CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CƠ SƠ LÝ LUẬN
1.1 Giải phẫu và sinh lý túi mật, đường mật [1],[5]
Hình 1.1: Hình thể ngoài túi mật [1]
Túi mật là một cơ quan hình quả lê, nằm sát dưới gan phải, có chức năng lưu trữ mật trước khi nó được phóng thích vào tá tràng Kích thước của túi mật dài khoảng 8–10cm và rộng nhất từ 3–4cm, với dung tích trung bình từ 30–40ml, có thể đạt tới 50ml khi căng đầy.
Túi mật gồm có ba phần: đáy, thân, và cổ túi mật
Đáy túi mật (fundus vesica fellea) nằm ở vị trí khuyết túi mật trên bờ trước của gan và giao điểm với bờ ngoài cơ thẳng to ở bên phải Mặt trong của túi mật không phẳng, với niêm mạc có nhiều nếp gấp giúp túi mật có khả năng căng và giãn Các nếp này cũng tạo ra nhiều hố con, nơi mà sỏi có thể hình thành hoặc lưu lại.
- Thân túi mật chạy chếch từ trên xuống dưới, ra sau và sang trái, có 2 mặt: mặt trên và mặt dưới
Cổ túi mật (collum vesica fellea) nằm cách gan khoảng 0,5 cm, có hình dạng phình to ở giữa và hai đầu hẹp lại Đầu trên gấp vào thân túi mật, trong khi đầu dưới gấp vào ống túi mật Cổ túi mật được treo vào gan bởi mạc treo túi mật, trong đó có động mạch túi mật cung cấp máu cho túi mật Phía trên cổ túi mật có một hạch bạch huyết (hạch Mascagni), đóng vai trò là mốc xác định khi phẫu thuật.
Hình 1.2: Túi mật và đường mật ngoài gan [5]
Mặt trong của túi mật không phẳng mà có nhiều nếp niêm mạc giúp túi mật co giãn hiệu quả Các nếp niêm mạc này tạo thành các hốc gọi là túi Luschka ở hai đầu phễu túi mật Ngoài ra, tại vị trí giao giữa thân túi mật và cổ túi mật, cũng như giữa cổ túi mật và ống túi mật, có hai van được hình thành do các nếp niêm mạc nổi gờ lên.
Ống cổ túi mật là một cấu trúc nối liền từ cổ túi mật đến ống mật chủ (OMC), có chiều dài khoảng 1 – 3cm và đường kính khoảng 2,5mm Ống này chạy chếch xuống dưới, sang trái và hơi ra sau, nằm gần ống gan Phần cuối của ống cổ túi mật phình ra thành phễu con, với đầu trên tạo thành một góc mở ra phía trước.
Sự thay đổi về giải phẫu ống cổ túi mật có thể gây khó khăn cho phẫu thuật viên, và đôi khi dẫn đến tai biến trong phẫu thuật cắt túi mật Các dạng thay đổi chủ yếu của ống cổ túi mật cần được nhận diện để giảm thiểu rủi ro trong quá trình phẫu thuật.
Ống cổ túi mật đổ trực tiếp vào ống gan phải là tình trạng nguy hiểm nhất, với tỷ lệ gặp khoảng 2% Việc phát hiện nhanh chóng trong quá trình phẫu thuật là rất cần thiết để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
+ Ống cổ túi mật dài bắt chéo phía sau hoặc phía trước và đổ vào bờ trái ống mật chủ dạng thay đổi này gặp 7%
+ Ống cổ túi mật hợp cùng với một ống mật phụ từ gan phải cùng đổ vào ống mật chủ dạng thay đổi này gặp 2 - 9%
Động mạch túi mật là một nhánh của động mạch gan riêng, có vị trí và kích thước thay đổi Nó đi trong tam giác Calot, được xác định bởi ống gan chung ở trong, ống cổ túi mật ở ngoài và động mạch túi mật Động mạch này đi từ dưới lên trên, sang phải và ra trước, chia nhánh cho ống cổ túi mật và túi mật Đặc biệt, trong một số trường hợp, động mạch túi mật có thể xuất phát từ nhánh động mạch hạ phân thuỳ V hoặc VI và đi xuống trong mạc treo túi mật.
Chi phối túi mật đến từ các nhánh thần kinh từ đám rối tạng, chạy dọc theo động mạch gan, bao gồm cả nhánh vận động từ dây thần kinh X.
1.1.2 Tam giác gan mật, tam giác Calot
Tam giác gan mật được hình thành bởi ống túi mật, ống gan chung và rãnh ngang của rốn gan Trong khu vực này, động mạch túi mật chạy ngang qua, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống mật.
Tam giác Calot, được mô tả bởi Calot vào năm 1891, là một cấu trúc giải phẫu quan trọng trong hệ thống gan mật Nó được giới hạn bởi ống gan chung bên trong, ống túi mật bên ngoài và động mạch túi mật ở phía trên Vị trí xuất phát của động mạch túi mật trong tam giác này thường thay đổi, với khoảng 72% nằm trong tam giác Những biến đổi nội soi của động mạch túi mật cũng được ghi nhận, với tỷ lệ khoảng 22%, trong khi có khoảng 6% trường hợp động mạch túi mật chạy dưới ống túi mật.
Trong phẫu thuật nội soi cắt túi mật, tam giác gan mật giữ vai trò quan trọng và thường hằng định, giúp xác định vùng phẫu thuật một cách chính xác Ngược lại, tam giác Calot có thể thay đổi do những bất thường liên quan đến động mạch túi mật.
Trong tam giác Calot, các động mạch Calot là những nhánh nhỏ từ động mạch túi mật, có vai trò cung cấp máu cho ống túi mật Mặc dù không quan trọng trong phẫu thuật mở cắt túi mật, nhưng các nhánh này có thể gây chảy máu và làm khó khăn trong quá trình phẫu tích nội soi vùng tam giác gan mật.
Hình 1.3: Tam giác gan mật - Tam giác Calot [5]
1.1.3 Những biến đổi về giải phẫu[10]
1.1.3.1 Biến đổi giải phẫu túi mật
- Những biến đổi bất thường về giải phẫu của túi mật thường liên quan đến số lƣợng, hình dạng và vị trí của túi mật
+ Các trường hợp không có túi mật bẩm sinh là rất hiếm, tỷ lệ này gặp trong phẫu thuật xác là khoảng 0,03%
+ Ngoài ra các trường hợp hiếm gặp khác như túi mật trong gan hay túi mật nằm ở bên trái dây chằng tròn
Túi mật đôi với hai buồng riêng biệt và hai ống túi mật riêng là một tình trạng hiếm gặp, chỉ chiếm khoảng 1/4000 trường hợp Thường gặp túi mật phụ bên trái, ống túi mật của nó thường kết nối với ống gan trái.
Túi mật có thể xuất hiện ở những vị trí bất thường, điều này rất quan trọng trong cắt túi mật nội soi Một số trường hợp, túi mật "lơ lửng" tự do trong ổ bụng khi hoàn toàn được bao bọc bởi phúc mạc mà không được treo vào gan Trong những trường hợp hiếm, túi mật dính ít vào gan, phúc mạc bao quanh tạo thành một mạc treo, kết nối cổ túi mật vào gan Tình trạng này xảy ra khoảng 5% trường hợp và có thể dẫn đến xoắn gây hoại tử túi mật Ngoài ra, túi mật cũng có thể nằm một phần hoặc hoàn toàn trong gan, điều này liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ sỏi túi mật.
Hình 1.4: Các hình thái của 2 túi mật [5]
1.1.3.2 Biến đổi giải phẫu ống túi mật
- Các dạng hợp nhất của ống túi mật với ống gan chung có thể là tạo góc, song song hoặc xoắn
+ Dạng tạo góc thường gặp nhất chiếm khoảng 75% trường hợp
+ Ống túi mật có thể chạy song song với ống gan chung và dính vào ống gan chung khoảng 20% trường hợp
+ Ống túi mật xoắn trước hoặc sau rồi đổ vào đường mật chính bên trái gặp khoảng 5%
CƠ SƠ THỰC TIỄN
2.1 Quy trình chăm sóc NB sau cắt túi mật nội soi [9]
2.1.1 Nhận định tình trạng NB
- Nhận định toàn trạng, dấu hiệu sinh tồn
- Vết mổ có chảy máu không? Có dịch thấm băng không?
- Theo dõi tình trạng bụng: chướng, đau, nhu động ruột
- Theo dõi và xác định vùng đau trên bụng NB sau phẫu thuật
- Tình trạng da niêm, vàng da, so sánh với trước phẫu thuật, dấu hiệu mất nước, vàng da
- Theo dõi nước tiểu: so sánh màu vàng của nước tiểu, nhất là số lượng nước tiểu
- Tình trạng ống sonde dạ dày, ống dẫn lưu ổ bụng: màu sắc, số lượng, thời gian, tình trạng bụng Đánh giá vàng da, xét nghiệm, Creatinine, Bilirubin
- Dấu hiệu mất nước, rối loạn điện giải
- Nhận định tiền sử bệnh, hoàn cảnh kinh tế, tâm lý NB?
2.1.2 Chăm sóc tư thế nằm ngay sau phẫu thuật
- Khi NB chƣa tỉnh: cho nằm đầu ngửa tối đa
- Khi NB tỉnh cho nằm tư thế Fowler, nghiêng về phía có ống dẫn lưu
2.1.3 Chăm sóc dấu hiệu sinh tồn
- Hô hấp: NB phải thở tốt, nhịp thở đều, êm, không có biểu hiện tím tái, nếu
NB thở nhanh nông, tím tái phải cấp cứu hút đờm dãi cho thở oxy và báo bác sĩ ngay để cấp cứu suy hô hấp
- Tuần hoàn: Phải đo mạch, huyết áp 15- 30 phút/lần Nếu mạch nhanh, huyết áp tụt có thể sốc hoặc chảy máu sau phẫu thuật
- Nhiệt độ: Đôi khi sau phẫu thuật NB bị tụt nhiệt độ, phải cho ủ ấm, hoặc sưởi ấm cho NB, nếu sốt cao phải cho hạ nhiệt
- Cho vận động sớm: NB ổn định cho ngồi dậy sớm, vỗ lƣng, tập thở sâu, tập ho để phòng ngừa viêm phổi
2.1.5 Chăm sóc ống dẫn lưu, Sonde dạ dày
- Ống dẫn lưu dưới gan: Thường được rút sớm sau 2-3 ngày nếu ống khô Theo dõi số lƣợng dịch, màu sắc dịch
- Dẫn lưu túi mật (nếu có): ống dẫn lưu bằng ống Malecot hoặc ống Pezzer Theo dõi như ống dẫn lưu Kehr
Nếu bệnh nhân còn đặt ống hút dạ dày, cần theo dõi tình trạng ổ bụng và ghi lại số lượng cũng như màu sắc dịch chảy qua sonde dạ dày để thông báo cho bác sĩ về việc bồi phụ nước và điện giải Ống sonde dạ dày sẽ được rút khi bệnh nhân có trung tiện.
- Vết mổ không nhiễm trùng thì 7 ngày sau cắt chỉ
- Vết mổ ƣớt thay băng, phù nề cắt chỉ thƣa
- Vết mổ chảy máu, băng ép cầm máu, không cầm máu đƣợc báo bác sĩ xử lý
+ Truyền dịch, đạm hoặc truyền máu khi NB chƣa có trung tiện
+ Cho ăn thức ăn nhẹ, dễ tiêu Hạn chế ăn mỡ nếu NB có kèm theo cắt túi mật
2.1.8 Theo dõi và phát hiện một số biến chứng sớm
Suy hô hấp là tình trạng nghiêm trọng với các dấu hiệu như khó thở, tím tái, khò khè, nhịp thở nhanh và nông, cánh mũi phập phồng, cần báo ngay cho bác sĩ Điều dưỡng cần kiểm tra hiện tượng trào ngược và xem có tắc đường thở do tụt lưỡi hoặc ứ đọng đờm dãi hay không Các biện pháp xử lý bao gồm hút đờm, cung cấp oxy và bóp bóng.
- Chảy máu sau phẫu thuật: NB nhợt nhạt, thở nhanh, mạch nhanh, huyết áp tụt báo bác sĩ ngay để có y lệnh xử trí kịp thời
Chảy máu đường mật là tình trạng nghiêm trọng, biểu hiện qua hội chứng mất máu, với dấu hiệu chảy nước mật lẫn máu tươi từ ống dẫn lưu Kehr Khi gặp phải tình huống này, cần báo ngay cho bác sĩ và chuẩn bị các phương tiện hồi sức tuần hoàn cùng với dụng cụ bơm thông ống dẫn lưu Kehr để xử lý kịp thời.
- Rò mật vào ổ bụng: Biểu hiện hội chứng viêm phúc mạc mật
- Giữ vệ sinh ăn uống, tẩy giun định kỳ
- Giáo dục cho NB các triệu chứng phát hiện sớm, đi khám ngay khi có dấu hiệu sỏi tái phát
2.2 Các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.1 Ở Việt nam Ở Việt Nam, các nghiên cứu về sỏi túi mật, cắt túi mật nội soi tương đối nhiều, nhưng chưa có nghiên cứu nào về chăm sóc người bệnh sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi
Năm 2010, nghiên cứu cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện quân Y 103 trên 71 bệnh nhân cho thấy kết quả phẫu thuật khả quan với tỷ lệ thành công đạt 95,8% Biến chứng sau mổ rất thấp, chủ yếu xảy ra ở những bệnh nhân có bệnh lý nền hoặc viêm túi mật hoại tử, với tỷ lệ biến chứng chỉ là 3% Thời gian trung tiện trung bình của bệnh nhân là 44,7 ± 16,2 giờ.
Nghiên cứu của Lê Văn Duy năm 2017 về cắt túi mật nội soi ở người cao tuổi tại Bệnh viện Bạch Mai cho thấy tỷ lệ biến chứng chung là 8,03%, trong đó 16,67% là ca mổ cấp cứu và 2,94% là mổ phiên Đáng chú ý, 68,97% bệnh nhân có bệnh lý kèm theo như tiểu đường, tăng huyết áp, và bệnh tim mạch Thời gian trung tiện trung bình của bệnh nhân là 1,84 ± 0,89 ngày, trong khi thời gian nằm viện trung bình là 5,51 ± 3,07 ngày, với thời gian nằm viện ngắn nhất là 2 ngày và dài nhất là 16 ngày.
Nghiên cứu của Đặng Quốc Ái vào năm 2017 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội về phẫu thuật cắt túi mật nội soi trên 80 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ tai biến là 8,8% Nghiên cứu khẳng định rằng phẫu thuật nội soi không chỉ có tính thẩm mỹ cao mà còn giúp rút ngắn thời gian nằm viện, với kết quả phẫu thuật đạt 98,6%.
Năm 2018, nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật cắt túi mật nội soi của Hoàng Việt dũng trên 40 người bệnh cho thấy tỷ lệ biến chứng 7,6%
- Năm 1890 Luwig Courvoisier là người đầu tiên phẫu thuật mở ống mật chủ lấy sỏi
Vào năm 1896, Kehr đã tiên phong trong việc đề xuất sử dụng dẫn lưu trong đường mật sau khi thực hiện mở đường mật để lấy sỏi, và ông đã phát minh ra ống dẫn lưu mang tên ông, ống dẫn lưu Kehr.
- Năm 1897 Quenu là người đầu tiên thực hiện phẫu thuật mở ống mật chủ lấy sỏi có đặt dẫn lưu Kehr.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Đặc điểm bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội thành lập từ năm 2007
- Địa chỉ: Số 1 Tôn Thất Tùng, Phường Trung Tự, Quận Đống Đa, Hà Nội
Hình 2.1: Hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Kể từ khi thành lập, Bệnh viện đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong công tác khám chữa bệnh, với đội ngũ hơn 1000 cán bộ nhân viên, trong đó có trên 600 cán bộ cơ hữu.
+ Hơn 100 cán bộ kiêm nhiệm
+ Trên 300 cán bộ của trường Đại học Y Hà Nội tham gia công tác khám chữa bệnh
- Bệnh viện Đại học Y Hà Nội có 9 phòng chức năng, 6 trung tâm, 14 khoa lâm sàng, 7 khoa cận lâm sàng
Bệnh viện sở hữu đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, bao gồm các PGS.TS, TS, thạc sĩ và bác sĩ CKII, CKI, với trình độ chuyên môn cao và nhiều năm kinh nghiệm lâm sàng.
Khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, thành lập năm 2007, thực hiện trung bình từ 5.000 đến 5.300 ca phẫu thuật tiêu hóa, gan mật mỗi năm Hiện tại, khoa có 13 bác sĩ và 14 điều dưỡng, phục vụ 61 giường bệnh với số lượng bệnh nhân trung bình từ 75 đến 90 mỗi ngày Với nguyên tắc lấy bệnh nhân làm trung tâm, khoa đảm bảo chăm sóc toàn diện, chất lượng và an toàn, đạt tỷ lệ hài lòng rất cao, với hơn 90% bệnh nhân sẵn sàng quay lại hoặc giới thiệu người thân đến điều trị Công tác điều dưỡng được quản lý và giám sát chặt chẽ bởi phòng Điều dưỡng Bệnh viện thông qua các hoạt động cụ thể hàng ngày.
Tất cả người bệnh phẫu thuật cắt túi mật nội soi từ 24/10/2020 đến 15/11/2020
2.1.2 Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2 Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Chọn mẫu: Toàn bộ quần thể gồm có 32 người bệnh phẫu thuật cắt túi mật nội soi từ 24/10/2020 đến 15/11/2020.
Thực trạng chăm sóc NB sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi
Qua khảo sát 32 bệnh nhân sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi tại Khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, chúng tôi đã thu được những kết quả đáng chú ý.
2.2.1 Chăm sóc tư thế nằm ngay sau phẫu thuật
Sau phẫu thuật, bệnh nhân thường cảm thấy đau lan lên vai phải và chướng bụng do khí CO2 được bơm vào ổ bụng Để giảm triệu chứng này, điều dưỡng nên hướng dẫn bệnh nhân nằm ở tư thế Sim (nghiêng trái, gập gối) và khuyến khích họ thực hiện các bài thở sâu.
Hình: 2.2: Điều dưỡng hỗ trợ NB tư thế nằm sau phẫu thuật
- Kết quả chăm sóc tƣ thế nằm chúng tôi thu đƣợc cả 32 NB (chiếm 100%) đƣợc điều dưỡng hướng dẫn nằm đúng tư thế ngay sau khi phẫu thuật
3.2.2 Chăm sóc dấu hiệu sinh tồn
Dấu hiệu sinh tồn cần được theo dõi dựa trên tình trạng bệnh nhân, giai đoạn bệnh và loại phẫu thuật thực hiện Trong ngày đầu sau phẫu thuật, người điều dưỡng phải kiểm tra dấu hiệu sinh tồn mỗi 30-60 phút, với thời gian theo dõi kéo dài từ 12 đến 24 giờ Nếu dấu hiệu sinh tồn ổn định trong những ngày tiếp theo, việc theo dõi có thể giảm xuống còn 2 lần mỗi ngày.
Hình 2.3: Hình ảnh điều dưỡng chăm sóc DHST
Hình 2.4: Hình ảnh bảng theo dõi dấu hiệu sinh tồn
Trong chuyên đề này, chúng tôi nhận thấy rằng việc theo dõi dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân (NB) chưa được thực hiện đúng quy định Trong 12 giờ đầu, 100% bệnh nhân được theo dõi đầy đủ các chỉ số như huyết áp, mạch, nhịp thở và nhiệt độ Tuy nhiên, trong những ngày tiếp theo, chỉ có 24 trên 32 bệnh nhân (75%) được theo dõi đầy đủ, trong khi 25% còn lại chỉ được theo dõi một lần mỗi ngày, chủ yếu tập trung vào huyết áp và nhiệt độ, trong khi các chỉ số mạch và nhịp thở không được chú trọng.
Các chỉ số sinh tồn của người bệnh có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi điều dưỡng không thực hiện đúng quy trình, chẳng hạn như không thông báo và không để người bệnh nghỉ ngơi 15 phút trước khi đo Điều này dẫn đến độ chính xác của các chỉ số sinh tồn giảm sút, với 100% người bệnh không được điều dưỡng hướng dẫn nghỉ ngơi trước khi thực hiện đo dấu hiệu sinh tồn.
Chăm sóc vận động
- Vận động đúng sau phẫu thuật sẽ giúp cho NB tránh đƣợc nhiều biến chứng như: viêm phổi, viêm đường hô hấp
Sau phẫu thuật, việc điều dưỡng hỗ trợ bệnh nhân trong 6 giờ đầu là rất quan trọng Trong thời gian này, bệnh nhân được hướng dẫn tập vận động tại giường, thay đổi tư thế và đi lại nhẹ nhàng trong phòng Những hoạt động này không chỉ giúp kích thích quá trình trung tiện mà còn góp phần vào việc phục hồi sức khỏe nhanh chóng.
Hình 2.5 Hình ảnh điều dưỡng giúp NB tập vận động sau phẫu thuật
Trong chuyên đề này, kết quả cho thấy có 17/32 bệnh nhân (46,85%) thực hiện tập vận động mà không có sự hỗ trợ trực tiếp từ điều dưỡng Thay vào đó, người nhà bệnh nhân chủ yếu đảm nhận vai trò này, trong khi điều dưỡng chỉ hướng dẫn cách tập cho người nhà mà ít tham gia trực tiếp Điều này dẫn đến việc vận động của bệnh nhân không được giám sát thường xuyên.
Chăm sóc ống dẫn ổ bụng, sonde dạ dày
Ống dẫn lưu dưới gan và ống dẫn lưu ổ bụng được kết nối với vỏ chai dịch vô khuẩn, được đặt thấp hơn ổ bụng để ngăn ngừa trào ngược, từ đó giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn ngược dòng và đảm bảo tính kín đáo của hệ thống.
- Theo dõi số lượng, màu sắc dịch dạ dày Thường sonde dạ dày được rút trong vòng 24 - 48h đầu sau phẫu thuật khi NB có trung tiện
Theo dõi số lượng, màu sắc và tính chất dịch dẫn lưu sau phẫu thuật là rất quan trọng Nếu dịch dẫn lưu có màu vàng, điều dưỡng cần chú ý đến khả năng rò mật và ghi chép lại trong hồ sơ, đồng thời thông báo cho bác sĩ Thông thường, dịch dẫn lưu này được sử dụng để phòng ngừa, và bác sĩ sẽ ra y lệnh rút ống dẫn lưu sớm nếu lượng dịch dưới 50ml trong 24 giờ.
- Kết quả thu đƣợc của chúng tôi trong chuyên đề thấy tất cả NB đƣợc chăm sóc ống dẫn ổ bụng, sonde dạ dày đúng quy định
Hình 2.6 Hình ảnh người bệnh đặt dẫn lưu cắt túi mật nội soi.
Chăm sóc vết mổ
Sau khi phẫu thuật cắt túi mật bằng phương pháp nội soi, điều dưỡng cần theo dõi chảy máu tại vết mổ và kiểm tra xem có dịch thấm băng hay không Nếu phát hiện dịch thấm băng, cần tiến hành thay băng và quan sát vết mổ kỹ lưỡng Trong trường hợp có chảy máu, điều dưỡng phải báo ngay cho bác sĩ để có phương án xử trí kịp thời.
Hình 2.7: Bộ dụng cụ thay băng
Kết quả thu đƣợc của chúng tôi là:
Mỗi nhân viên y tế sử dụng một bộ dụng cụ thay băng riêng biệt, được đóng gói cẩn thận và cung cấp bởi khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, nhằm đảm bảo tiêu chuẩn vô khuẩn cao nhất.
- Người điều dưỡng thực hiện đúng quy trình kỹ thuật thay băng đã được ban hành theo Bộ Y tế quy định
Chăm sóc vết mổ gặp một số hạn chế, đặc biệt là vấn đề vệ sinh tay của người điều dưỡng Chỉ có 32,92% nhân viên y tế tuân thủ đầy đủ 5 thời điểm vệ sinh tay, điều này có thể dẫn đến nguy cơ nhiễm khuẩn chéo giữa các bệnh nhân.
Hình 2.8: Điều dưỡng thay băng vết mổ
Chăm sóc dinh dƣỡng
Đây là vấn đề rất quan trọng đối với NB sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi,
Bệnh nhân bị sỏi đường mật thường gặp khó khăn trong việc ăn uống, dẫn đến nguy cơ suy kiệt Do đó, chế độ ăn uống cần được chú trọng, đảm bảo cân đối giữa các thành phần dinh dưỡng và phù hợp với từng loại bệnh Trong thời gian điều trị tại bệnh viện, khoa dinh dưỡng cung cấp chế độ ăn bệnh lý, nhưng điều dưỡng chưa thực sự chú ý đến việc tư vấn cụ thể cho bệnh nhân về chế độ ăn này Cần bổ sung thêm sữa và nước hoa quả để nâng cao thể trạng cho bệnh nhân.
Chăm sóc dinh dưỡng sau phẫu thuật gặp nhiều thách thức, đặc biệt là khi bệnh nhân (NB) chưa có nhu động ruột và phải nhịn ăn, được nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch với 1000ml dung dịch Glucose 5% và 500ml dung dịch Aminoplasma 10% mỗi ngày Khi NB bắt đầu có nhu động ruột, việc ăn uống chủ yếu do người nhà đảm nhiệm, dẫn đến việc dinh dưỡng không được giám sát chặt chẽ Điều này ảnh hưởng đến quá trình phục hồi sau phẫu thuật, mặc dù khoa dinh dưỡng của bệnh viện đã cung cấp suất ăn bệnh lý, nhưng chỉ có 48,78% NB thực hiện theo chế độ dinh dưỡng đã hướng dẫn.
NB tự phục vụ theo nhu cầu sở thích của cá nhân.
Chăm sóc vệ sinh
Kết quả nghiên cứu cho thấy, bệnh nhân tại bệnh viện được cung cấp đầy đủ quần áo và chăn màn, đồng thời được thay đổi quần áo hàng ngày theo quy định Tuy nhiên, việc vệ sinh cá nhân chủ yếu do người nhà đảm nhiệm, với chỉ 28,05% bệnh nhân được hỗ trợ.
NB nặng đƣợc điều dƣỡng trực tiếp vệ sinh thân thể cho NB, điều này dễ dẫn đến
NB không đƣợc vệ sinh thân thể sạch sẽ.
Theo dõi và phát hiện một số biến chứng sớm
Sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi, bệnh nhân có thể gặp phải một số biến chứng, vì vậy việc theo dõi chặt chẽ là rất cần thiết Điều dưỡng cần xây dựng kế hoạch chăm sóc hàng ngày phù hợp để giảm thiểu nguy cơ biến chứng có thể xảy ra.
- Chảy máu sau phẫu thuật
Để phòng ngừa biến chứng trong điều trị viêm tụy cấp, điều dưỡng cần theo dõi sát sao bệnh nhân và hướng dẫn họ thực hiện các động tác đơn giản như ngồi dậy, xoay người nhẹ nhàng và đi lại quanh giường Những hoạt động này nên được thực hiện sau khi bệnh nhân nhận thuốc giảm đau, nhằm kích thích nhanh chóng nhu động ruột và hỗ trợ quá trình lành vết mổ Trong số 32 bệnh nhân được nghiên cứu trong chuyên đề này, chỉ có
01 NB xuất hiện biến chứng sau phẫu thuật là nhiễm trùng vết mổ chiếm 3,1% do
NB cao tuổi, túi mật viêm dính/ NB đái tháo đường tuýp II được phẫu thuật cấp cứu có đặt dẫn lưu ổ bụng
Hình 2.9 Hình ảnh truyền thông, giáo dục sức khỏe cho NB
Sỏi túi mật là bệnh có nguy cơ tái phát cao, vì vậy việc tư vấn cho người bệnh về cách phát hiện bệnh, nhận thức đúng về chế độ ăn uống, sinh hoạt, cũng như việc tuân thủ đúng phác đồ dùng thuốc và lịch tái khám là rất quan trọng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng người điều dưỡng đã thực hiện giáo dục sức khoẻ cho bệnh nhân, nhưng vẫn chưa chú trọng đầy đủ đến tâm tư và nguyện vọng của họ Điều này dẫn đến việc chưa đáp ứng hết các nhu cầu của bệnh nhân, đặc biệt trong bối cảnh số lượng bệnh nhân đông.
Tư vấn và giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân (NB) chưa được thực hiện đầy đủ và thường xuyên, với chỉ 67,07% NB nhận được thông tin về bệnh sỏi túi mật Phần lớn bệnh nhân vẫn thiếu kiến thức cần thiết về bệnh và cách tự chăm sóc trong và sau khi ra viện Nhiều bệnh nhân còn lúng túng trong việc tự chăm sóc bản thân và có những lo lắng liên quan đến tình trạng sức khỏe của mình.
Giáo dục sức khoẻ
3.1.1 Kết quả chăm sóc NB cắt túi mật nội soi:
Trong 32 NB đƣợc phẫu thuật nội soi cắt túi mật Hầu hết NB đƣợc rút sonde dạ dày ngay ngày đầu sau phẫu thuật NB chủ yếu trung tiện vào ngày đầu sau phẫu thuật, chiếm 70,7% Ngắn nhất là 1 ngày, dài nhất là 4 ngày sau phẫu thuật Trung bình trung tiện sau 1,51 ± 0,69 ngày Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả thấp hơn nghiên cứu của Lê Văn Duy thời gian trung tiện trung bình của tác giả là 1,84± 0,89 ngày, chủ yếu là trong 2 ngày đầu (chiếm 79,31%), lâu nhất là 5 ngày [10] Đạt đƣợc kết quả nhƣ trên là do điều dƣỡng đã giúp NB vận động sớm, thay đổi tƣ thế, hướng dẫn tư thế nằm, vận động ngay những giờ đầu sau phẫu thuật, và 100% điều dưỡng đã lập kế hoạch chăm sóc và thực hiện chăm sóc NB theo 05 bước của kế hoạch chăm sóc, đƣợc điều dƣỡng chăm sóc, theo dõi sát ngay từ những giờ đầu sau phẫu thuật
Hầu hết bệnh nhân sau phẫu thuật đều được theo dõi dấu hiệu sinh tồn theo quy định, tuy nhiên, có đến 26,83% bệnh nhân chỉ được theo dõi một lần trong ngày, chủ yếu tập trung vào huyết áp và nhiệt độ, trong khi chỉ số mạch và nhịp thở lại không được chú trọng Tất cả bệnh nhân đều không nhận được hướng dẫn nghỉ ngơi từ điều dưỡng trước khi đo dấu hiệu sinh tồn, dẫn đến khả năng sai lệch kết quả Tình trạng này thường xảy ra ở những bệnh nhân có sức khỏe ổn định sau phẫu thuật, đặc biệt vào giờ trực khi nhân lực điều dưỡng hạn chế và số lượng bệnh nhân đông.
Việc vệ sinh thân thể của bệnh nhân thường được hỗ trợ bởi người nhà, chỉ có 28,5% bệnh nhân nặng và người cao tuổi được điều dưỡng trực tiếp chăm sóc vệ sinh răng miệng và thân thể Điều này có thể được lý giải bởi phân cấp chăm sóc, trong đó những bệnh nhân phẫu thuật nội soi cắt túi mật thường hồi phục sức khỏe nhanh chóng và có thể tự vệ sinh cá nhân ngay từ ngày đầu sau phẫu thuật.
NB lại có 01 người nhà hỗ trợ chăm sóc NB cũng mong muốn được người nhà ngồi
BÀN LUẬN
Giải pháp để giải quyết, khắc phục vấn đề
Cần thiết lập và duy trì chương trình vệ sinh tay cho nhân viên y tế trong bệnh viện, đảm bảo trang bị đầy đủ thiết bị và vật tư cần thiết để khuyến khích việc tuân thủ vệ sinh tay Đồng thời, cần nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của vệ sinh tay, tăng cường công tác tuyên truyền và giám sát để đảm bảo hiệu quả của chương trình.
Tổ chức đào tạo nâng cao chuyên môn cho điều dưỡng là cần thiết để cập nhật kiến thức mới, giúp họ cải thiện kỹ năng trong công tác chăm sóc và tư vấn giáo dục sức khỏe.
- Mở rộng cơ sở hạ tầng, có thêm phòng bệnh, giường bệnh, phòng truyền thông giáo dục sức khỏe cho NB
Điều dưỡng trưởng cần giám sát chặt chẽ quy trình theo dõi dấu hiệu sinh tồn của điều dưỡng viên, đảm bảo việc ghi chép vào bảng phiếu theo dõi được thực hiện đầy đủ Ngoài ra, việc tổ chức họp rút kinh nghiệm thường xuyên cho các điều dưỡng viên cũng rất quan trọng để nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
- Điều dưỡng trưởng phải tăng cường giám sát việc thực hiện quy trình của điều dƣỡng viên
Trong các buổi họp Hội đồng người bệnh cấp khoa, việc lồng ghép tư vấn giáo dục sức khỏe cho người bệnh là rất quan trọng Đồng thời, cần giám sát điều dưỡng thực hiện tư vấn giáo dục sức khỏe hàng ngày cho người bệnh để đảm bảo hiệu quả và chất lượng chăm sóc.
- Có thể làm tờ rơi, poster để tuyên truyền giúp NB hiểu về bệnh và cách chăm sóc bản thân
3.2.3 Đối với điều dưỡng viên
Để nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân, cần phát triển ý thức tự giác, lòng yêu nghề và đạo đức nghề nghiệp trong đội ngũ điều dưỡng Điều này bao gồm việc có tinh thần trách nhiệm trong việc chăm sóc bệnh nhân, thường xuyên theo dõi và hướng dẫn họ về chế độ ăn uống sau phẫu thuật Điều dưỡng cũng cần đảm bảo bệnh nhân được ăn uống đầy đủ, vệ sinh răng miệng và thân thể hàng ngày để nâng cao sức khỏe và sự thoải mái cho họ.
- Cần tuân thủ 5 thời điểm rửa tay và thực hiện thành thạo quy trình rửa tay, tạo thói quen vệ sinh bàn tay trong chăm sóc NB
Cần thiết phải trực tiếp hỗ trợ việc vận động cho bệnh nhân, khuyến khích sự tham gia của người nhà nhưng cần có hướng dẫn cụ thể và giám sát chặt chẽ để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Cần cung cấp hướng dẫn và hỗ trợ cho người nhà bệnh nhân, đồng thời giám sát quá trình chăm sóc vệ sinh để tránh các biến chứng có thể xảy ra do thiếu kiến thức về bệnh tật và tự chăm sóc không đúng cách.
Điều dưỡng nên dành nhiều thời gian hơn để trò chuyện và tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người bệnh Việc tư vấn và giáo dục sức khỏe sẽ giúp người bệnh cảm thấy yên tâm hơn trong quá trình điều trị.