KIỂM SÁT VIỆC XÁC ĐỊNH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN ĐỂ KÊ BIÊN THI HÀNH ÁN
Kiểm sát việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản của người phải thi hành án đang trực tiếp sử dụng để kê biên thi hành án
Kiểm sát hoạt động tư pháp, theo Từ điển Luật học, là quá trình kiểm tra, giám sát và theo dõi việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và giam giữ Theo Điều 4 LTCVKS, đây là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hành vi và quyết định trong lĩnh vực tư pháp Như vậy, hoạt động kiểm sát của VKSND không chỉ là kiểm tra mà còn là giám sát các hoạt động tố tụng, đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Kiểm sát thi hành án dân sự là một phần quan trọng trong chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND), nhằm đảm bảo rằng các bản án và quyết định của Tòa án, dù đã có hiệu lực pháp luật hay chưa, được thi hành đầy đủ, kịp thời và đúng quy định pháp luật Hoạt động này không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, mà còn góp phần duy trì ổn định chính trị, xã hội, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước, đặc biệt là hệ thống các cơ quan tố tụng.
Trong thi hành án dân sự, việc đảm bảo thực hiện kịp thời và đúng pháp luật đòi hỏi một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả Hoạt động kiểm sát trong thi hành án dân sự, đặc biệt là việc kê biên tài sản của người phải thi hành án, đóng vai trò quan trọng VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan thi hành án và các chủ thể liên quan, nhằm đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Sự tham gia của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (VKSND) đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế tiêu cực và thiếu sót trong quá trình thi hành án dân sự Đặc biệt, việc kiểm soát kê biên tài sản, đặc biệt là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS).
1 Từ điển Luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp, tr 441
Theo Hướng dẫn số 05/HD-VKSTC ngày 05/01/2018 của VKSND tối cao, các cấp VKSND cần tăng cường công tác kiểm sát thi hành án dân sự và hành chính, đặc biệt là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó chú trọng đến kê biên tài sản là quyền sử dụng đất Cần thực hiện kiểm sát trực tiếp, đặc biệt là đối với các vụ án tồn đọng, kéo dài, đồng thời kịp thời ban hành các bản kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu khắc phục vi phạm.
Theo Điều 12 LTHADS, VKSND có quyền kiểm sát trực tiếp hoạt động thi hành án dân sự của CQTHADS cấp dưới, CHV và các tổ chức, cá nhân liên quan VKSND có thể ban hành kết luận kiểm sát và kiến nghị xem xét các hành vi, quyết định vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa án và CQTHADS Ngoài ra, VKSND yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý cá nhân vi phạm, đồng thời kiến nghị các cơ quan, tổ chức có liên quan khắc phục nguyên nhân dẫn đến vi phạm và áp dụng biện pháp phòng ngừa VKSND còn có quyền kháng nghị các quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng, yêu cầu đình chỉ thi hành, thu hồi, sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định vi phạm trong quá trình thi hành án, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước và quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Theo Điều 14 Quy chế KSTHADS, VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, đặc biệt là khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất VKSND cần kiểm tra các nội dung cơ bản như thẩm quyền, căn cứ, đối tượng, thời hạn và thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế Ngoài ra, việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án khi cần huy động lực lượng, bảo quản tài sản thi hành án, xử lý tranh chấp về tài sản và các quy định liên quan cũng là những yếu tố quan trọng trong quá trình kiểm sát.
Hoạt động kiểm sát việc kê biên tài sản của người phải thi hành án, đặc biệt là quyền sử dụng đất, được thực hiện thông qua việc cử Kiểm sát viên (KSV) tham gia trực tiếp vào quá trình cưỡng chế hoặc kiểm sát hồ sơ, tài liệu liên quan Khi tham gia, KSV cần nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu thi hành án để phát hiện các vi phạm trong tổ chức cưỡng chế Nếu có vi phạm, KSV sẽ báo cáo Lãnh đạo Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) để yêu cầu hoặc kiến nghị khắc phục Ngoài ra, nếu phát hiện vi phạm tại nơi tổ chức cưỡng chế, KSV sẽ yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) và chấp hành viên (CHV) khắc phục, sau đó báo cáo Lãnh đạo VKSND.
Khi kiểm sát việc kê biên quyền sử dụng đất, cần chú ý đến các trường hợp không được kê biên, quy trình kê biên, cũng như việc tạm giao quản lý và sử dụng diện tích đất đã kê biên Đồng thời, cần xử lý tài sản gắn liền với đất theo quy định tại Điều 89, Điều 110 và Điều 111.
Theo các quy định hiện hành và thực tiễn kiểm sát việc kê biên tài sản, đặc biệt là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, tác giả nhận thấy một số bất cập tồn tại trong quá trình này.
Thứ nhất, CQTHADS, CHV không xác định được mốc giới, diện tích quyền sử dụng đất là tài sản của người phải thi hành án khi kê biên
Theo Điều 88 LTHADS, trước khi tiến hành kê biên bất động sản, cơ quan thi hành án phải thông báo cho đại diện chính quyền cấp xã, tổ dân phố, đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ít nhất 03 ngày làm việc về thời gian, địa điểm và tài sản sẽ kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh thi hành án.
Trong trường hợp đương sự vắng mặt, họ có thể ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Nếu đã thông báo hợp lệ mà cả đương sự và người được ủy quyền vẫn vắng mặt, CHV sẽ tiếp tục tiến hành kê biên, nhưng cần mời người làm chứng và ghi rõ trong biên bản kê biên Nếu không thể mời người làm chứng, CHV vẫn thực hiện kê biên nhưng phải ghi chú rõ ràng trong biên bản.
Việc kê biên tài sản cần phải lập biên bản chi tiết, trong đó ghi rõ thời gian kê biên, thông tin của các bên liên quan như họ tên của CHV, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và những người có liên quan đến tài sản Biên bản cũng phải mô tả diễn biến của quá trình kê biên, tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng.
Biên bản kê biên cần có chữ ký của các bên liên quan, bao gồm đương sự hoặc người được ủy quyền, người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã, đại diện tổ dân phố nơi diễn ra việc cưỡng chế, cùng với chữ ký của CHV và người lập biên bản.
Theo Điều 89 LTHADS, trước khi tiến hành kê biên tài sản quyền sử dụng đất, tài sản cần phải được đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật Chủ nợ (CHV) có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản và giao dịch đã được đăng ký Sau khi thực hiện kê biên, CHV phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký về việc kê biên tài sản đó để xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của LTHADS.
Kiểm sát việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản của người phải thi hành án đang đang cầm cố, thế chấp để kê biên thi hành án
Theo Điều 90 LTHADS, nếu người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc tài sản hiện có không đủ để thi hành án, cơ quan thi hành án có quyền kê biên và xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp của người đó, với điều kiện giá trị tài sản lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
Khi kê biên tài sản đang cầm cố hoặc thế chấp, CHV cần thông báo ngay cho người nhận cầm cố hoặc thế chấp Trong quá trình xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố và thế chấp sẽ được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Thi hành án dân sự.
Theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, nếu tài sản cầm cố, thế chấp có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ thanh toán, CHV phải thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp về nghĩa vụ của người thi hành án Khi thanh toán nghĩa vụ hoặc xử lý tài sản, phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự CQTHADS sẽ kê biên tài sản sau khi giải chấp hoặc thu tiền còn lại để thanh toán hợp đồng Nếu người nhận cầm cố, thế chấp không thông báo kịp thời gây thiệt hại cho người được thi hành án, họ sẽ phải bồi thường theo quy định pháp luật.
Theo khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, khi tài sản cầm cố, thế chấp đủ điều kiện kê biên để thu hồi nợ, người nhận cầm cố phải thông báo ngay kết quả xử lý tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự và giữ lại số tiền còn lại (nếu có) để cơ quan thi hành án xử lý theo quy định Nếu tài sản cầm cố có giá trị không lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án, Thủ trưởng CQTHADS sẽ ra quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên và xử lý tài sản.
Trong thực tiễn kiểm sát việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp để kê biên thi hành án, tác giả nhận thấy một số bất cập Những vấn đề này ảnh hưởng đến quá trình thi hành án và quyền lợi của các bên liên quan Cần có những giải pháp hiệu quả để cải thiện tình hình và đảm bảo tính minh bạch trong việc xác định quyền sử dụng đất.
Thứ nhất, tài sản của người phải thi hành án là quyền sử dụng đất đang cầm cố, thế chấp thuộc diện không được kê biên
Theo Nghị quyết số 42/2017/QH14, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác, trừ trường hợp thi hành án về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc khi có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu.
Quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 gây khó khăn trong việc kê biên tài sản của người phải thi hành án, đặc biệt là quyền sử dụng đất đang cầm cố, thế chấp, mặc dù tài sản có giá trị cao hơn nghĩa vụ phải thực hiện Điều 90 LTHADS quy định rằng chỉ kê biên tài sản nếu giá trị lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm và chi phí cưỡng chế, bảo vệ quyền lợi của bên nhận cầm cố, thế chấp Khoản 3 Điều 47 LTHADS cũng nêu rõ rằng tài sản cầm cố, thế chấp sẽ ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố sau khi trừ các chi phí liên quan Việc áp dụng quy định này làm chậm quá trình thi hành án, không đảm bảo thời hạn theo LTHADS và ảnh hưởng đến các khoản thu cho nhà nước, dẫn đến tình trạng án tồn đọng ngày càng tăng.
Người nhận cầm cố, thế chấp quyền sử dụng đất không cung cấp thông tin tài sản cho CQTHADS, CHV, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP và khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hệ quả là sau khi giải chấp hoặc xử lý nợ, CQTHADS, CHV không biết về tài sản còn lại của người phải thi hành án, dẫn đến việc không thể bảo đảm quyền lợi cho họ Việc thiếu thông tin này còn ảnh hưởng đến khả năng thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản khác, gây thiệt hại cho người phải thi hành án, như quy định tại khoản 5 Điều 115 LTHADS về việc trích lại tiền từ bán tài sản cho người phải thi hành án thuê nhà.
Để xác định giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp, cần xem xét giá trị này lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
Hiện nay, pháp luật thi hành án dân sự chỉ quy định điều kiện để Chấp hành viên (CHV) áp dụng Điều 90 LTHADS khi tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp và giá trị tài sản lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm cùng chi phí cưỡng chế thi hành án Tuy nhiên, hiện chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác định giá trị tài sản Điều này mở ra nhiều hướng hiểu khác nhau về quy định này.
Giá trị của quyền sử dụng đất trong hợp đồng cầm cố, thế chấp được xác định dựa trên giá trị tài sản tại thời điểm thiết lập hợp đồng.
Việc xác định lại giá trị của tài sản quyền sử dụng đất cần được thực hiện tại thời điểm xác minh và kê biên Thủ tục này tuân theo quy định tại Điều 98 và Điều 99 của Luật Thi hành án dân sự (LTHADS).
Ba, theo ý chí của người đang cầm cố, thế chấp và người cầm cố, thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất
Bốn, xác định tài sản để tiến hành kê biên trong các hợp đồng cầm cố, thế chấp
Nợ xấu là vấn đề quan trọng trong các hợp đồng cầm cố và thế chấp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế và quy trình thi hành án dân sự Việc quản lý nợ xấu hiệu quả là cần thiết để đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng thi hành án không hiệu quả, bao gồm tài sản bảo đảm không đủ, thị trường bất động sản ảm đạm, và bản án hoặc quyết định của Tòa án không rõ ràng Một trong những vấn đề chính là việc xử lý tài sản của bên thứ ba bảo đảm nghĩa vụ cho người phải thi hành án.
Ví dụ: Theo Bản án số 01/KDTM-ST ngày 22/5/2013 của TAND huyện T 5
Công ty TNHH MTV T phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam số tiền 17.537.894.723 đồng theo Bản án Nếu sau khi Bản án có hiệu lực mà Công ty TNHH MTV T không trả đủ số tiền gốc và lãi, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam có quyền yêu cầu phát mại tài sản thế chấp của anh L và chị H, bao gồm quyền sử dụng 4.739 m² đất thổ cư tại thửa 139, tờ bản đồ 25, 2.400 m² đất thổ cư tại thửa số 129, tờ bản đồ số 25 thôn 2, xã P huyên Y, cùng toàn bộ hạ tầng kỹ thuật và các công trình xây dựng trên hai thửa đất này.
5 https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-012013kdtmst-ngay-22052013-ve-tranh-chap-hop-dong-tin- dung-31840, truy cập lúc 20h ngày 11.11.2021
KIỂM SÁT THỦ TỤC KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN ĐỂ THI HÀNH ÁN
Kiểm sát các thủ tục trước khi thực hiện việc kê biên quyền sử dụng đất là tài sản của người phải thi hành án của Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên
là tài sản của người phải thi hành án của Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên
2.1.1 Kiểm sát việc thông báo, niêm yết các quyết định, văn bản thi hành án dân sự cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Theo Điều 39 LTHADS, các quyết định và văn bản liên quan đến thi hành án phải được thông báo cho đương sự và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan Việc thông báo này có thể thực hiện qua nhiều hình thức như thông báo trực tiếp, thông qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, niêm yết công khai, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Theo Điều 12 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, việc thông báo cho đương sự và các bên liên quan được thực hiện bởi các cá nhân như công chức thi hành án, bưu tá, hoặc những người được ủy quyền từ cơ quan thi hành án Các đối tượng khác có thể tham gia thông báo bao gồm tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, UBND, công an cấp xã, thủ trưởng cơ quan, giám thị trại giam, và người thân thích của đương sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Quy chế KSTHADS, VKSND có trách nhiệm kiểm sát tính hợp pháp và căn cứ của các quyết định thi hành án do CQTHADS gửi đến Nếu phát hiện quyết định không hợp pháp hoặc thiếu căn cứ, VKSND sẽ ban hành văn bản yêu cầu, kiến nghị hoặc kháng nghị để cơ quan, người ban hành thu hồi, sửa đổi hoặc bổ sung quyết định Đồng thời, VKSND cũng phải kiểm sát việc gửi các quyết định và thông báo thi hành án theo quy định tại các điều khoản liên quan trong LTHADS và Nghị định số 33/2020/NĐ-CP.
Theo Điều 88 LTHADS, trước khi tiến hành kê biên tài sản bất động sản, cơ quan thi hành án (CHV) phải thông báo cho đại diện chính quyền cấp xã, tổ dân phố, đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ít nhất 03 ngày làm việc về thời gian, địa điểm và tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh thi hành án Nếu đương sự vắng mặt, họ có thể ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Trong trường hợp đã thông báo hợp lệ nhưng đương sự hoặc người được ủy quyền vắng mặt, CHV vẫn tiến hành kê biên, nhưng phải mời người làm chứng và ghi rõ trong biên bản kê biên; nếu không mời được người làm chứng, CHV vẫn tiến hành và ghi rõ trong biên bản.
Theo Điều 89 LTHADS, trước khi tiến hành kê biên tài sản quyền sử dụng đất, tài sản cần phải được đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định pháp luật Chủ nợ (CHV) có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản và giao dịch đã được đăng ký Sau khi kê biên, CHV phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký về việc kê biên tài sản để xử lý theo quy định của pháp luật thi hành án.
2 Điều 90 LTHADS, khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, CHV phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp
Theo Điều 111 LTHADS, khi tiến hành kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên (CHV) cần lưu ý rằng nếu đất của người phải thi hành án có tài sản gắn liền thuộc quyền sở hữu của người khác, chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo cho chủ sở hữu tài sản đó Ngoài ra, việc thông báo và niêm yết các quyết định, văn bản thi hành án dân sự cho các bên liên quan được quy định tại Điều 2 và Điều 4 của Thông tư liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
Theo các quy định về thông báo và niêm yết quyết định, văn bản thi hành án dân sự cho đương sự và các bên liên quan, tác giả đã nhận thấy qua quá trình kiểm sát.
Việc thông báo và niêm yết các quyết định liên quan đến thi hành án dân sự, đặc biệt khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, là nhiệm vụ bắt buộc của cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ thi hành án Quy định này không chỉ tuân thủ pháp luật mà còn đảm bảo quyền được thông tin và quyền tham gia của các đương sự trong quá trình thi hành án.
Việc thông báo và niêm yết các quyết định, văn bản thi hành án dân sự cho đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật về nội dung và đối tượng thông báo liên quan đến thi hành án.
Thủ tục thông báo về thi hành án cần tuân thủ các quy định của pháp luật, cụ thể là Điều 39 LTHADS, trong đó quy định rõ các loại giấy tờ cần thông báo Việc thông báo phải được thực hiện trong thời hạn luật định và người nhận thông báo được quy định tại Điều 38 và khoản 1 Điều 39 LTHADS Các đối tượng nhận bao gồm Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế thi hành án, cũng như các cơ quan, tổ chức liên quan Ngoài ra, quyết định thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và các văn bản liên quan cũng cần được thông báo cho đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo nội dung văn bản.
Qua thực tiễn kiểm sát, tác giả nhận thấy rằng việc thông báo và niêm yết các quyết định, văn bản thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên không được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định pháp luật trong một số vụ án.
Tình trạng kéo dài trong thi hành án xuất phát từ việc CQTHADS và CHV chưa nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ của mình, cũng như do chủ quan và kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế Hạn chế này có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi cho đương sự và các bên liên quan trong vụ án.
Ví dụ: Việc thi hành Bản án 09/2017/DS-PT ngày 24/0/2017 về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án dân sự 6
Theo bản án, CHV yêu cầu Tòa án phân định quyền sở hữu và chia tài sản giữa bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Trọng T trong tổng tài sản chung, bao gồm hai ngôi nhà.
Bài viết đề cập đến một nhà 01 tầng và một nhà 04 tầng, cùng với quyền sử dụng 126m² đất thuộc thửa số 261, tờ bản đồ số 02, tổ 25, phường P, thành phố H, tỉnh HB Quyền sử dụng đất này đã được cấp giấy chứng nhận vào năm 2000, với các cá nhân có quyền và lợi ích liên quan gồm Nguyễn Trọng H, Nguyễn Thị X, Nguyễn Thị Tr, Nguyễn Thị Ph và Nguyễn Trọng Q.
Theo Hội đồng xét xử phúc thẩm, việc thông báo các văn bản liên quan đến tài sản thi hành án là cần thiết và phải thông báo cho người phải thi hành án cùng các thành viên trong hộ gia đình, theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án Điều này là điều kiện cần và đủ để Tòa án thụ lý vụ án Việc CHV không thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục theo quy định của LTHADS đã dẫn đến yêu cầu Tòa án giải quyết không hợp lệ Tòa án sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu của CHV khi chưa đủ điều kiện khởi kiện, vi phạm điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự Hơn nữa, Tòa án sơ thẩm đã xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp, do đó, ý kiến của Đại diện VKSND tỉnh HB về việc hủy án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án là có căn cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.
6 https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-092017dspt-ngay-2402017-ve-tranh-chap-lien-quan-den-tai -san-bi-cuong-che-de-thi-hanh-an-42049, truy cập lúc 06h ngày 13.12.2021
Kiểm sát việc thực hiện việc kê biên
2.2.1 Cơ quan thi hành án không tổ chức cưỡng chế kê biên đối với tài sản là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án đã chuyển nhượng cho người khác sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
Hiện nay, việc người phải thi hành án thực hiện giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất sau khi bản án có hiệu lực pháp luật ngày càng phổ biến, với mục đích có thể là thi hành án hoặc tẩu tán tài sản Theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, nếu người phải thi hành án đã chuyển quyền sở hữu, sử dụng sau thời điểm bản án có hiệu lực, cơ quan thi hành án không kê biên tài sản mà sẽ thông báo cho các cơ quan liên quan để tạm dừng việc đăng ký và chuyển quyền Việc xử lý tài sản sẽ dựa trên quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền Đối với các giao dịch không chuyển nhượng quyền sở hữu, cơ quan thi hành án sẽ tiến hành kê biên và xử lý tài sản để thi hành án, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch theo quy định pháp luật.
Qua thực tiễn kiểm sát, tác giả nhận thấy các quy định này có một số bất cập như sau:
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình liên quan đến tài sản trong các giao dịch từ thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật là rất quan trọng Đặc biệt, quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thường gặp phải khiếu nại kéo dài do ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba ngay tình Trong trường hợp này, người thứ ba nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không biết rằng tài sản đang phải thi hành án Hợp đồng chuyển nhượng được thực hiện tại tổ chức công chứng mà không thông qua chính quyền địa phương, dẫn đến tổ chức công chứng không nắm rõ tình trạng của tài sản theo Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP.
Khi Chấp hành viên (CHV) tiến hành kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án đã chuyển nhượng cho người khác, nếu xảy ra tranh chấp, CHV sẽ hướng dẫn người tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận thông báo hợp lệ Kết quả giải quyết của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền sẽ là căn cứ để CHV tiến hành xử lý tiếp theo Tuy nhiên, quy trình này có thể kéo dài do Tòa án cần áp dụng nhiều biện pháp tố tụng khác nhau để đưa ra kết luận.
Theo Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, các giao dịch liên quan đến tài sản sẽ không được công nhận từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, và tài sản sẽ bị xử lý để thi hành án Để kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, cơ quan thi hành án (CHV) cần yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu, tuy nhiên, thời gian giải quyết vụ việc có thể kéo dài và dễ bị khiếu nại.
Để ngăn chặn hành vi chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án sau khi bản án có hiệu lực, cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế Tuy nhiên, việc xác minh điều kiện thi hành án của người này thường gặp khó khăn, dẫn đến hiệu quả thực thi chưa cao.
Trong trường hợp quyền sử dụng đất đã được chuyển nhượng cho người khác và người nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, Chấp hành viên (CHV) không thể định giá hoặc đấu giá tài sản vì tài sản không thuộc sở hữu của người phải thi hành án Theo khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự (LTHADS), CHV cần thông báo cho người được thi hành án yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng là vô hiệu, dẫn đến việc không thể thực hiện Điều này tạo ra trở ngại cho CHV trong quá trình thi hành án.
Ví dụ: Bản án, Quyết định số 13/2014/QĐST-DS ngày 27/02/2014 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận 10
Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận: Vợ chồng bà Ngô Thị Thuận, ông
Hồ Quốc Hùng phải trả cho vợ chồng bà Phan Dạ Thảo và ông Mông Tiến Hùng số tiền 1.514.000.000 đồng, với thời hạn thanh toán bắt đầu từ ngày 28/02/2014 đến ngày 20/8/2014.
CHV đã xác minh điều kiện thi hành án của bà Ngô Thị Thuận và ông Hồ Quốc Hùng, phát hiện rằng vào ngày 12/6/2014, họ đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho bà Nguyễn Thị Khánh Ly Hợp đồng chuyển nhượng này liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 099991 do UBND huyện Hàm Tân cấp và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở số 60594323700272 do UBND thị xã La Gi cấp Sau khi làm việc với vợ chồng bà Phan Dạ Thảo và ông Mông Tiến Hùng, CHV đã đề nghị họ khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã La Gi hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Thuận, ông Hùng và bà Khánh Ly.
Tòa án nhân dân thị xã La Gi đã hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà giữa bà Ngô Thị Thuận, ông Hồ Quốc Hùng và bà Nguyễn Thị Khánh Ly Mặc dù VKSND thị xã La Gi kháng nghị với lý do hợp đồng không vi phạm, khẳng định rằng việc chuyển nhượng là tự nguyện và có sự đồng ý của Ngân hàng Đông Á, Tòa án nhân tỉnh Bình Thuận đã không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong vụ việc thi hành này, tác giả nhận thấy:
Tòa án đã áp dụng Điều 75 LTHADS một cách máy móc trong việc giải quyết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Không phải tất cả các hợp đồng này đều vi phạm pháp luật sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực Do đó, cần xem xét từng trường hợp cụ thể trước khi tuyên bố hủy bỏ giao dịch.
10 Phụ lục 4 dịch trên là vô hiệu Tòa án cần căn cứ vào nội dung của giao dịch để quyết định cho phù hợp
Mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà giữa bà Ngô Thị Thuận, ông Hồ Quốc Hùng và bà Nguyễn Thị Khánh Ly là tự nguyện, được sự đồng ý của bên nhận thế chấp tài sản và nhằm thi hành án, do đó không phát sinh tranh chấp.
Việc CHV đề nghị vợ chồng bà Thảo, ông Hùng khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở giữa vợ chồng bà Thuận, ông Hùng với bà Nguyễn Thị Khánh Ly là không cần thiết Lý do là vì mục đích của việc yêu cầu hủy hợp đồng này là để trả nợ, do đó, việc Tòa án thụ lý và ra quyết định sẽ chỉ kéo dài thêm thời gian thi hành án.
VKSND thị xã La Gi đã kháng nghị với lý do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là tự nguyện, đảm bảo quyền lợi cho người nhận tài sản đảm bảo và phục vụ cho việc thi hành án Do đó, việc giải quyết bằng thủ tục tố tụng được cho là thừa so với quy định pháp luật và ý chí của các bên, mặc dù điều này có thể an toàn cho CQTHADS và CHV.
Để giải quyết các trường hợp người phải thi hành án cố tình thực hiện giao dịch nhằm trốn tránh thi hành án, tác giả đề xuất bổ sung và sửa đổi Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, đồng thời hướng dẫn Điều 75 Luật Thi hành án dân sự (LTHADS) theo hướng phù hợp.