1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tính thống nhất và đa dạng của văn minh Đông Nam Á

47 879 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 47
Dung lượng 252,27 KB

Cấu trúc

  • LỜI MỞ ĐẦU

    • * Phạm vi nghiên cứu: lịch sử văn minh quốc gia khu vực Đông Nam Á.

    • 4. Phương pháp nghiên cứu

    • Đề tài nghiên cứu sử dụng một số phương pháp như: phương pháp logic – lịch sử, phương pháp đọc và phân tích tài liệu, so sánh,…

  • NỘI DUNG CHÍNH

  • CHƯƠNG 1. NHỮNG YẾU TỐ TẠO THÀNH

  • TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG

    • 1.1. Điều kiện tự nhiên

    • 1.2. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á

    • 1.3. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á

  • a. Thời kỳ hình thành các vương quốc cổ (TNK II TCN- IX)

  • Khoảng giữa TNK II TCN, trên cơ sở phát triển của đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt, các dân tộc ở Đông Nam Á bắt đầu đứng trước ngưỡng cửa của xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong số các dân tộc này, cư dân sông Hổng có điều kiện phát triển nhanh và sớm hơn cả. Nhà nước Văn Lang hình thành với nền văn hoá Đông Sơn nổi tiếng ra đời vào khoảng thế kỷ VII TCN. Văn hoá Đông Sơn với kỹ thuật chế tác đồng thau đạt tới đỉnh cao đã lan toả ra cả vùng Đông Nam Á. Hiện nay đã tìm thấy 26 địa điểm trong khu vực Đông Nam Á có trống đồng Đông Sơn.

  • Đến thứ kỷ VII, hàng loạt quốc gia sơ kỳ được hình thành và phát triển ở phía Nam khu vực Đông Nam Á lục địa. Có tới 30 tiểu quốc ra đời trong thời kỳ này, đáng kể nhất là các vương quốc Chămpa (thế kỷ 7 - 1832, ngày nay thuộc vùng Trung Nam Bộ Việt Nam), Phù Nam (1-630), Chân Lạp (550-802), Kalinga...

  • b. Thời kỳ xác lập và phát triển các vương quốc dân tộc (thế kỷ X-XV)

  • Từ nửa sau thế kỷ X đến thế kỷ XV là thời kỳ phát triển thịnh đạt của các quốc gia phong kiến dân tộc ở Đông Nam Á. Mỗi quốc gia có nòng cốt là một tộc người đa số, một nền kinh tế nông nghiệp ổn định, một nền văn hoá dân tộc hình thành và phát triển trên cơ sở văn minh nông nghiệp lúa nước và bản địa hoá các yếu tố văn hóa Ấn – Hoa cũng như sự tương tác, học hỏi lẫn nhau giữa các nước trong khu vực. Có thể gọi giai đoạn này là kỷ nguyên độc lập dân tộc, là thời đại phục hưng của khu vực Đông Nam Á.

  • Cư dân sông Hồng đấu tranh tự giải phóng mình sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc, đã bắt tay xây dựng quốc gia dân tộc độc lập. Văn hoá Đại Việt được tái cấu trúc dựa trên cơ sở của văn hoá Hùng Vương, cơ tầng văn hoá Đông Nam Á và bản địa hoá các yếu tố văn hoá Ấn - Hoa, phát triển lên đỉnh cao ở thế kỷ XV.

  • CHƯƠNG 2. TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG ĐỜI SỐNG

  • VĂN MINH VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á

    • 2.1. Thức ăn

    • 2.2. Trang phục

    • 2.3. Nhà ở

    • 2.4. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc

    • b. Nghệ thuật điêu khắc

  • CHƯƠNG 3. TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN MINH TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á

    • 3.1. Chữ viết

    • 3.2. Tín ngưỡng bản địa - tôn giáo

    • 3.3. Lễ hội và phong tục tập quán

    • 3.4. Nghệ thuật biểu diễn

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Trên cơ sở khái quát những yếu tố tạo nên tính thống nhất và đa dạng của Đông Nam Á, đề tài tập trung phân tích tính thống nhất và đa dạng trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Đông Nam Á.

NHỮNG YẾU TỐ TẠO THÀNH TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG

Điều kiện tự nhiên

Trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á nằm trong một phạm vi khá rộng phía Đông Nam lục địa Á - Âu.

Đông Nam Á có diện tích khoảng 4,5 triệu km2, trải dài từ 920 đến 1400 độ kinh Đông và từ 280 độ vĩ Bắc đến 150 độ vĩ Nam, tạo thành một "ngã tư đường" giữa các châu lục lớn Khu vực này bao gồm bán đảo Trung - Ấn và quần đảo Malaysia, với nhiều đảo, bán đảo và quần đảo phức tạp, kéo dài từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng, nằm gần hai nền văn minh lớn là Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như gần cường quốc kinh tế Nhật Bản, đồng thời nằm trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng nối liền châu Úc với các quốc gia phía bắc như Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Bhutan, Bangladesh và Nepal.

Đông Nam Á, với vị trí địa lý chiến lược, đã trở thành khu vực có tầm quan trọng lớn trong việc giao thoa văn hóa từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập đến châu Âu, tạo nên một nền văn hóa đa dạng và đặc sắc Địa hình phong phú của khu vực này, bao gồm núi rừng, đồng bằng và biển cả, đã hình thành nên một chỉnh thể văn hóa thống nhất, phản ánh sự giao thoa giữa văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển Mỗi yếu tố văn hóa mang trong mình những đặc trưng riêng, được hình thành và chi phối bởi địa hình độc đáo của Đông Nam Á, nơi có sự đan xen giữa đồi núi, đồng bằng và hệ thống sông ngòi, đặc biệt là ở các cao nguyên lớn như Shan, Khorat, Bôlôven, Khăm Muộn và Tây Nguyên.

Với hệ thống sông ngòi dày đặc, cũng bắt nguồn từ bán đảo Trung - Ấn: sông

Sông Mê Kông dài 4.500 km, trong đó đoạn chảy qua Đông Nam Á dài 2.600 km, cùng với các con sông khác như Xaluen (3.200 km), Iraoađi (2.150 km), Mê Nam (1.200 km) và Hồng (1.126 km), tạo nên một hệ thống sông ngòi phong phú Ngược lại, các con sông ở quần đảo Malaysia như Inđônêxia, Philippines và Malaixia thường ngắn và dốc, mang lại giá trị khai thác thủy điện cao Các sông ngòi ở Đông Nam Á không chỉ có vai trò quan trọng trong giao thông mà còn tạo ra những vùng châu thổ màu mỡ, như châu thổ Hạ Mianma và châu thổ Mê Nam tại Thái Lan.

Cảnh quan tự nhiên của khu vực Đông Nam Á, từ bán đảo Đông Dương qua Thái Lan đến Mianma, bao gồm những châu thổ nổi bật như châu thổ Mê Kông (Cămpuchia, Việt Nam) và châu thổ sông Hồng (Việt Nam) Khu vực này được đặc trưng bởi sự xen kẽ giữa châu thổ, đồi núi và rừng rậm, kéo dài từ phía bắc xuống phía nam ra biển Ngoài ra, núi rừng và bình nguyên ở Đông Nam Á còn bao phủ các đảo và quần đảo phía đông, đông nam, với nguồn tài nguyên phong phú.

Đông Nam Á, với các quốc gia như Inđônêxia và Philippin, nổi bật với địa hình đa dạng gồm dãy núi, núi lửa và cao nguyên, cùng với các đồng bằng ven biển và thung lũng Đây là khu vực có nhiều quần đảo nhất thế giới, với Inđônêxia sở hữu 17.508 hòn đảo và Philippin 7.107 hòn đảo Biển và vịnh ở Đông Nam Á kéo dài từ vùng biển Đông đến vịnh Inđônêxia, tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và đa sắc Mặc dù có những đặc điểm chung về địa hình, mỗi quốc gia trong khu vực vẫn giữ những nét riêng biệt, góp phần tạo nên cảnh sắc phong phú Khí hậu Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc trưng nóng ẩm và hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa Đặc biệt, khu vực này có độ ẩm cao nhất thế giới, từ 80% đến 90%, nhờ vào vị trí gần đường xích đạo và bờ biển dài, dẫn đến lượng nước bốc hơi lớn.

Khí hậu Đông Nam Á, theo Sakurai Yumlo (1996), đặc trưng bởi nhiệt độ nóng ẩm với mức trung bình từ 20 đến 27°C và lượng mưa từ 1.500 đến 3.000mm mỗi năm Khu vực này được chia thành hai đới khí hậu chính: đới khí hậu xích đạo và đới khí hậu cận xích đạo (đới gió mùa xích đạo) Đới khí hậu xích đạo nằm ở phía bắc bao gồm phần lớn bán đảo Trung - Ấn và gần như toàn bộ quần đảo Philippines, trong khi đới khí hậu cận xích đạo ở phía nam bao gồm toàn bộ quần đảo phía đông đảo Giava Trong các đới khí hậu này, năm có hai mùa rõ rệt: mùa hạ và mùa đông, tạo nên sự đa dạng và thống nhất cho hệ động thực vật phong phú của khu vực.

Khí hậu Đông Nam Á đóng vai trò quan trọng trong sự sinh tồn và phát triển của động thực vật trong khu vực Với rừng tự nhiên đa dạng và phong phú, hệ động vật nơi đây cũng rất đa dạng về chủng loại, bao gồm các loài như khỉ, đười ươi, vượn, heo vòi, cùng nhiều loài chim và bò sát Đông Nam Á được coi là "viện bảo tàng chim thú", thu hút sự quan tâm của các nhà động vật học nhờ vào giá trị kinh tế, khoa học và văn hóa - xã hội của các loài chim nơi đây.

Nhà địa lý - thực vật học C.O Sauer cho rằng Đông Nam Á là nơi phát sinh trồng trọt sớm nhất nhờ vào khí hậu nhiệt đới đa dạng về thực vật và cảnh quan Vùng thung lũng chân núi và ven biển, cùng với khí hậu nóng ẩm, biển và gió mùa, đã tạo nên một thiên đường thực vật phong phú Đông Nam Á là một miền địa lý thống nhất nhưng đa dạng, thể hiện qua vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và hệ động thực vật Sự thống nhất và đa dạng của điều kiện tự nhiên ở đây là yếu tố quan trọng hình thành nên tính đa dạng và thống nhất của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.

Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á

Đông Nam Á, nằm trên tuyến đường giao lưu Đông - Tây, là nơi diễn ra sự hòa trộn phức tạp giữa các chủng tộc Tất cả các dân tộc trong khu vực này đều có nguồn gốc từ chủng Môngôlôit phương Nam, mang theo những yếu tố khác nhau từ hai đại chủng Môngôlôit và Ôxtralôit Sự tương đồng về nguồn gốc này tạo nên nhiều điểm tương đồng và khác biệt trong con người cũng như văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á.

Các quốc gia Đông Nam Á hiện nay đều có sự đa dạng về thành phần dân tộc, trong đó mỗi nước thường có một nhóm dân tộc chiếm ưu thế về số lượng và trình độ phát triển xã hội Bên cạnh đó, khu vực này còn tồn tại nhiều tộc người bản địa với số lượng khác nhau, phản ánh sự phong phú của văn hóa và lịch sử.

Từ nhóm nhân chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á) có thể chia ra 4 nhóm nhỏ như sau:

Dòng người Môngôlôit từ Tây Tạng di cư về đông nam, dừng lại tại bán đảo Trung - Ấn, nơi họ hòa trộn với cư dân Mêlanêdiên bản địa thuộc đại chủng Ôxtralôit, hình thành nên chủng Anhđônêdiên, hay còn gọi là Malaysia cổ.

Nhóm Nam Á hình thành từ sự kết hợp giữa hai chủng người Anhđônêdiên và Môngôlôit, trong đó đặc điểm Môngôlôit nổi bật hơn, được xem là tiểu chủng Môngôlôit phương Nam Từ nhóm này, Bách Việt đã ra đời Nhóm Nam Á bao gồm phần lớn người Đông Nam Á, với các đại diện chính như Tày, Thái, Việt (Kinh), Lào, Mianma, Malaysia, Khơ Me tại bán đảo Trung - Ấn, cùng với các nhóm Visaya, Tagan, Giava, Sunđa, Mađura tại quần đảo Malaysia.

Theo một giả thuyết, hai chủng Nam Á và Anhđônêdiên đã ảnh hưởng đến loại hình nhân chủng Vêđôit ở Đông Nam Á, chủ yếu là từ Anhđônêdiên Trong một giai đoạn lịch sử dài, Vêđôit và Anhđônêdiên đã chiếm ưu thế ở khu vực Đông Nam Á, với tỷ lệ khác nhau giữa lục địa (chủ yếu Anhđônêdiên) và hải đảo (chủ yếu Vêđôit trong giai đoạn đầu) Sự tác động mạnh mẽ của dòng người Nam Á đã làm cho bức tranh nhân chủng của Đông Nam Á trở nên đa dạng và phong phú hơn.

Nhóm nhân chủng Nêgritô được xem là một nhánh của chủng Mêlanêdiên thuộc đại chủng Ôxtralôit, và có nguồn gốc phát sinh không sớm hơn Nhóm Nêgritô phân bố rộng rãi ở Đông Nam Á, với các ví dụ điển hình như người Tapiro sống ở sườn nam các dãy núi trung tâm Tân Ghinê, cũng như ở Philippines, Malaysia, đảo Irian của Indonesia, và cực nam bán đảo Trung - Ấn, cùng với các cụm đảo Anđaman và Nicobar.

Qua quá trình lịch sử lâu dài, tiểu chủng Đông Nam Á đã phân hóa thành nhiều tộc người khác nhau, tạo nên sự đa dạng và phong phú trong các thành phần tộc người Khi xem xét Đông Nam Á từ góc độ dân tộc học, dễ dàng nhận thấy mỗi quốc gia trong khu vực có thể chứa hàng chục, thậm chí hàng trăm dân tộc khác nhau, thể hiện sự phong phú trong phân bố dân cư.

Bức tranh đa dạng của các tộc người ở Đông Nam Á có nguồn gốc chung từ chủng người Môngôlôit phương Nam, tạo nên sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa và con người của khu vực này.

Mặc dù bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á ngày nay rất đa dạng, các nhà ngôn ngữ học cho rằng chúng đều xuất phát từ một gốc chung, được gọi là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử Từ ngôn ngữ gốc này, qua quá trình phát triển lịch sử, các ngữ hệ đã phân chia và phát triển theo những hướng khác nhau Hiện tại, ngôn ngữ Đông Nam Á có thể được chia thành 4 ngữ hệ chính.

Ngữ hệ Nam Đảo (Malaysia - Đa Đảo) có sự phân bố rộng rãi, chủ yếu tại các đảo từ Đông Nam Á đến châu Úc, cũng như các đảo ở nam Thái Bình Dương và đông nam châu Phi Hệ ngữ này bao gồm khoảng 200 ngôn ngữ cụ thể, chủ yếu được sử dụng bởi cư dân ở Inđônêxia, Philippin và Malaixia.

Những quốc gia sử dụng ngữ hệ Nam Đảo làm tiếng nói chính thức: Inđônêxia, Malaixia, Philippin và Xingapo.

Ngữ hệ Nam Á được phân bố chủ yếu ở các quốc gia Đông Nam Á lục địa, có thể chia thành 4 nhóm sau:

Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me thuộc hệ Môn - Khơ Me bao gồm hơn 100 ngôn ngữ, được phân chia thành hai nhóm chính: Môn - Khơ Me Bắc và Môn - Khơ Me Đông.

Me Bắc bao gồm các ngôn ngữ chính như Bắc Thái Lan, Bắc Lào và Đông Mianma Trong khi đó, Môn - Khơ Me Đông tập trung vào các ngôn ngữ ở Campuchia, miền Trung Việt Nam, Trung Lào và Bắc Thái.

+ Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao

Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao được phân bố ở phía Bắc của Việt Nam, Lào và Thái Lan, còn Mianma thì ở gần biên giới Trung Quốc Nhóm ngôn ngữ

H’mông - Dao, bao gồm các ngôn ngữ: H’mông (Mèo, Miao, Mông), Dao (Man, Yao), Pàthẻn, Sơ, Klao.

+ Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường

Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường bao gồm bốn ngôn ngữ chính: Việt (Kinh), Mường, Thổ và Chứt Nhóm ngôn ngữ này chủ yếu phân bố tại Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á nơi có cộng đồng người Việt sinh sống.

+ Nhóm ngôn ngữ Nam Á khác

Nhóm ngôn ngữ này được gọi là nhóm hỗn hợp hay Kađai, là sự kết nối giữa ngôn ngữ Tày - Thái cổ và Malaysia - Đa Đảo, theo Paul K Benedict Các ngôn ngữ thuộc nhóm này bao gồm La Chí, La Ha, Klao và Pupéo, được sử dụng tại Việt Nam.

Ngôn ngữ Thái thuộc ngữ hệ Thái được phân bố chủ yếu tại Thái Lan, Lào, miền núi phía bắc Việt Nam và đông bắc Mianma Một số ngôn ngữ tiêu biểu trong hệ này bao gồm Thái, Lào, Tày Nùng, Sán Chay, Giáy, Bố Y, Lự và La Ha.

Ngữ hệ Hán Tạng được phân thành hai nhóm:

Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á

Nhiều nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khảo cổ học và sinh thái học, đã chỉ ra rằng Đông Nam Á là một trong những cái nôi trồng trọt cổ của nhân loại Nền văn hóa Hòa Bình chứng minh cư dân nơi đây đã thuần hóa nhiều giống lúa khác nhau Các di chỉ khảo cổ, nhất là trên cao nguyên Khorat của Thái Lan, cho thấy xã hội nông nghiệp đã xuất hiện khoảng năm 3.000 TCN Đồng thời, nghiên cứu địa lý cây trồng khẳng định Đông Nam Á là một trong mười trung tâm chính phát sinh cây lúa nước Con người tại đây đã thuần hóa nhiều loại cây trồng và vật nuôi có giá trị, đặc biệt là cây lúa nước Giáo sư Lương Ninh và Vũ Dương Ninh đã kết luận rằng nghề trồng lúa nước đã xuất hiện cách đây khoảng 4.000 - 5.000 năm TCN.

Trong thời đại đồ đồng, cư dân Đông Nam Á đã chuyển sang kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở thung lũng châu thổ, thích ứng với khí hậu nhiệt đới Họ mở rộng canh tác tới các đồng bằng ngập lụt và vùng đất cao khô hạn Sự ra đời của phương thức gieo mạ và kỹ thuật cấy lúa đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong nông nghiệp trồng lúa của khu vực này.

Nền nông nghiệp trồng lúa chính là yếu tố then chốt trong việc hình thành một nền văn hóa Đông Nam Á vừa thống nhất vừa đa dạng Trong bối cảnh này, nghề sông biển cũng đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên sự phong phú cho đời sống văn hóa của khu vực.

Trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, cư dân Đông Nam Á không chỉ dựa vào ngành trồng trọt mà còn phát triển hệ thống nghề phụ, đặc biệt là ngư nghiệp và ngoại thương Mặc dù Lào không giáp biển, nhưng vẫn có thể tiếp cận biển qua các quốc gia láng giềng Điều này đã thúc đẩy cư dân Đông Nam Á sớm biết đóng mảng và đi thuyền biển, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại Từ thế kỷ II, hoạt động buôn bán đường biển với Đông Nam Á đã diễn ra sôi nổi, và đến thế kỷ VII, thuyền buôn Ả Rập thường xuyên đến đây để mua hương liệu và gia vị.

Đông Nam Á từ sớm đã chứng kiến sự giao thoa văn hóa phong phú với các quốc gia khác, tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng và đầy màu sắc Các mối liên hệ kinh tế và văn hóa giữa các hải đảo được hình thành nhờ biển cả, trong khi ở đất liền, các dòng sông đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và phát triển văn hóa Thuyền đi sông, đi biển không chỉ là phương tiện giao thông mà còn là cầu nối truyền tải và giao lưu văn hóa với các quốc gia bên ngoài, đồng thời tiếp thu những yếu tố văn hóa từ các nền văn minh lớn như Ấn Độ và Trung Quốc.

Nghề nông trồng lúa và nghề đánh bắt trên sông biển là nền kinh tế truyền thống của cư dân Đông Nam Á, được duy trì liên tục từ xưa đến nay Nền kinh tế này không chỉ quy định đời sống văn hóa xã hội mà còn ảnh hưởng đến các yếu tố văn hóa “thống nhất và đa dạng” trong khu vực Đông Nam Á.

1.4 Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á a Thời kỳ hình thành các vương quốc cổ (TNK II TCN- IX)

Khoảng giữa thiên niên kỷ II trước Công Nguyên, các dân tộc Đông Nam Á bắt đầu chuyển mình sang xã hội có giai cấp và nhà nước, với cư dân sông Hổng phát triển nổi bật nhất Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỷ VII TCN, gắn liền với nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, đạt đỉnh cao trong kỹ thuật chế tác đồng thau và lan tỏa ra toàn vùng Đông Nam Á, với 26 địa điểm đã được phát hiện có trống đồng Đông Sơn Đến thế kỷ VII, nhiều quốc gia sơ kỳ hình thành tại phía Nam Đông Nam Á, với khoảng 30 tiểu quốc, trong đó nổi bật là các vương quốc Chămpa, Phù Nam, Chân Lạp và Kalinga, đánh dấu thời kỳ xác lập và phát triển các vương quốc dân tộc từ thế kỷ X đến XV.

Từ nửa sau thế kỷ X đến thế kỷ XV, các quốc gia phong kiến ở Đông Nam Á phát triển thịnh đạt, với mỗi quốc gia có một tộc người đa số, nền kinh tế nông nghiệp ổn định và văn hóa dân tộc riêng biệt Thời kỳ này được xem là kỷ nguyên độc lập dân tộc, đánh dấu sự phục hưng của khu vực, với nền văn minh nông nghiệp lúa nước và sự tiếp thu, bản địa hóa các yếu tố văn hóa Ấn – Hoa, cùng sự tương tác và học hỏi lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực.

Cư dân sông Hồng đã nỗ lực tự giải phóng sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc, góp phần xây dựng quốc gia độc lập Văn hóa Đại Việt được hình thành từ nền tảng văn hóa Hùng Vương, hòa quyện với các yếu tố văn hóa Đông Nam Á và Ấn - Hoa, đạt đến đỉnh cao phát triển vào thế kỷ XV.

Vương quốc Chămpa được thành lập và phát triển mạnh mẽ dưới triều đại Indrapura vào năm 875, với kinh đô đặt tại thành Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam, Việt Nam Trong khi đó, Đế quốc Khmer, tồn tại từ năm 802 đến 1434 trên lãnh thổ Campuchia ngày nay, đã trải qua giai đoạn tích lũy và bước vào thời kỳ Angkor huy hoàng, trở thành một vương quốc hùng mạnh với những cuộc chinh phục nhằm mở rộng lãnh thổ.

Người Miến đã thành lập vương quốc Pagan vào thế kỷ IX, đạt đỉnh cao phát triển vào thế kỷ XI và XII trước khi bị quân Nguyên xâm lược và tàn phá Pagan nổi tiếng là trung tâm Phật giáo với hàng ngàn ngôi chùa, trong đó có ngôi chùa Vàng tráng lệ.

Sau sự xâm lược của quân Mông Cổ vào Đông Nam Á vào thế kỷ XIII – XIV, một nhóm người Thái từ thượng nguồn sông Mê Công di cư xuống phía Nam, định cư ở lưu vực sông Mê Nam và hình thành nhiều tiểu quốc, sau đó thống nhất thành vương quốc Ayuthaya Đồng thời, một bộ phận khác của người Thái đã di chuyển đến trung lưu sông Mê Công, hòa nhập với cư dân bản địa và sáng lập vương quốc Lan Xang (1354), có nghĩa là "triệu voi" trong tiếng Lào.

Tại vùng Đông Nam Á hải đảo, trên vùng đất Inđônêxia hiện nay, từ năm

Vương quốc Mataram, ra đời vào năm 907, đã thay thế Kslinga và phát triển trên một lãnh thổ rộng lớn bao gồm các đảo Giava, Xumatora, phần lớn Kalimantan, đảo Xulavedi, bán đảo Malaysia và quần đảo Môlucu Với sự giàu có và vị trí chiến lược, Mataram đã thiết lập mối quan hệ thương mại sôi động với nhiều quốc gia như Ấn Độ, Khơ Me và Ả Rập.

Trong khoảng thế kỷ X – XV, các quốc gia phong kiến ở Đông Nam Á đã hình thành và phát triển ổn định, tạo nên một khu vực kinh tế độc lập với nhiều sản phẩm hàng hóa phong phú như thóc gạo, gỗ trầm hương, hồ tiêu, và đá quý Sự lớn mạnh này được khẳng định qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, đặc biệt là ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông của Đại Việt, đánh dấu thời kỳ phục hưng văn hóa của các dân tộc trong khu vực Tuy nhiên, sau đó, các quốc gia phong kiến bắt đầu suy thoái, dẫn đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á.

Sau hơn 5 thế kỷ phát triển, chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời, dẫn đến sự trì trệ và suy thoái trong các quốc gia Đông Nam Á từ thế kỷ XV đến XIX Sự yếu kém này khiến các dân tộc trong khu vực không đủ sức chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây Việt Nam, Campuchia và Lào bị thực dân Pháp xâm lược, trong khi Inđônêxia bị Bồ Đào Nha và sau đó là Hà Lan chiếm đóng Philippin bị Tây Ban Nha đánh chiếm, Malaixia trở thành thuộc địa của Anh, và Thái Lan, mặc dù giữ được độc lập về danh nghĩa, vẫn phụ thuộc vào tư bản nước ngoài, đặc biệt là Anh và Pháp.

TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN MINH VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á

Thức ăn

Nền kinh tế chính của cư dân Đông Nam Á gắn liền với việc trồng lúa, từ những ngày đầu, cây lúa đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền văn hóa khu vực Đến nay, lúa vẫn là cây lương thực chủ yếu và đặc trưng nhất của Đông Nam Á Điều này lý giải tại sao tổ chức ASEAN chọn bó mạ làm biểu tượng, và cũng không ngẫu nhiên khi Thái Lan và Việt Nam đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa gạo Cư dân Đông Nam Á, với nền văn hóa lâu đời và phong phú, chủ yếu là nông dân trồng lúa, và điều này thể hiện rõ nét trong đời sống ẩm thực của họ.

Cơm, bao gồm cơm tẻ và cơm nếp, là nguồn thức ăn chính của cư dân Đông Nam Á Mặc dù cơm là món ăn thông thường, một số dân tộc có những món cơm đặc trưng như cơm lam của người Lào và một số dân tộc Việt Nam, hay cơm rang và cơm rau sống của người Melayu ở Malaysia, Indonesia và Brunei Các món ăn truyền thống từ gạo và nếp được lưu truyền qua nhiều thế hệ, phản ánh khẩu vị và tính cách của từng khu vực Bánh truyền thống thường được làm từ gạo và nếp, kết hợp với nguyên liệu địa phương và gói bằng lá tự nhiên Trong dịp Tết cổ truyền, các món như bánh chưng, bánh giày, bánh tét và bánh ít được ưa chuộng Hiện nay, các món ăn như bún, cháo, phở, mỳ và miến rất phổ biến và dễ dàng tìm thấy ở tất cả các quốc gia Đông Nam Á.

Người Đông Nam Á sống trong môi trường tự nhiên thuận lợi, dễ dàng tìm kiếm thức ăn từ rau, hoa quả, cá, tôm cho đến chim, thú Điều này tạo nên sự khác biệt trong văn hóa ẩm thực của khu vực này, với sự phong phú của thực vật, được ví như “một vũ trụ thực vật” Thực phẩm chủ yếu của cư dân Đông Nam Á là thực vật, trong đó cây lúa, rau và hoa quả đóng vai trò quan trọng Bữa ăn thường không thể thiếu rau, đôi khi rau còn trở thành món chính, với nhiều phương pháp chế biến như ăn sống, luộc, nấu canh, xào, hay muối chua Trong số các loại rau, rau muống được xem là phổ biến nhất tại Đông Nam Á.

Như vậy, món ăn truyền thống của cư dân Đông Nam Á có thể khái quát bằng công thức theo thứ tự ưu tiên sau:

Cơ cấu bữa ăn = cơm + rau (củ, quả, cây…) + nước chấm + thủy, hải sản (cá,cua, tôm…) + thịt (gà, lợn, bò…)

Nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á được hình thành từ nền tảng vững chắc của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước và sự phong phú của nguồn lương thực, thực phẩm Các quốc gia, dù nằm trên hải đảo hay trong lục địa, đều có những phong cách ăn uống tương đồng Những yếu tố này không chỉ là văn hóa vật chất mà còn thể hiện nghệ thuật ẩm thực gắn bó chặt chẽ với các dân tộc trong khu vực.

Mỗi quốc gia và dân tộc trong khu vực Đông Nam Á có những cách chế biến thức ăn độc đáo, phản ánh tập tục và văn hóa riêng biệt Điều này tạo ra sự phong phú và đa dạng cho ẩm thực khu vực, với những món ăn đặc trưng của từng dân tộc.

Người dân Campuchia chủ yếu ăn cơm tẻ, thường kết hợp với cá, rau và các loại gia vị như cá khô và mắm cá bò hóc Tương tự, người dân Indonesia cũng coi gạo là lương thực chính, bao gồm gạo nếp và gạo tẻ, bên cạnh các loại thực phẩm khác như ngô, khoai, sắn và đậu Trong khi đó, người Malaysia cũng ưa chuộng cơm, cá và rau, với cơm được nấu chín thay vì đồ, và cá được chế biến theo nhiều hình thức như tươi, muối, khô và mắm.

Người Malaysia chế biến nhiều loại mắm ruốc từ cá và tôm, với món ăn nổi bật là nasi kerabu (cơm trộn rau thơm) cùng các món như nasi goreng (cơm rang) và solok cili (ớt xanh nhồi cá) Ở Philippines, cơm và nông sản là thực phẩm chính, với thịt ít được tiêu thụ, món ăn ưa thích là thịt hoặc cá hầm với me chua Người Lào nổi tiếng với câu nói “ăn xôi, thổi khèn”, thể hiện thói quen ăn gạo nếp cùng cá, rau và đôi khi là thịt Thức ăn của người Thái bao gồm cơm, rau và cá, trong đó nậm pia là món được ưa chuộng Người Việt Nam coi cơm là món chính trong bữa ăn, với câu nói “mời ăn cơm” thể hiện vai trò quan trọng của cơm trong ẩm thực Bữa ăn ở Đông Nam Á không chỉ đơn thuần là ăn uống mà còn là dịp hội tụ gia đình và cộng đồng, phản ánh giá trị văn hóa phong phú của khu vực.

Trang phục

Trang phục không chỉ là biểu tượng của văn hóa và lịch sử của một dân tộc hay khu vực, mà còn là yếu tố luôn biến đổi theo thời gian Nó phản ánh sự phát triển và thay đổi trong xã hội, đồng thời dễ dàng tiếp thu và vay mượn từ các nền văn hóa khác.

Từ xa xưa, người Đông Nam Á đã có kiểu trang phục truyền thống với nam giới mặc khố và nữ giới mặc váy, thường cởi trần và đi chân đất Khố và váy không chỉ là trang phục cổ xưa mà còn phổ biến giữa nhiều dân tộc trong khu vực Điều kiện khí hậu thuận lợi, đặc biệt ở các dân tộc miền núi, cho phép cả nam và nữ thường để mình trần Hình ảnh “mình trần, khố có một manh” phản ánh nét văn hóa đặc trưng của nhiều vùng ở Đông Nam Á Trong sinh hoạt hàng ngày, phụ nữ cũng thường để trần bộ ngực, chỉ mặc áo hoặc choàng khi trời lạnh hoặc trong các dịp lễ hội Hiện nay, phong cách ăn vận này vẫn còn thấy ở các dân tộc như Gia Rai, Ê Đê, Xtiêng, và Ba.

Khố là trang phục truyền thống của các cư dân thiểu số dọc Trường Sơn, Tây Nguyên và các cao nguyên Lào, Thái Lan, thường được mặc bởi cả nam và nữ Mặc dù đối mặt với sự ảnh hưởng của trang phục phương Tây, người già và trung niên vẫn ưa chuộng khố Trong khi ở miền Trung Thái Lan, cả đàn ông và đàn bà đều mặc khố, thì miền Bắc và Đông Bắc chỉ có nam giới sử dụng Tại Inđônêxia, khố đã được thay thế bằng váy, nhưng phụ nữ Papua vẫn giữ thói quen mặc khố trong các dịp lễ hội và cưới hỏi, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của họ.

Mỗi tộc người phát triển trang phục riêng biệt dựa trên điều kiện địa lý mà họ sinh sống, từ đó tạo nên sự đa dạng văn hóa Trang phục không chỉ phản ánh đặc điểm môi trường mà còn giúp phân biệt các tộc người một cách rõ ràng.

Trang phục truyền thống ở Đông Nam Á rất đa dạng và phong phú, phản ánh bản sắc văn hóa của từng dân tộc Ngày nay, sự phát triển và giao thoa văn hóa đã tạo ra nhiều kiểu trang phục mới, làm phong phú thêm bức tranh thời trang của khu vực này.

Nhà ở

Khu vực Đông Nam Á nổi bật với kiểu nhà sàn, một hình thức kiến trúc độc đáo và đặc trưng của khu vực Do điều kiện tự nhiên, khí hậu và nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, cư dân nơi đây đã chọn nhà sàn làm nơi cư trú chính Nhà sàn Đông Nam Á không chỉ mang nét riêng về kỹ thuật và mỹ thuật mà còn khác biệt so với các kiểu nhà sàn ở các khu vực khác trên thế giới Các nhà nghiên cứu cho rằng nhà sàn, hay nhà “cao chân”, là lựa chọn phù hợp với điều kiện tự nhiên của cư dân Đông Nam Á.

Nhà sàn là một sáng tạo độc đáo và thích hợp cho cư dân Đông Nam Á, phát triển trong điều kiện khí hậu nóng, ẩm, nhiều mưa và hoạt động nông nghiệp lúa nước Người dân thường chọn cư trú ven sông hoặc ở vùng trũng để trồng lúa, trong khi các khu vực cao hơn thích hợp cho đồng ruộng bậc thang Kiến trúc nhà sàn ra đời nhằm giải quyết vấn đề mặt bằng trên mọi địa hình, nhờ đó, nó đã trở thành kiểu kiến trúc dân gian phổ biến trong toàn vùng Đông Nam Á.

Nhà sàn đã trở thành biểu tượng kiến trúc phổ biến ở Đông Nam Á, nhưng mỗi quốc gia, dân tộc và vùng miền lại mang những đặc trưng riêng về hình thức, kích thước và cách bày trí Sự khác biệt này không chỉ phản ánh phong tục sống mà còn thể hiện các nghi thức gia đình truyền thống của từng dân tộc Ngày nay, nhà sàn vẫn được nhiều dân tộc ở Đông Nam Á sử dụng, đặc biệt là các dân tộc ít người tại Việt Nam như Gia Rai, Ê Đê, Stiêng và Mường, từ Tây Nguyên đến Việt Bắc và Tây Bắc.

Nhiều dân tộc ở Đông Nam Á, như người Khơ Me (Cămpuchia), người Thái (Thái Lan), người Lào, Khơ Mú (Lào), người Miến (Mianma), người Batắc, người Đaiắc, người Sunđa (Inđônêxia) và người Melayu (Malaixia, Brunây), đều sinh sống trong các ngôi nhà sàn truyền thống.

Nhà sàn ở Đông Nam Á rất đa dạng về kích thước và kiểu dáng, phản ánh sự phong phú trong văn hóa của các dân tộc Các dân tộc như Gia Rai, Ê Đê (Việt Nam) và các nhóm ở bang Xaraoắc (Malaixia) sở hữu những kiểu nhà sàn đặc trưng, trong khi người Minangkabau (Indonesia) có nhà rumác gađang, có thể chứa từ 20 đến 30 hộ gia đình Những ngôi nhà dài này cho phép nhiều thế hệ sống chung, tạo nên sự khác biệt nổi bật so với các loại nhà sàn khác trên thế giới Sự đa dạng này không chỉ thể hiện qua kiến trúc mà còn qua các đặc điểm văn hóa giữa các dân tộc, như người Malaysia, người Mianma và người Indonesia.

Nhà hình thuyền là một kiểu kiến trúc độc đáo tại Đông Nam Á, phản ánh đời sống gắn liền với sông nước của cư dân nơi đây Mô hình này không chỉ là thuyền mà còn là nhà, đã được phát triển thành nhà sàn với mái cong hình thuyền, phổ biến ở nhiều nơi Tại Indonesia và Malaysia, kiểu nhà rumác gađang (nhà to) và rumác panjang (nhà dài) với mái cong hình thuyền rất được ưa chuộng Ngoài ra, nhà hình thuyền còn xuất hiện ở các vùng cao như Tây Nguyên và cao nguyên Trường Sơn, nơi sinh sống của các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Ê Đê.

Nhà đất là một kiểu nhà đặc trưng của người Việt ở Đông Nam Á, được xây dựng với khung bằng gỗ hoặc tre nứa và tường bằng đất Tùy thuộc vào từng vùng, tường có thể dày hoặc mỏng, sử dụng vật liệu khai thác tại chỗ như đất, đá và cây cỏ Những ngôi nhà này vừa đơn sơ vừa ấm cúng, tạo nên nơi cư trú lý tưởng Ở những khu vực ít bão, tường thường đơn giản, làm từ đất hoặc bùn trộn rơm, trong khi ở những nơi thường xuyên chịu bão gió, tường được xây dựng dày và vững chắc hơn.

Ngôi nhà truyền thống của người Việt không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn đánh dấu sự tiến bộ trong ngành mộc tại Đông Nam Á và Việt Nam Với hệ thống mộng tinh vi, việc tháo rời và sửa chữa các bộ phận của ngôi nhà trở nên dễ dàng mà không cần can thiệp vào toàn bộ cấu trúc Mặc dù thiết kế đơn giản, ngôi nhà đất vẫn thể hiện sự vững chãi và thẩm mỹ, đáp ứng hai tiêu chí tưởng chừng đối lập: ấm cúng vào mùa đông và thoáng mát vào mùa hè.

Theo quy luật phát triển kinh tế và xã hội, nhà ở của cư dân Đông Nam Á hiện đại đang được cải tiến và cách tân để phù hợp với lối sống mới.

Sự thay đổi kiến trúc diễn ra nhanh chóng ở các đô thị và vùng kinh tế phát triển, với sự xuất hiện của nhà hộp, biệt thự và nhà cao tầng theo phong cách phương Tây từ khi người phương Tây đến khu vực này Bên cạnh xu hướng hiện đại, nhà truyền thống Đông Nam Á cũng được cải biên, trong đó nhà sàn vẫn giữ vị trí quan trọng ở cả nông thôn và thành phố, như thủ đô Phnôm pênh Ngày nay, nhà sàn được xây dựng vững chắc và hiện đại hơn nhờ vào các vật liệu mới như xi măng, gạch và thép Ngay cả những ngôi nhà mới ở nông thôn Việt Nam vẫn giữ cấu trúc truyền thống với buồng, cửa sổ thoáng mát và bàn thờ tổ tiên, cho thấy cư dân Đông Nam Á không chỉ tiếp thu văn hóa mới mà còn bảo tồn giá trị truyền thống Việc giữ lại cấu trúc ngôi nhà xưa chứng tỏ tính phù hợp và tác dụng của nó trong cuộc sống hiện tại, cho thấy rằng việc thay thế hoàn toàn kiến trúc truyền thống bằng kiểu dáng xa lạ là điều không dễ dàng.

Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc

Văn hóa Ấn Độ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở Đông Nam Á, như Ngô Văn Doanh đã nhận định, hầu hết các công trình đều chịu ảnh hưởng từ thánh thức Ấn Độ và được xây dựng để thờ các vị thần Ấn Độ Nhiều công trình kiến trúc với trang trí hoa văn mang đậm phong cách Ấn Độ đã xuất hiện, phản ánh sự giao thoa văn hóa độc đáo trong khu vực này.

Nghệ thuật kiến trúc Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc từ kiến trúc Ấn Độ, đặc biệt là Ấn Độ giáo và Phật giáo, nhưng không hoàn toàn sao chép Mỗi dân tộc và khu vực đều mang những đặc trưng độc đáo, tạo nên sự đa dạng trong kiến trúc Những di tích kiến trúc nổi bật trước thế kỷ X như khu di tích Mỹ Sơn của người Chăm ở Quảng Nam và các công trình Bôrôbuđua, Lôrô Giông Grang ở Indonesia là minh chứng cho sự giao thoa văn hóa này.

Nghệ thuật kiến trúc đền tháp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong cách Ấn Độ, với khu thánh địa bao gồm một tháp chính và nhiều tháp phụ nhỏ xung quanh Các tháp đều có hình chóp và khối chân vuông ở giữa, tượng trưng cho đỉnh Meru, nơi cư ngụ của các vị thần Hindu Cổng tháp thường hướng về phía đông để đón ánh sáng mặt trời, trong khi nhiều tháp được trang trí tinh xảo với hình ảnh các vị thần và hoa văn phong phú Trước tháp chính, thường có một gian nhà dài được xây dựng bằng những bức tường mỏng hoặc cột đỡ, tạo nên sự hài hòa trong tổng thể kiến trúc.

Từ thế kỷ X đến XII, quần thể Ăngco của dân tộc Khơ Me ở Campuchia nổi bật như một di tích kiến trúc cổ độc đáo nhất Đông Nam Á Nghệ thuật kiến trúc Khơ Me thời kỳ này, mặc dù chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ, nhưng lại mang những đặc điểm riêng biệt, không giống bất kỳ kiến trúc nào khác trong khu vực Theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh, các công trình này đạt được những thành tựu kỳ diệu mà các nền văn hóa khác không có Trong quần thể Ăngco, Ăngco Vát và Ăngco Thom, với đền Bayon là biểu tượng tiêu biểu, thể hiện rõ nét kiến trúc Campuchia Ăngco Vát, được xây dựng vào đầu thế kỷ XII, nổi bật với con đường rộng dẫn đến cổng chính, cùng với hai dãy lan can rắn thần Naga bằng đá Đặc biệt, đền Vát có lối vào chính hướng tây, với hình tháp ba bậc bao quanh bởi các hình lang kín và các tháp nhô lên ở góc và giữa, tạo nên một công trình kiến trúc độc đáo.

Mỗi dân tộc đều có những trang sử vẻ vang, và đối với dân tộc Khơ Me, thời kỳ Ăngco là thời kỳ rực rỡ nhất Trong bối cảnh tổng hợp các thành tựu của các dân tộc Đông Nam Á, phong cách Ăngco đã phát huy những truyền thống độc đáo, hình thành một kiểu kiến trúc độc đáo không thể tìm thấy ở nơi nào khác Nền nghệ thuật kiến trúc Ăngco không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Campuchia mà còn là một đóng góp vĩ đại cho nền văn minh nhân loại.

Cung điện lớn ở Bangkok, Thái Lan, nổi bật với sự pha trộn độc đáo giữa kiến trúc Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng vẫn giữ được phong cách kiến trúc Thái đặc trưng Công trình này không chỉ thể hiện sự hòa quyện giữa kiến trúc Á - Âu mà còn tạo nên một phong cách hiện đại, đặc sắc của Bangkok.

Chùa Thạt Luổng, Lào, nổi bật với kiến trúc trung tâm là tháp Phật lớn nhất nước, đồng thời là một trong những công trình tháp Phật lớn ở Đông Nam Á Tháp có hình dáng uy nghi, cao vút như mũi tên, với đế vuông được thiết kế như một đài sen nở rộ Từ bệ tháp, hình ảnh đài sen thu nhỏ dần lên cao, tạo thành một gờ nổi lớn và nâng đỡ khối bầu thon thả phía trên, kết thúc bằng một tháp nhỏ có đỉnh nhọn Tháp trung tâm được sơn màu vàng rực rỡ, trong khi phần dưới là khối vuông nhỏ dần và được quét vôi trắng Cấu trúc của tháp Thạt Luổng mang sự độc đáo, kết hợp giữa phong cách tháp Sanchi của Ấn Độ, tháp Xiêm thời Ayuthia và một số yếu tố từ phong cách tháp Mianma.

Trong các công trình kiến trúc Đông Nam Á, nổi bật là những công trình tôn giáo chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ giáo và Phật giáo Tuy nhiên, sự pha trộn với văn hóa bản địa và các nền văn hóa khác đã tạo nên những công trình độc đáo, mỗi nơi mang một nghệ thuật riêng biệt Điều này góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa đa dạng của khu vực Đông Nam Á, phản ánh một thế giới đa sắc màu và nghệ thuật điêu khắc đặc sắc.

Trước khi chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ và Trung Quốc, Đông Nam Á đã có nền nghệ thuật điêu khắc bản địa phong phú với những hình khắc đơn giản trên đá xuất hiện khắp vùng hải đảo và lục địa Các tượng người và động vật bằng đá đã ra đời, trong đó pho tượng người cổ nhất ở Việt Nam là tượng người Văn Điển, và ở Indonesia, cư dân Pasemak đã tạc một bức tượng người cưỡi trâu lớn vào thời kỳ hậu kỳ đá mới Đến thời kỳ kim khí, những tác phẩm chạm khắc tinh tế trên dụng cụ bằng đồng như rìu, dao găm, và trống đồng được phát hiện ở các nước như Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Indonesia, Malaysia và Việt Nam.

Thời kỳ này nổi bật với nhiều công trình điêu khắc đáng chú ý như Bôrôbuđua ở Giava (Indonesia), Ăngco Vát và Ăngco Thom (Campuchia), Sukhôthay (Thái Lan), Thạt Luổng (Lào), và Pagan (Myanmar), cùng với nhiều đền đài và chùa chiền khác.

Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở Đông Nam Á, mặc dù tiếp thu ảnh hưởng từ Ấn Độ, Trung Quốc và phương Tây, vẫn bảo tồn những giá trị truyền thống và tạo ra bản sắc riêng biệt Sau Công Nguyên, nghệ thuật trong khu vực này chịu tác động mạnh mẽ từ các nền văn hóa bên ngoài, đặc biệt là Ấn Độ với Ấn Độ giáo và Phật giáo Chăm Pa và Campuchia chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo, trong khi Thái Lan, Myanmar, Indonesia và Lào lại chịu ảnh hưởng mạnh từ Phật giáo Sự kết hợp này cho thấy nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Đông Nam Á vừa mang tính riêng biệt, vừa phản ánh những đặc điểm chung của khu vực và từng quốc gia.

Trong lĩnh vực văn hóa vật chất, cư dân Đông Nam Á đã phát triển một nền văn hóa bản địa độc đáo từ thời kỳ kim khí, với lương thực chủ yếu là cơm, rau và cá Nhà sàn trở thành biểu tượng văn hóa đặc trưng, thích ứng với khí hậu nóng ẩm và địa hình đa dạng của khu vực Ngoài nhà sàn, còn có nhà hình thuyền, nhà đất và nhà hiện đại Trang phục truyền thống của nam giới thường là khố, trong khi phụ nữ mặc váy quấn; sau này, phụ nữ chuyển sang mặc yếm và áo chui đầu, cùng với sự hiện đại hóa trang phục Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của Đông Nam Á, dựa trên nền tảng văn hóa bản địa, đã tiếp thu chọn lọc các yếu tố văn hóa bên ngoài, tạo ra những công trình kỳ vĩ như đền Ăngco, tháp Chăm, chùa Bôrôbuđura và khu đền chùa Pagan, góp phần làm phong phú nền văn minh thế giới.

TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN MINH TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á

Ngày đăng: 02/04/2022, 12:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay - NXB Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
7. Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện - Phong tục các dân tộc Đông Nam Á.Hà Nội: NXB Văn hóa dân tộc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phong tục các dân tộc Đông Nam Á
Nhà XB: NXB Văn hóa dân tộc
2. Cao Xuân Phổ (chủ biên), Ngô Văn Doanh, Trần Thị Lý và Trần Văn Khê - Nghệ thuật Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Viện Đông Nam Á Khác
3. Đặng Đức An (chủ biên), Lại Bích Ngọc và Lương Kim Thoa - Những mẫu chuyện lịch sử văn minh thế giới. Hà Nội: NXB Giáo dục Khác
5. Đinh Trung Kiên - Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á, NXB Giáo dục Khác
6. Đức Ninh (chủ biên), Đỗ Thu Hà, Trần Thúc Việt và Võ Đình Hường - Văn học khu vực Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Khác
8. Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Kim (chủ biên) - Một số chuyên đề lịch sử thế giới - Tập II. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w