Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 63/SL về việc tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, trong đó Điều 76 quy định rằng công việc trị an ở cấp xã do một ủy viên trong Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính xã phụ trách Quy định này khẳng định tầm quan trọng của việc đảm bảo trật tự, trị an trong chức năng chuyên chính của chính quyền cách mạng ở nông thôn, đồng thời thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng Đây là văn bản pháp luật đầu tiên tạo nền tảng cho việc xây dựng tổ chức chỉ đạo hoạt động của lực lượng đảm bảo trật tự, trị an ở cơ sở, tiền thân của lực lượng công an xã sau này.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều địa phương đã thành lập đội ngũ cán bộ giữ gìn trật tự với các tên gọi khác nhau Đầu năm 1948, Hội đồng Chính phủ quyết định “đặt ở mỗi xã một ủy viên trật tự xã” để đảm bảo an ninh phục vụ kháng chiến Ngày 9 tháng 3 năm 1948, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 113 - NV/TT, quy định về việc thành lập Ban trật tự xã nhằm củng cố tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh trật tự Theo đó, công việc trị an phải giao cho một ủy viên trật tự, được chọn từ các ủy viên của ủy ban kháng chiến kiêm hành chính xã Nếu xã có nhiều thôn cách biệt, có thể đặt tổ trưởng trật tự thôn do ủy ban kháng chiến chọn Uỷ viên trật tự xã có nhiệm vụ tổ chức tuần phòng, kiểm soát an ninh và thi hành mệnh lệnh của ủy ban kháng chiến.
Thông tư số 113 - NV/TT của Bộ Nội vụ đã cụ thể hóa các quy định của Sắc lệnh số 63/SL năm 1945, nhằm nhấn mạnh sự quan trọng của công tác trị an tại các xã, thôn Đồng thời, thông tư này tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết để tổ chức và hoạt động của lực lượng giữ gìn trật tự trị an, đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong việc phục vụ nhiệm vụ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Ngày 10 tháng 10 năm 1950, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
Theo Điều 2 của Nghị định 438, mỗi xã trên toàn quốc sẽ thành lập một Ban Công an xã Ban này thuộc hệ thống tổ chức của Việt Nam Công an vụ, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban kháng chiến hành chính xã Đồng thời, Ban Công an xã cũng chịu sự hướng dẫn chuyên môn từ Ty Công an tỉnh và Công an quận huyện, nếu được ủy quyền bởi Công an tỉnh.
Trưởng và Phó ban Công an xã được đề cử bởi Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện, sau đó Ty Công an và Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh sẽ xem xét và ra quyết định cử Danh sách tổ viên do Uỷ ban kháng chiến hành chính chọn, được Ty Công an tỉnh thỏa thuận và Uỷ ban kháng chiến huyện duyệt.
Theo Điều 6 và Điều 7 Nghị định số 438 - NV/NĐ, nhân viên công an xã có phù hiệu riêng khi thực hiện nhiệm vụ, nhưng không phải là viên chức Chính phủ và không nhận lương Trong một số trường hợp, nếu không thể tham gia sản xuất do nhu cầu công việc, công an xã sẽ được hưởng Bảo hiểm xã hội hoặc phụ cấp hàng tháng.
Kinh phí cho hoạt động của công an xã bao gồm các khoản chi phí liên quan đến trụ sở, dụng cụ văn phòng và phụ cấp hàng tháng, tất cả đều được ngân sách xã đảm bảo.
Nghị định số 438 - NV/NĐ là văn bản pháp lý đầu tiên quy định chi tiết về tên gọi, tổ chức, nhiệm vụ, chế độ, chính sách và kinh phí cho hoạt động của Ban Công an xã trên toàn quốc Một số điểm nổi bật trong Nghị định này bao gồm việc Ban Công an xã thuộc hệ thống tổ chức của Việt Nam Công vụ, nhưng chịu sự lãnh đạo "song trùng" từ chính quyền xã và ngành Công an Mặc dù Ban Công an xã được xác định trong hệ thống công vụ, nhưng nhân viên công an xã không phải là viên chức Chính phủ và không nhận lương.
Ngày 13 tháng 5 năm 1953, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/NĐ/CA về tổ chức ở Bộ Công an và công an các địa phương, trong đó không còn quy định Ban Công an xã là cấp công an cơ sở thuộc hệ thống tổ chức lực lượng Công an nhân dân Từ đó trở đi tổ chức và hoạt động của Ban Công an xã đặt dưới sự quản lý, điều hành trực tiếp của
Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và sự hướng dẫn chỉ đạo về nghiệp vụ của công an cấp trên
Sau ngày Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, lực lượng công an xã trong cả nước tiếp tục được củng cố, kiện toàn về mọi mặt Ngày
Vào ngày 20 tháng 12 năm 1981, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ đã ban hành Quyết định tạm thời số 114/QĐ - BNV, quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của công an xã Quyết định này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng công an tại cấp xã, đảm bảo an ninh trật tự và phục vụ cộng đồng.
Ngày 12 tháng 10 năm 1989, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 137/QĐ - BNV (X13) quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và lề lối làm việc của công an xã Ngày 28 tháng 11 năm 1989,
Bộ Nội vụ đã ban hành quy định số 10/BNV liên quan đến chính sách và chế độ dành cho công an xã, trong đó công an xã sẽ được hưởng các quyền lợi theo quy định chung của Nhà nước đối với cán bộ cơ sở Ngoài ra, tùy thuộc vào tình hình ngân sách địa phương, chính quyền có thể quyết định việc cấp phụ cấp bổ sung cho công an xã Quy định cũng nêu rõ các chính sách khác như chế độ cho thương binh, liệt sĩ, quyền lợi khi tham gia các lớp huấn luyện nghiệp vụ, chế độ nghỉ việc, cùng với các chính sách khen thưởng và kỷ luật.
Vào ngày 21 tháng 11 năm 2008, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh Công an xã, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc quản lý và tổ chức lực lượng công an tại cấp xã Tại Khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh này, quy định rõ ràng về chức năng và nhiệm vụ của Công an xã trong việc đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương.
Theo quy định năm 2008, Công an xã được xác định là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, thuộc tổ chức của Công an nhân dân Họ đóng vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội tại địa bàn xã.
Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2009/NĐ-
Ngày 7 tháng 9 năm 2009, CP đã ban hành quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Công an xã Tiếp theo, Bộ Công an phát hành Thông tư số 12/2010/TT-BCA vào ngày 8 tháng 4 năm 2010 để thực hiện các Pháp lệnh và Nghị định của Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý cho lực lượng công an xã trong việc bảo vệ an ninh trật tự.
Nội dung, chu trình chính sách đãi ngộ đối với công an xã
1.2.1 Nội dung chính sách đãi ngộ đối với công an xã
Chính sách đãi ngộ cho công an xã là một phần của chính sách đãi ngộ nhân sự tổng thể Người lao động trong lĩnh vực này có thể nhận được hai loại hình đãi ngộ chính: đãi ngộ vật chất và đãi ngộ phi vật chất.
Chính sách đãi ngộ cho đội ngũ công an xã bao gồm hai loại chính: đãi ngộ vật chất và đãi ngộ phi vật chất Đãi ngộ vật chất bao gồm lương, phụ cấp, bảo hiểm, và hỗ trợ cho những trường hợp ốm đau, tai nạn, nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho họ Trong khi đó, đãi ngộ phi vật chất tập trung vào việc nâng cao đời sống tinh thần, giúp công an xã gắn bó và hăng say hơn với công việc Một số chính sách phi tài chính quan trọng bao gồm môi trường làm việc phù hợp, cơ hội thăng tiến, và khả năng học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
Chính sách đãi ngộ vật chất có thể lượng hoá, trong khi chính sách đãi ngộ phi vật chất thường khó xác định Luận văn này tập trung vào nghiên cứu chính sách đãi ngộ vật chất dành cho lực lượng công an xã, được quy định tại Điều 18 và Điều.
Pháp lệnh Công an xã gồm 19 điều, được quy định chi tiết tại Điều 7 Nghị định số 73/2009/NĐ-CP ngày 7 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ Nghị định này hướng dẫn thực hiện một số điều của Pháp lệnh Công an xã, nhằm đảm bảo quản lý an ninh trật tự tại địa phương.
Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Trưởng công an xã là công chức cấp xã được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ Phó trưởng công an xã và Công an viên là những người hoạt động không chuyên trách tại cấp xã, nhận phụ cấp theo Điều 14 của nghị định này, với mức phụ cấp do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định, không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung Ngoài ra, các cán bộ này còn được hưởng chế độ hỗ trợ ốm đau, tai nạn, thăm hỏi động viên, chế độ bồi dưỡng khi đi công tác, cũng như chế độ khi bị ốm, tai nạn hoặc hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Như vậy, chế độ chính sách của công an xã bao gồm:
Lương của trưởng công an xã được quy định theo Nghị định 47/2017/NĐ-CP, với mức 1.300.000 đồng/tháng Phó trưởng công an xã, là cán bộ công chức xã kiêm nhiệm, cũng nhận mức lương 1.300.000 đồng/tháng Trong khi đó, phó trưởng công an và công an viên hoạt động không chuyên chỉ nhận phụ cấp.
Phó trưởng công an xã và Công an viên được nhận phụ cấp hàng tháng theo quy định của Chính phủ Mức phụ cấp cụ thể sẽ được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét dựa trên quy định của Chính phủ và tình hình thực tế tại địa phương, sau đó trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
Trưởng công an xã nhận phụ cấp tối đa bằng 1,0 lần lương tối thiểu, trong khi Phó trưởng công an xã và công an viên không chuyên được hưởng phụ cấp bằng 1,18 lần lương tối thiểu.
- Bảo hiểm xã hội và hỗ trợ ốm đau, tai nạn
Trưởng công an xã có thời gian công tác liên tục từ đủ 60 tháng trở lên sẽ được hưởng phụ cấp thâm niên Phụ cấp này nhằm ghi nhận và khuyến khích những cống hiến lâu dài của họ trong công tác bảo đảm an ninh trật tự tại địa phương.
Người lao động có thời gian công tác từ 15 năm trở lên, nếu nghỉ việc vì lý do chính đáng mà chưa đủ điều kiện nghỉ hưu, sẽ được hưởng hỗ trợ ốm đau, tai nạn, thăm hỏi động viên một lần Đặc biệt, Phó trưởng công an xã và Công an viên cũng được áp dụng chính sách này khi có thời gian công tác liên tục từ đủ 15 năm trở lên và nghỉ việc vì lý do chính đáng.
Phó trưởng công an xã và Công an viên khi tham gia đào tạo, huấn luyện về chính trị, pháp luật và nghiệp vụ sẽ nhận chế độ bồi dưỡng tương đương mức tiền ăn cơ bản của chiến sĩ phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân Ngoài ra, trong thời gian công tác, họ cũng được hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội.
Trưởng công an xã, Phó trưởng công an xã và Công an viên có trách nhiệm làm nhiệm vụ thường trực và sẵn sàng chiến đấu tại các khu vực trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự Họ sẽ được hưởng chế độ theo quy định hiện hành.
Trưởng công an xã, Phó trưởng công an xã và Công an viên khi thực hiện nhiệm vụ mà bị thương hoặc hy sinh sẽ được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng Ngoài ra, trong thời gian công tác, Phó trưởng công an xã và Công an viên nếu gặp phải ốm đau sẽ được khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế và có khả năng nhận hỗ trợ tiền khám, chữa bệnh từ ngân sách địa phương.
Chu trình chính sách đãi ngộ là quá trình bao gồm nhiều giai đoạn từ khởi tạo đến triển khai và đánh giá chính sách Trong luận văn này, nghiên cứu sẽ tập trung vào các giai đoạn chính của chu trình đãi ngộ đối với công an xã.
Thứ nhất, giai đoạn xây dựng chính sách đãi ngộ đối với công an xã
Chu trình chính sách công được xem là một quá trình khép kín, bắt đầu từ hoạch định, thực hiện, đến đánh giá kết quả và điều chỉnh những thiếu sót Xây dựng chính sách là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất, quyết định sự thành công của toàn bộ chu trình Một chính sách được xây dựng đúng đắn và khoa học sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc triển khai và mang lại hiệu quả cao, trong khi một chính sách không phù hợp và thiếu khả thi sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lâu dài đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các yếu tố ảnh hưởng tới chính sách đãi ngộ đối với công an xã
1.3.1 Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước Đảng và Nhà nước nếu có chủ trương và chính sách tốt như coi trọng lực lượng công an xã, coi lực lượng công an xã là lực lượng nòng cốt giữ gìn an ninh trật tự cho thôn, làng, cho địa phương và từ đó gây dựng cơ sở vững mạnh để bảo vệ an ninh tổ quốc, bảo vệ an ninh Quốc gia thì chính sách đãi ngộ đối với công an xã mới tốt
Trong bối cảnh đổi mới cải cách hành chính và kinh tế, lực lượng công an xã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố chính quyền cấp cơ sở, góp phần đảm bảo an ninh kinh tế và xã hội Do đó, chính sách đãi ngộ đối với lực lượng này cần được cải thiện để họ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Chính sách của Đảng và Nhà nước coi lực lượng công an xã là đơn vị tham mưu cho chính quyền cấp xã về an ninh trật tự, có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi tệ nạn xã hội và phát triển văn hóa xóm làng Để lực lượng này thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống tội phạm, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý và hiệu quả dành cho công an các xã.
Khi chính sách của Đảng và Nhà nước không coi trọng lực lượng công an xã, xem họ chỉ là sự hỗ trợ cho công an huyện, tỉnh và thành phố trong các công việc phụ và đơn giản, thì chế độ đãi ngộ cho lực lượng này sẽ không được cải thiện.
Kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc ban hành và thực thi chính sách đãi ngộ cho công an xã Khi nền kinh tế phát triển và ổn định, các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp sẽ đóng góp nhiều hơn vào ngân sách Nhà nước, từ đó tạo điều kiện cho việc chi trả lương, thưởng và các khoản hỗ trợ cho lực lượng công an xã Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển kém, ngân sách Nhà nước sẽ không tăng, dẫn đến việc Chính phủ và Bộ Công an không đủ kinh phí để đảm bảo đãi ngộ cho công an xã, làm cho chính sách này bị lãng quên và kém hiệu quả.
Môi trường chính trị ổn định, không có đấu tranh nội bộ hay bè phái, giúp Chính phủ yên tâm và sáng suốt trong việc điều hành và quản lý đất nước Điều này tạo điều kiện cho các chính sách đãi ngộ, đặc biệt là chính sách đãi ngộ đối với công an xã, được quan tâm và thực hiện hiệu quả.
Khi chính trị không ổn định, nội bộ chính quyền xảy ra đấu đá và chia rẽ quyền lực, dẫn đến việc chính phủ phải tập trung vào việc dẹp loạn thay vì xây dựng chính sách đãi ngộ Hệ quả là chính sách đãi ngộ đối với lực lượng công an xã sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, khiến cho họ không nhận được sự hỗ trợ tốt từ chính quyền.
1.3.4 Năng lực chính quyền đ a phương
Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách đãi ngộ cho lực lượng công an xã, đặc biệt là ở cấp xã, nơi gần gũi nhất với lực lượng này Họ hiểu rõ những khó khăn và thách thức mà công an xã phải đối mặt, từ đó có thể đề xuất những chính sách khuyến khích bổ sung bên cạnh các chính sách của Chính phủ và Quốc hội.
Chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong việc tham mưu cho Đảng, Nhà nước và Chính phủ về chính sách đãi ngộ lực lượng công an xã Khi chính quyền địa phương hoạt động hiệu quả, Đảng và Nhà nước sẽ chú trọng hơn đến lực lượng này và triển khai các chính sách tốt hơn để hỗ trợ họ Ngược lại, nếu chính quyền địa phương kém hiệu quả, sẽ khó khăn trong việc xây dựng các chính sách đãi ngộ hợp lý cho công an xã.
Chương 1 của luận văn tập trung luận giải những nội dung lý luận cơ bản như sau:
1 Phân tích là rõ các khái niệm liên quan đến đề tài như: công an xã, chính sách, chính sách đãi ngộ với lực lượng công an xã Theo đó,
Chính sách đãi ngộ công an xã là một loại chính sách công do Nhà nước ban hành, nhằm khuyến khích và động viên lực lượng công an xã thực hiện hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ theo quy định pháp luật.
2 Khái lược các nội dung của chính sách đãi ngộ với công an xã, trong đó tập trung làm rõ chính sách đãi ngộ vật chất đối với công an xã
3 Phân tích quy trình chính sách với các nội dung như: Lập kế hoạch, triển khai thực hiện chính sách đãi ngộ, kiểm soát việc thực hiện chính sách đãi ngộ
4 Đồng thời để làm rõ hơn lý luận về chính sách đãi ngộ với công an xã, việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách đãi ngộ đối với lực lượng công an xã như: Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế, môi trường chính trị, chính quyền địa phương cũng rất cần thiết
Nội dung này sẽ là cơ sở để đánh giá thực trạng chính sách đãi ngộ cho công an xã tại tỉnh Bắc Ninh trong chương 2 của luận văn.
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚICÔNG AN XÃ
Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh và lực lượng công an xã tỉnh Bắc Ninh
công an xã tỉnh Bắc Ninh
2.1.1 Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh, một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng, nằm trong tam giác kinh tế quan trọng giữa Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh, đóng vai trò là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội.
Hình 2.1 Bản đồ địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh có địa giới hành chính tiếp giáp với các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên và thủ đô Hà Nội Theo thống kê năm 2017, tỉnh này có diện tích tự nhiên 823 km², bao gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện (6 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố) và 126 đơn vị hành chính cấp xã (103 xã, thị trấn và 23 phường), trong đó có 44 xã được xác định là trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự, cùng với 731 thôn, khu phố (594 thôn, khu phố thuộc xã, thị trấn).
Phường có 137 khu phố với dân số hơn 1,13 triệu người, trong đó 72,8% sống ở nông thôn và 27,2% ở thành thị Nơi đây thu hút trên 100 nghìn lao động trong và ngoài nước, với mật độ dân cư đông đúc đạt 1.376 người/km2 Khu vực này có 15 khu công nghiệp tập trung, 22 cụm công nghiệp vừa và nhỏ, cùng 120 làng nghề phát triển.
Giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) giai đoạn 2011-
Từ năm 2011 đến 2017, GRDP của Bắc Ninh tăng trưởng mạnh mẽ, từ 14.820 tỷ đồng lên 24.528 tỷ đồng, đứng thứ 6 toàn quốc GRDP bình quân đầu người cũng tăng đáng kể, từ 2.884 USD năm 2011 lên 5.192 USD năm 2017, gấp hơn 1,5 lần Trong giai đoạn 2011 - 2017, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người đạt 16,3%/năm, với khu vực nông thôn đạt 31,6 triệu đồng và tăng 15,8%/năm Năm 2014, thu nhập bình quân đầu người của Bắc Ninh đứng thứ 9 toàn quốc.
Năm 2017, chỉ số phát triển con người (HDI) của Bắc Ninh dự báo đạt 0,83, cho thấy mức độ phát triển cao so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước đạt 109.106 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2016 Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực, với khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 74,3%, dịch vụ 20,7%, và nông, lâm nghiệp, thủy sản chỉ còn 5%.
Năm 2010, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh ước đạt 16.835 tỷ đồng, vượt 104% dự toán năm và tăng 1.684 tỷ đồng so với năm 2016 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt 22,8 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm trước, trong khi tổng thu ước đạt 705.291 tỷ đồng, tăng 9,6% và vượt 3,5% kế hoạch năm.
Bắc Ninh đã trở thành một trong những tỉnh thu hút đầu tư nước ngoài cao nhất tại Việt Nam nhờ vào môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn Năm 2017, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 149 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 454 triệu USD Tính đến nay, Bắc Ninh có 920 dự án FDI với tổng vốn đăng ký vượt 12,2 tỷ USD, bao gồm nhiều tập đoàn lớn như Microsoft, Samsung, PEPSICO, và Canon.
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới đang được thúc đẩy mạnh mẽ Hiện tại, Bắc Ninh là một trong 10 tỉnh hàng đầu cả nước về số lượng tiêu chí đạt chuẩn, với mức trung bình là 17,16 tiêu chí/xã, tăng 1,45 tiêu chí/xã so với năm 2016 Toàn tỉnh đã có những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống nông thôn.
Tính đến nay, 58 xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó không có xã nào đạt dưới 11 tiêu chí Huyện Tiên Du cũng đã hoàn thành tiêu chuẩn huyện nông thôn mới, và thị xã Từ Sơn đã hoàn tất chương trình nông thôn mới.
Các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao không ngừng phát triển, đảm bảo an sinh xã hội Công tác quản lý lễ hội được tăng cường, góp phần thực hiện nếp sống văn minh trong các nghi lễ cưới, tang và lễ hội với nhiều chuyển biến tích cực.
Mặc dù tình hình an ninh, trật tự (ANTT) trên địa bàn tỉnh đã được kiềm chế, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp như khiếu kiện vượt cấp, vi phạm chế độ tài chính và đất đai, ô nhiễm môi trường, quản lý cư trú, cùng với hoạt động tội phạm và tệ nạn xã hội Những vấn đề này đã ảnh hưởng đáng kể đến phát triển kinh tế, xã hội và công tác đảm bảo ANTT, đặc biệt là trong việc xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc Bên cạnh đó, việc tái cơ cấu nông nghiệp kết hợp với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới vẫn còn nhiều bất cập.
Mô hình kinh tế nông nghiệp và nông thôn hiện nay chủ yếu dựa vào kinh tế hộ nhỏ lẻ, manh mún, điều này hạn chế khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất có giá trị cao Việc ứng dụng khoa học - công nghệ trong lĩnh vực này diễn ra chậm và gặp nhiều khó khăn Hơn nữa, mô hình kinh tế hộ đã trở nên không còn phù hợp, trở thành rào cản cho sự phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp Trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp vẫn chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của Bắc Ninh luôn nằm trong top 10 tỉnh tốt nhất cả nước trong những năm gần đây, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những yếu tố thiếu bền vững Năm 2015, Bắc Ninh đạt 60,92 điểm, tăng 2 bậc so với năm 2014 nhưng lại giảm 0,15 điểm Trong số các chỉ số thành phần, tỉnh có 6 chỉ số tăng điểm so với năm trước, bao gồm gia nhập thị trường, tính minh bạch, chi phí thời gian, hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động và cạnh tranh bình đẳng Ngược lại, 4 chỉ số giảm điểm là tiếp cận đất đai, chi phí không chính thức, tính năng động và thiết chế pháp lý.
2.1.2 Lực lượng công an xã tỉnh Bắc Ninh
Lực lượng công an xã tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2017 được trình bày trong Bảng 2.1 dướiđây:
Bảng 2.1 Lực lượng Công an xã tại tỉnh Bắc Ninh Đơn vị tính: Người Đơn vị 2015 2016 2017
Số Công an xã/dân số 0.110% 0.101% 0.096%
Nguồn: Công an tỉnh Bắc Ninh
Theo số liệu Bảng 2.1, lực lượng công an xã tại tỉnh Bắc ninh như sau:
Từ năm 2015 đến 2017, số lượng đồng chí tại các địa phương Bắc Ninh có sự thay đổi nhất định Cụ thể, thành phố Bắc Ninh duy trì 36 đồng chí trong năm 2015 và 2016, giảm còn 35 đồng chí vào năm 2017 Thị xã Từ Sơn giữ ổn định với 52 đồng chí trong năm 2015 và 2016, tăng lên 58 đồng chí vào năm 2017 Huyện Tiên Du có 150 đồng chí trong năm 2015 và 2016, tăng nhẹ lên 151 đồng chí vào năm 2017 Huyện Yên Phong giữ ổn định ở 143 đồng chí trong năm 2015 và 2016, giảm xuống 142 đồng chí vào năm 2017 Huyện Quế Võ không có số liệu cụ thể cho năm 2015 và 2016.
Trong giai đoạn 2015 đến 2017, số lượng đồng chí tại các huyện có sự biến động rõ rệt Cụ thể, huyện Thuận Thành ghi nhận 210 đồng chí vào năm 2015, tăng lên 225 đồng chí vào năm 2017 Huyện Gia Bình có 145 đồng chí trong năm 2015 và 2016, với một chút tăng nhẹ lên 147 đồng chí vào năm 2017 Huyện Lương Tài giữ ổn định số lượng đồng chí ở mức 179 trong năm 2015 và 2016, nhưng giảm nhẹ xuống còn 178 đồng chí vào năm 2017.