1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

82 16 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Viện Kiểm Sát Khi Kiểm Sát Điều Tra Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Thùy
Người hướng dẫn Pgs.Ts. Phạm Quang Phúc
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 82
Dung lượng 1,33 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT ĐIỀU TRA THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM (12)
    • 1.1. Nhận thức về kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự (12)
      • 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (12)
      • 1.1.2. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra án hình sự (15)
      • 1.1.3. Cơ sở của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự (18)
    • 1.2. Quá trình phát triển của chế định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự (24)
      • 1.2.1. Trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 (24)
      • 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988-2003 (28)
      • 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đến nay (29)
    • 1.3. Quy định pháp luật của Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự (30)
      • 1.3.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (30)
      • 1.3.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga (34)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT VÀ THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ (40)
    • 2.1.2. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật (43)
    • 2.1.3. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra (44)
    • 2.1.4. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết (45)
    • 2.1.5. Kiến nghị Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra (45)
    • 2.1.6. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật (khoản 8 Điều 166 BLTTHS) (47)
    • 2.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân (47)
      • 2.2.1. Kiểm sát khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, và không khởi tố phục vụ hoạt động điều tra (47)
      • 2.2.2. Kiểm sát khám nghiệm hiện trưởng, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, giám định và định giá tài sản (51)
      • 2.2.3. Kiểm sát áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra vụ án hình sự (52)
      • 2.2.4. Kiểm sát tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra và trả hồ sơ để điều tra bổ sung (54)
      • 2.2.5. Công tác kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra (56)
      • 2.2.6. Hạn chế về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân (57)
    • 3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự (63)
    • 3.2. Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra (65)
      • 3.2.1. Tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra vụ án hình sự (65)
      • 3.2.2. Đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên một cách có hiệu quả (68)
      • 3.2.3. Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành, tổ chức tập huấn nghiệp vụ và tổng kết rút kinh nghiệm (69)
      • 3.2.4. Nâng cao nhận thức tư tưởng về chế độ công tác của ngành kiểm sát và đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động kiểm sát điều tra (70)
      • 3.2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự (72)

Nội dung

NHẬN THỨC LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT ĐIỀU TRA THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Nhận thức về kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

Hiến pháp năm 2013 quy định rõ ràng rằng quyền lực nhà nước được phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Tất cả quyền lực đều có nguồn gốc từ Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân Quyền kiểm sát là một phần của quyền lực nhân dân, và về bản chất, Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực của mình mà ủy quyền cho Nhà nước thực hiện thay Điều này yêu cầu sự chính đáng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời khẳng định rằng Nhân dân nắm giữ quyền kiểm soát Nhân dân không giao toàn bộ quyền lực của mình cho Nhà nước mà chỉ ủy quyền cho Nhà nước thực hiện quyền lực đó và kiểm soát việc thực hiện quyền lực này.

Thuật ngữ " kiểm sát hoạt động tư pháp" được đề cập trong các văn kiện của Đảng, cụ thể là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, đặc biệt được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013.

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 khẳng định vai trò kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, coi đây là một hình thức giám sát của Nhà nước đối với hoạt động tư pháp, được Quốc hội giao cho Viện kiểm sát Mục đích của việc kiểm sát này là nhằm đảm bảo tính pháp lý trong hoạt động tư pháp, giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp và những cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tiến hành tố tụng Qua đó, kiểm sát hoạt động tư pháp giúp phát hiện kịp thời và loại trừ các vi phạm pháp luật, bảo đảm rằng các hoạt động tư pháp được thực hiện một cách thống nhất và đúng theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 367 BLHS, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, bao gồm việc giám sát các hoạt động tố tụng và thi hành án Pháp luật cũng trao quyền cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam Những sai sót trong hoạt động tư pháp có thể dẫn đến những thiệt hại không thể khắc phục Vì vậy, cần có sự kiểm tra và giám sát từ nhiều cơ chế khác nhau, bao gồm cả kiểm tra nội bộ và giám sát bên ngoài Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động tư pháp, nhằm đảm bảo hiệu quả và bổ trợ cho chức năng thực hành quyền công tố.

Việc bảo đảm cho các hoạt động điều tra vụ án hình sự tuân thủ pháp luật là một nhu cầu thiết yếu trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay Theo quy định của Hiến pháp và các Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự tiếp tục là một trong hai chức năng quan trọng được giao cho Viện kiểm sát nhân dân Các hoạt động này liên quan đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức Để đạt hiệu quả cao trong việc giải quyết vụ án, cần phải có sự kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Chủ thể kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự là Viện kiểm sát có thẩm quyền theo Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bao gồm Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Nội dung kiểm sát bao gồm việc kiểm tra và giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật Công tác này là một khía cạnh quan trọng trong chức năng của Viện kiểm sát nhân dân.

Việc phân công cho Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) gắn liền với lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự bao gồm các công tác kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra và xét xử các vụ án hình sự.

1 Đi u 41 Nhi m vụ, quy n hạn và trách nhi m của Vi n trưởng, Phó Vi n trưởng Vi n kiểm sát

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm việc thực hiện các quyền yêu cầu và kiến nghị do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS có thẩm quyền giao Điều này diễn ra khi kiểm sát hoạt động tư pháp trực tiếp tại các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật, đặc biệt là trong việc xử lý các vi phạm nghiêm trọng liên quan đến pháp luật tố tụng hình sự.

Kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự là nhiệm vụ của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra Hoạt động này không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan mà còn đảm bảo điều tra diễn ra khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác Việc phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra là rất quan trọng để xử lý nghiêm minh, giữ gìn trật tự pháp luật.

1.1.1.2 Đặc điểm hoạt động kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

Kiểm sát điều tra (KSĐT) vụ án hình sự của Viện Kiểm sát là hoạt động giám sát việc tuân thủ pháp luật đối với các hoạt động tư pháp của cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Hoạt động KSĐT có tính chất pháp lý là kiểm tra tính cần thiết và tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo điều tra đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội Kiểm sát hoạt động điều tra được thể hiện qua việc thực hiện các hoạt động như hỏi cung bị can, lấy lời khai, khám xét, thu giữ chứng cứ, khám nghiệm hiện trường và tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, và trưng cầu giám định Tất cả các hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp luật, tiến hành khách quan, tôn trọng sự thật, và thực hiện một cách toàn diện nhằm phát hiện chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rõ chứng cứ có tội và chứng cứ vô tội, đồng thời xem xét các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự liên quan đến vụ án.

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự thông qua hai phương thức: kiểm sát trực tiếp và kiểm sát gián tiếp Kiểm sát trực tiếp bao gồm việc Kiểm sát viên theo dõi hoạt động của Điều tra viên trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can và nhận dạng đối chất, nhằm đảm bảo tuân thủ đúng quy trình theo Bộ luật Tố tụng hình sự Trong khi đó, kiểm sát gián tiếp được thực hiện thông qua việc nghiên cứu hồ sơ tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập, như biên bản đối chất, nhận dạng, biên bản khám xét và biên bản thực nghiệm điều tra, để đảm bảo các tài liệu này đáp ứng yêu cầu về hình thức, thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Viện kiểm sát có vai trò chủ thể duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp, đặc biệt trong quá trình điều tra Viện kiểm sát phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của Cơ quan điều tra trong thực hiện các quyết định pháp luật và điều tra vụ án Các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra cần được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh để loại trừ hành vi vi phạm Mục đích của việc kiểm sát hoạt động điều tra là bảo đảm quá trình điều tra vụ án diễn ra theo đúng quy định pháp luật, công bằng và công lý, nhằm giải quyết vụ án một cách chính xác cho người bị tình nghi.

Bốn đối tượng của kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự bao gồm: việc tuân thủ pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, những người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, và những người tham gia tố tụng khác.

1.1.2 Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra án hình sự

Thuật ngữ “nhiệm vụ” được hiểu là “công việc phải làm, phải gánh vác” và “công việc phải làm vì một mục đích trong một thời gian nhất định” Nhiệm vụ mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể thực hiện, và nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư duy và trách nhiệm của họ.

3 Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2010), Đại từ điển tiếng Việt NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh tr.1384

Nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) là hoạt động cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng của ngành, từ đó góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung của bộ máy nhà nước Theo Hoàng Phê (2006) trong Từ điển tiếng Việt, hoạt động này liên quan đến cách thức mà chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội và được pháp luật quy định.

Hi n pháp và pháp luật,

Quyền hạn được định nghĩa là nội dung, phạm vi và mức độ quyền lực của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật Theo Từ điển Luật học, quyền hạn của một cơ quan hay tổ chức gắn liền với chức vụ, vị trí công tác và được xác định trong không gian và thời gian cụ thể Trong lĩnh vực pháp lý, quyền hạn của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) là quyền cho phép VKS thực hiện công việc trong giới hạn chuyên môn và chức vụ theo quy định pháp luật.

Quá trình phát triển của chế định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự

1.2.1 Trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988

Sau chiến thắng của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đánh dấu sự kiện quan trọng trong việc xây dựng bộ máy nhà nước Ngày 13/9/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 33c, thành lập Tòa án quân sự tại ba miền Bắc, Trung, Nam, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án trong bộ máy nhà nước Đồng thời, việc tổ chức hệ thống kiểm sát cũng được quy định, nhằm thực hiện chức năng ngăn chặn tội phạm và bảo vệ pháp luật.

V, Sắc l nh 33c qu đ nh rõ: “…Đ ng buộc tội là một Ủy viên quân s hay một Ủy viên của Ban Trinh s t…” Như vậ đ v n n đầu ti n qu đ nh v tổ ch c VKS và ch c n ng công tố ở nước ta

Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51-SL vào ngày 17/4/1946, quy định thẩm quyền của các tòa án và phân công nhiệm vụ giữa các nhân viên Sắc lệnh này làm rõ vai trò, chức năng và nhiệm vụ của các chức danh trong Viện Kiểm sát, bao gồm Chưởng lý, Phó Chưởng lý, Viện trưởng và Phó Viện trưởng.

Sắc lệnh đã khẳng định sự độc lập của mặt hoạt động công tố và xét xử, trong đó quy định rõ rằng “Ông Chánh án có quyền điều khiển, kiểm soát tất cả nhân viên khác trong tòa án, trừ các Thẩm phán buộc tội” (Điều 17 Sắc lệnh 51-SL) Trong giai đoạn này, Viện Kiểm sát ngoài quyền hạn trong lĩnh vực tố tụng hình sự còn có trách nhiệm giám sát hoạt động tư pháp và kiểm soát các công an viên, thực hiện việc thưởng và xử lý hành chính đối với vi phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo việc thi hành các đạo luật của Nhà nước Đặc biệt, Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 đã mở rộng quyền kiểm soát của cơ quan công tố đối với hoạt động xét xử, cho phép cơ quan này có quyền kháng cáo trong các vụ án hình sự, bảo vệ quyền lợi và giám sát việc giam giữ cũng như thi hành án.

Giai đoạn từ năm 1945 đến 1958, vai trò và chức năng của cơ quan Công tố không thay đổi so với trước, nhưng nhiệm vụ thực hiện trong thời gian này rất lớn Cơ quan Công tố không chỉ đảm nhiệm việc buộc tội mà còn chỉ đạo hoạt động điều tra và thực hiện điều tra đối với một số loại vụ án nhất định Cùng với công an, tòa án và chính quyền, cơ quan Công tố đã tiến hành điều tra, thẩm cứu, phân loại để xử lý các hành vi vi phạm, nhiều vụ án lớn liên quan đến việc chống phá các thế lực thù địch trong và ngoài nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, và tội phạm trong lĩnh vực khôi phục kinh tế Giai đoạn này đánh dấu mô hình công tố nằm trong Tòa án.

Vào ngày 29/4/1958, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nghe báo cáo của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập hệ thống Viện Công tố độc lập, tách khỏi Bộ Tư pháp, với quyền hạn và trách nhiệm ngang một bộ và trực thuộc Hội đồng Chính phủ Để thực hiện nghị quyết của Quốc hội, ngày 01/7/1959, Thủ tướng ban hành Nghị định số 256-TTg quy định tổ chức và nhiệm vụ của Viện Công tố Viện Công tố được tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập, có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật, truy tố những kẻ phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Ngày 06/8/1959, Viện trưởng Viện Công tố Trung ương đã ban hành Thông tư 601-TTCB để giải thích và hướng dẫn Nghị định 256-TTg, đồng thời làm rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Viện Công tố trong các hoạt động điều tra và truy tố.

Việc tách chức năng công tố ra khỏi tổ chức tòa án đã xác định rõ vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của hệ thống công tố trong cơ quan tư pháp và trong bộ máy nhà nước nói chung Thêm vào đó, lần cải cách này còn giao quyền quyết định chi tiết hơn cho Viện.

Mô hình tổ chức Viện Công tố tại Việt Nam đã tồn tại một thời gian ngắn từ năm 1958, với vai trò quan trọng trong việc giám sát và đảm bảo việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tư pháp.

Năm 1959 đánh dấu sự ra đời của hệ thống công tố độc lập tại Việt Nam, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong cơ quan kiểm sát Hệ thống này đã chuẩn bị cho việc chuyển đổi cơ quan công tố thành Viện kiểm sát nhân dân, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp.

Từ năm 1945 đến năm 1959, quá trình hình thành và phát triển của cơ quan công tố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho thấy sự hoàn thiện dần theo từng giai đoạn Mặc dù vị trí và tổ chức của cơ quan công tố có lúc thuộc hệ thống Tòa án và lúc thuộc Chính phủ, nhưng luôn duy trì tính độc lập trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ Cơ quan công tố không chỉ đảm nhiệm chức năng chính là truy tố, buộc tội mà còn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra, như chỉ đạo điều tra và giám sát điều tra.

Giai đoạn từ năm 1959 đến 1988

Sự ra đời của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được đánh dấu bằng việc ban hành Hiến pháp năm 1959 và các Luật về tổ chức nhà nước, trong đó có Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 Việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân đã thay thế các cơ quan trước đó, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm công lý và thực thi pháp luật tại Việt Nam.

Việc thành lập Viện Kiểm sát nhân dân (VKS) xuất phát từ yêu cầu khách quan trong giai đoạn cách mạng của Việt Nam, khi đất nước đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thống nhất đất nước và phát triển lên Chủ nghĩa xã hội Đồng thời, sự ra đời của VKS cũng phản ánh nhu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự ảnh hưởng từ các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây Yêu cầu này đã được thể hiện rõ trong Tờ trình và Luật liên quan.

Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được thành lập vào năm 1960 nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Pháp luật cần được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo sự nhất trí về mục đích và hành động trong cộng đồng dân cư.

Nhà nước và các ngành hoạt động của nhà nước cần có sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật Nếu không đạt được sự đồng thuận này, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn Do đó, cần tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để giám sát việc tuân thủ pháp luật, nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa và đảm bảo pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

Ngày 31/12/1959, Quốc hội hóa I nước Vi t Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua

Vào năm 1959, Điều 105 Hiến pháp quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nước địa phương, cũng như các cơ quan nhà nước khác và công dân Quy định này được cụ thể hóa tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 1960, nêu rõ các nhiệm vụ của VKSND bao gồm: kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ; điều tra các vụ phạm pháp hình sự và truy tố trước Tòa án nhân dân; và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra của công an và các cơ quan điều tra khác.

Quy định pháp luật của Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự

1.3.1 Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Trung Quốc

Viện Kiểm sát Nhân dân Trung Quốc (VKSND) được giao ba loại thẩm quyền và trách nhiệm chính trong hoạt động tố tụng hình sự Thứ nhất, VKSND trực tiếp tiến hành điều tra một số loại tội phạm hình sự đặc biệt, bao gồm hành vi sai trái và tham nhũng của cán bộ nhà nước Thứ hai, VKSND thực hiện quyền công tố đối với các tội hình sự Thứ ba, VKSND giám sát việc thực hiện pháp luật trong quá trình tố tụng, bao gồm tố tụng dân sự, hành chính, hình sự và thi hành án Tuy nhiên, VKSND gặp khó khăn trong việc thực thi thẩm quyền kiểm sát một cách thống nhất và hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật và xử phạt hình sự, do yêu cầu phối hợp với các cơ quan công an và tòa án trong các chiến dịch truy quét tội phạm nghiêm trọng Nhiệm vụ của VKSND bao gồm chỉ đạo điều tra các tội phạm như hối lộ và tham nhũng, thực hiện quyền công tố, và kiểm sát tính hợp pháp của hoạt động điều tra hình sự và quá trình xét xử.

VKSND có thẩm quyền kiểm sát hoạt động điều tra hình sự của cơ quan công an trong từng giai đoạn của quá trình điều tra Giai đoạn đầu tiên liên quan đến việc xem xét khiếu nại của người dân về quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan công an Nếu không đồng ý, người khiếu nại có thể yêu cầu VKS xem xét lại quyết định này VKS sẽ yêu cầu cơ quan công an giải thích lý do không khởi tố, và nếu không thỏa mãn, có thể yêu cầu khởi tố vụ án theo Điều 87 Bộ luật TTHS Ở giai đoạn tiếp theo, VKS thực hiện kiểm sát thông qua việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đề nghị bắt giữ theo Điều 59 Bộ luật TTHS VKS cần xác định liệu có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và người bị tình nghi có thể bị kết án hay không Nếu hồ sơ không đáp ứng tiêu chí, VKS có quyền trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung (Điều 68 Bộ luật TTHS) Quyết định phê chuẩn hay từ chối phê chuẩn phải được đưa ra trong thời hạn 07 ngày (Điều 69 Bộ luật TTHS) Nếu cơ quan công an không đồng ý với quyết định không phê chuẩn, họ có thể khiếu nại lên VKS cấp trên để xem xét lại (Điều 7 Quy tắc tố tụng hình sự đối với VKSND năm 1999).

Thông tư 26/2000/TT-BCA quy định về việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự và yêu cầu trả lời bằng văn bản trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận khiếu nại Trong quá trình điều tra, nếu Viện Kiểm sát (VKS) phát hiện hành vi trái pháp luật, VKS có quyền yêu cầu cơ quan công an khắc phục sai sót theo Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

17 Trần Minh Tạo (2017), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh

Bạc Liêu, Viện Hàn Lâm Khoa học Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội (tr.14) quy định về trách nhiệm của Viện Kiểm sát (VKS) trong việc phê chuẩn gia hạn tạm giam nghi phạm VKS cấp trên có thẩm quyền phê chuẩn gia hạn thêm 01 tháng sau khi bắt (Điều 124 Bộ luật TTHS) VKSND tối cao phải báo cáo Quốc hội về việc gia hạn thời gian tạm giam (Điều 125 Bộ luật TTHS), trong khi VKSND cấp tỉnh có quyền phê chuẩn gia hạn 02 tháng trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng (Điều 126 Luật TTHS), và có thể gia hạn thêm 02 tháng nữa nếu cần thiết (Điều 127 Luật TTHS) VKS cũng có trách nhiệm đảm bảo rằng cơ quan công an thực hiện việc tạm giam đúng thời hạn luật định và có biện pháp khắc phục trong trường hợp tạm giam quá thời hạn (Điều 75 và Điều 76).

Khi kết thúc hoạt động điều tra, cơ quan điều tra hình sự sẽ chuyển hồ sơ vụ án cùng với văn bản đề nghị truy tố đến Viện kiểm sát.

Theo Bộ luật TTHS, Viện Kiểm sát (VKS) phải xem xét liệu chứng cứ đã đầy đủ để truy tố trước tòa hay không (Điều 138) Nếu VKS cho rằng chứng cứ chưa đủ, có thể trả hồ sơ yêu cầu cơ quan công an điều tra bổ sung tối đa hai lần (Điều 140) Nếu cơ quan công an không cung cấp đủ chứng cứ cần thiết, VKS có quyền quyết định không truy tố (Điều 140) Cơ quan công an và nạn nhân phải được thông báo về quyết định này và có quyền khiếu nại lên VKS cấp trên (Điều 144 và 145) Tuy nhiên, việc thực hiện quyền kiểm sát của VKS trong tất cả các giai đoạn điều tra gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc gia hạn thời hạn giam giữ người bị tình nghi (Chen Dongfeng, 2009) Ví dụ, năm 2007, VKS đã thực hiện quyền gia hạn giam giữ trái pháp luật đối với 57 người bị tạm giam (Niên giám pháp luật 2008) VKS cũng có thẩm quyền độc lập trong việc xem xét các khiếu nại của gia đình và luật sư đối với các quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng hình sự.

Theo Niên giám pháp luật 2008, Viện Kiểm sát đã áp dụng cơ chế khiếu nại theo Nghị quyết số 2007, với tổng số 3.033 vụ án khiếu nại được xử lý và 475 quyết định khiếu nại đã được sửa đổi.

Có một số vấn đề quan trọng trong mối quan hệ giữa cơ quan công an và Viện Kiểm sát (VKS), bao gồm việc phân định thẩm quyền trong điều tra tội phạm và thẩm quyền kiểm sát của VKS đối với hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra hình sự VKS có trách nhiệm phê chuẩn lệnh bắt, gia hạn thời gian tạm giam và phê chuẩn việc truy tố người phạm tội ra trước tòa Cả cơ quan công an và VKS cần phối hợp trong các hoạt động tố tụng hình sự, như áp dụng biện pháp quản thúc tại gia và bắt người tình nghi phạm tội Quyết định của VKS về biện pháp quản thúc tại gia phải được cơ quan công an thực hiện, đồng thời VKS cũng phải kiểm tra địa chỉ của đối tượng Các quyết định về tạm giam hay bắt người tình nghi sẽ được giao cho cơ quan công an để thực hiện Khi cán bộ kiểm sát điều tra ngoài phạm vi thẩm quyền, họ cần liên hệ với VKS địa phương và cơ quan công an để nhận sự hỗ trợ trong quá trình điều tra.

Với vai trò pháp lý quan trọng, Viện Kiểm sát (VKS) có thẩm quyền lớn trong việc kiểm sát tuân thủ pháp luật đối với hoạt động điều tra của cơ quan công an và áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan VKS cũng tham gia vào hoạt động xét xử của tòa án và công tác thi hành án tại các nhà tù Tuy nhiên, việc thực thi các quyền này trong thực tế vẫn còn gặp nhiều hạn chế nghiêm trọng Trong bối cảnh rộng hơn, VKS được xem là một trong những "cơ quan tư pháp" chính trong hệ thống pháp luật.

Nhà nước có trách nhiệm tham gia đầy đủ vào các cuộc tấn công mạnh mẽ chống lại tội phạm nghiêm trọng theo từng giai đoạn Các cơ quan tư pháp được yêu cầu phối hợp chặt chẽ trong những đợt cao điểm phòng chống tội phạm, với mục tiêu không gây cản trở hay trì hoãn việc truy tố và kết án Thực tế, quyền kiểm sát của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKS) chỉ có thể thực thi sau khi vụ việc đã xảy ra, dẫn đến việc VKS có rất ít quyền kiểm soát đối với hoạt động của các cơ quan điều tra hình sự trong quá trình điều tra tội phạm và hỏi cung nghi phạm Mối quan hệ giữa VKS và cơ quan công an tại Trung Quốc khá phức tạp, vì VKS cần sự hợp tác của cơ quan công an để thực hiện các biện pháp bảo đảm, quản thúc tại gia và các lệnh tạm giam trong các vụ án do VKS trực tiếp điều tra Sự phức tạp còn tăng lên khi VKS thực hiện quyền kiểm sát hoạt động xét xử thông qua quyền kháng nghị của mình Hiện nay, việc nâng cao chuẩn mực chuyên môn trong hoạt động kiểm sát liên quan đến điều tra, xử lý chứng cứ, thực hành quyền công tố tại tòa án và thực hiện chức năng kiểm sát cũng đang được triển khai tại Trung Quốc.

1.3.2 Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga

Vi n kiểm sát Liên bang Nga là một cơ quan có v tr độc lập riêng bi t với c c cơ quan h nh ph p v tư ph p

Tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga là một hệ thống tập trung thống nhất, trong đó các Kiểm sát viên cấp dưới tuân thủ chỉ đạo từ các Kiểm sát viên cấp trên và Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga Hệ thống này hoạt động theo nguyên tắc "hoàn toàn độc lập với các cơ quan công dân, tổ chức", đảm bảo tính độc lập và khách quan trong công tác kiểm sát.

Ngành kiểm sát Nga hoạt động độc lập với các cơ quan quản lý của liên bang và chính quyền địa phương, nhằm duy trì tính tự chủ như một công cụ của các cơ quan có thẩm quyền trung ương Theo Luật tổ chức VKSND Liên bang Nga, ngành kiểm sát không phối hợp hoạt động thi hành pháp luật với các cơ quan hành chính, trừ những trường hợp thông thường Điều này giúp ngành kiểm sát thực hiện quyền hạn kiểm soát độc lập đối với các cơ quan nhà nước, bao gồm cả cơ quan an ninh và tòa án, đồng thời đảm bảo sự độc lập trong quá trình điều tra và thực thi quyền hạn của mình.

Luật liên bang về kiểm sát của Liên bang Nga quy định chín chức năng và nhiệm vụ cơ bản của ngành kiểm sát Tất cả các chức năng và nhiệm vụ này đều được thực hiện ở từng cấp của hệ thống kiểm sát, đảm bảo sự hoạt động hiệu quả và đồng bộ trong việc thực thi pháp luật.

Luận án Tiến sĩ Luật học của Trần Minh Tạo (2017) nghiên cứu về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Bạc Liêu Nghiên cứu này được thực hiện tại Viện Hàn Lâm Khoa học Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nội dung kiểm sát tại Nga bao gồm việc giám sát thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước thuộc chính phủ liên bang và các cơ quan địa phương, đảm bảo quyền và tự do của công dân được tôn trọng Kiểm sát viên có quyền kiểm tra, yêu cầu tài liệu, và tiến hành điều tra các hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm cả việc truy tố hình sự và khởi kiện hành chính Họ cũng có thể kháng nghị các quyết định trái pháp luật của các cơ quan nhà nước và tham gia vào việc soạn thảo các dự án luật Mặc dù Viện kiểm sát không có quyền kiểm soát trực tiếp đối với các quyết định của Chính phủ hay Quốc hội, nhưng họ vẫn có thể nêu vấn đề với Tổng thống nếu cần thiết Kiểm sát viên có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của công dân, khởi kiện khi cần thiết, và đảm bảo rằng mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xử lý kịp thời và đúng quy định.

L ch sử phát triển của VKSND ở nước ta đã tr i qua nhi u giai đoạn từ n m

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT VÀ THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Ngày đăng: 01/04/2022, 21:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
21. Nguyễn Hòa Bình (2012) “N ng cao chất ư ng th c hành quy n công tố và kiểm sát các hoạt động tư ph p” Tạp chí Kiểm sát, (số 10) Sách, tạp chí
Tiêu đề: N ng cao chất ư ng th c hành quy n công tố và kiểm sát các hoạt động tư ph p” "Tạp chí Kiểm sát
22. Nguyễn Hòa Bình (2016) Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, (sách chuyên kh o), Nxb Chính tr quốc gia-S thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Nhà XB: Nxb Chính tr quốc gia-S thật
23. Nguyễn Hòa Bình (2016) “X ng ngành kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh nơi gửi trọn ni m tin công ý” NXB Qu n đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: X ng ngành kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh nơi gửi trọn ni m tin công ý
Nhà XB: NXB Qu n đội nhân dân
24. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, (sách chuyên kh o), NXB Chính tr Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nội dung mới trong Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015
Tác giả: Nguyễn Hòa Bình (chủ biên)
Nhà XB: NXB Chính tr Quốc gia
Năm: 2016
25. L V n C m (2009) “H thống tư ph p hình s trong giai đoạn ưng Nh nước pháp quy n” NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: H thống tư ph p hình s trong giai đoạn ưng Nh nước pháp quy n
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
26. L V n C m (2012) “Kiểm soát quy n l c nh nước bằng h thống Vi n kiểm sát ở Vi t Nam trong bối c nh sửa đổi Hi p pháp hi n na ” Tạp chí kiểm sát, số 7/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm soát quy n l c nh nước bằng h thống Vi n kiểm sát ở Vi t Nam trong bối c nh sửa đổi Hi p pháp hi n na ” "Tạp chí kiểm sát
28. Ngô Hu Cương (2006) “Góp phần bàn v c i cách pháp luật ở Vi t Nam hi n na ” NXB Tư ph p H Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần bàn v c i cách pháp luật ở Vi t Nam hi n na
Nhà XB: NXB Tư ph p H Nội
29. Ho ng Xu n Đ n (2018) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án ti n sĩ uật học, Khoa luật - Học vi n Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
30. Đỗ V n Đương (2012) “B o d m t nh độc lập của Vi n kiểm sát và vai trò của Vi n kiểm sát trong kiểm sát các hoạt động tư ph p inh nghi m từ th c tiễn Vi t Nam” Tạp chí Kiểm sát, số 7/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: B o d m t nh độc lập của Vi n kiểm sát và vai trò của Vi n kiểm sát trong kiểm sát các hoạt động tư ph p inh nghi m từ th c tiễn Vi t Nam” "Tạp chí Kiểm sát
31. Nguyễn Duy Gi ng (2013) “Những vướng mắc, bất cập trong qu đ nh của pháp luật tố tụng hình s Vi t Nam v Vi n kiểm s t người ti n hành tố tụng thuộc Vi n kiểm sát và một số ki n ngh hoàn thi n” Tạp chí kiểm sát, số 05, tr.45-49 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vướng mắc, bất cập trong qu đ nh của pháp luật tố tụng hình s Vi t Nam v Vi n kiểm s t người ti n hành tố tụng thuộc Vi n kiểm sát và một số ki n ngh hoàn thi n” "Tạp chí kiểm sát
32. Phạm Hồng H i (2011) “B n v ch c n ng iểm sát hoạt động tư ph p của Vi n kiểm s nhân dân, Vi n Nh nước và Pháp luật” Kỷ yếu hội thảo quốc tế, ngày 27-28 th ng 4 n m 2011 H Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: B n v ch c n ng iểm sát hoạt động tư ph p của Vi n kiểm s nhân dân, Vi n Nh nước và Pháp luật” "Kỷ yếu hội thảo quốc tế
33. Nguyễn Th Hạnh (2015), Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội), Luận v n thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội)
Tác giả: Nguyễn Th Hạnh
Năm: 2015
34. Phan Trương Hi n (2018), Địa vị pháp lý của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận v n thạc sỹ luật học, Khoa luật - Học vi n Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa vị pháp lý của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Phan Trương Hi n
Năm: 2018
35. Vũ Vi t Hùng, Trần Hưng Bình (2012) Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Đ tài khoa học cấp bộ: Vụ 1A, Vi n kiểm sát nhân dân Tối cao Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
36. Đo n Tạ Cửu Long (2015), Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận án ti n sỹ luật học Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
Tác giả: Đo n Tạ Cửu Long
Năm: 2015
37. Võ Th Kim Oanh (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất b n Hồng Đ c, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Tác giả: Võ Th Kim Oanh
Năm: 2016
38. Trần Công Ph n (2014) “Một số đ nh hướng sửa đổi, bổ sung BLHS đ p ng yêu cầu xây d ng Nh nước pháp quy n XHCN Vi t Nam” Tạp chí kiểm sát, (16), tr.03 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số đ nh hướng sửa đổi, bổ sung BLHS đ p ng yêu cầu xây d ng Nh nước pháp quy n XHCN Vi t Nam” "Tạp chí kiểm sát
39. Nguyễn V n Qu ng (2011) “Ch c n ng nhi m vụ của Vi n kiểm sát nhân dân trong giai đoạn đi u tra các vụ án hình s ” Kỷ yếu hội thảo quốc tế, ngày 27-28 th ng 4 n m 2011 H Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ch c n ng nhi m vụ của Vi n kiểm sát nhân dân trong giai đoạn đi u tra các vụ án hình s ” "Kỷ yếu hội thảo quốc tế
40. Lê Hữu Thể (2013) “Những vấn đ lý luận và th c ti n cấp bách của vi c đổi mới thủ tục tố tụng hình s đ p ng yêu cầu c i c ch tư ph p” NXB Ch nh tr quốc gia-S thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đ lý luận và th c ti n cấp bách của vi c đổi mới thủ tục tố tụng hình s đ p ng yêu cầu c i c ch tư ph p
Nhà XB: NXB Ch nh tr quốc gia-S thật
41. Trường đ o tạo, bồi ưỡng nghi p vụ kiểm sát (2012), Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát
Tác giả: Trường đ o tạo, bồi ưỡng nghi p vụ kiểm sát
Năm: 2012

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w