NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC CỦA PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
Khái niệm và đặc điểm của ph n quy t trọng tài
1.1.1 Khái niệm phán quyết trọng tài
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua việc các bên tranh chấp đưa vụ việc ra Hội đồng trọng tài theo quy trình pháp luật quy định Kết quả của quá trình này là phán quyết trọng tài, quyết định cuối cùng của Hội đồng nhằm giải quyết toàn bộ nội dung vụ việc Phán quyết trọng tài được hiểu là quyết định mà các bên phải tuân theo, theo định nghĩa từ Từ điển Tiếng Việt và Đại từ điển kinh tế thị trường Hiện nay, chưa có định nghĩa chung về "phán quyết trọng tài" trên thế giới, mặc dù các công ước quốc tế như Công ước New York đã đề cập đến vấn đề này.
Luật Mẫu UNCITRAL không đưa ra định nghĩa chung cho thuật ngữ "phán quyết trọng tài" Tuy nhiên, Công ước New York đã định nghĩa phán quyết trọng tài là các quyết định không chỉ do trọng tài viên đưa ra cho từng vụ việc mà còn bao gồm các quyết định từ các tổ chức trọng tài thường trực mà các bên đã lựa chọn Tại Việt Nam, phán quyết trọng tài được định nghĩa là "quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài".
10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại)
Phán quyết trọng tài thương mại là quyết định của hội đồng trọng tài nhằm giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp giữa các bên và chấm dứt tranh chấp đó.
1 Hoàng Phê (2012), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB T điển Bách khoa, H Nội, tr.983
Phán quyết trọng tài là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài, mang tính ràng buộc các bên tranh chấp phải thực hiện Đây là thành quả của lao động pháp lý nghiêm túc, chứa đựng toàn bộ nội dung giải quyết tranh chấp mà các bên mong muốn Với vai trò là bộ phận hợp thành của tài phán, phán quyết trọng tài hiện thực hóa quyết định của Hội đồng trọng tài, trực tiếp thỏa mãn mục đích giải quyết tranh chấp của các bên.
1.1.2 Các loại quyết định trọng tài được xác định là phán quyết trọng tài
Thuật ngữ “phán quyết trọng tài” được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Trọng tài thương mại, đánh dấu sự khác biệt so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại trước đây Sự công nhận này khẳng định tầm quan trọng và các đặc trƣng pháp lý phức tạp của phán quyết trọng tài Trong quá trình tố tụng, Hội đồng trọng tài có thể ban hành nhiều quyết định, trong đó có hai loại quyết định được xác định là phán quyết trọng tài theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.
Thứ nhất, quy t định công nhận sự thỏa thuận của các bên của Hội đồng trọng tài quy định tại Điều 58 Luật Trọng tài thương mại 2010
Trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương lượng và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải Khi đạt được thỏa thuận, Hội đồng trọng tài lập biên bản hòa giải thành, ghi rõ thời gian, địa điểm và nội dung thỏa thuận Hội đồng trọng tài hướng dẫn các bên điều chỉnh nội dung thỏa thuận một cách cụ thể Cuối cùng, các bên ký vào biên bản hòa giải và Trọng tài viên xác nhận Dựa trên biên bản thỏa thuận, Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận thỏa thuận đó, đánh dấu kết quả của quá trình hòa giải.
3 Đ o Tr Úc (2010), “Thẩm quyền của Hội đồng trọng t i v vai tr của T a án trong quá trình tố tụng trọng t i”, Tạp chí Kho học ĐHQGHN, Luật học 26, tr 276
Theo Điều 9 Luật Trọng tài thương mại 2010, các bên tranh chấp có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ban hành quyết định khi đã thỏa thuận về việc giải quyết Quyết định này có giá trị chung thẩm và tương đương như một phán quyết trọng tài, do đó, các bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy Tuy nhiên, vì đây là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên, liên quan đến tổ chức giải quyết, quy trình tố tụng, pháp luật áp dụng và nội dung tranh chấp, nên thủ tục hủy phán quyết trọng tài trong trường hợp này có những điểm đặc biệt cần lưu ý.
Vào thứ hai, quyết định trọng tài được ban hành dựa trên quá trình xét xử của hội đồng trọng tài sau khi đã giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp Đây là loại phán quyết trọng tài chính mà tác giả sẽ nghiên cứu trong phạm vi Luận văn của mình.
Trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và không có tình huống đình chỉ giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài sẽ ban hành phán quyết dựa trên kết quả của phiên họp giải quyết tranh chấp cuối cùng Thời hạn tối đa để ban hành phán quyết là 30 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng Phán quyết trọng tài sẽ ghi nhận toàn bộ kết quả giải quyết tranh chấp và phải được ban hành theo trình tự thủ tục nhất định, tuân thủ các quy định về nội dung và hình thức theo Điều 61 của Luật Trọng tài thương mại 2010.
Phán quyết trọng tài phải đƣ c lập bằng văn bản và phải có các nội dung chủ yếu nhƣ sau đây 6 :
- Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết;
- Tên, địa ch của nguyên đơn và bị đơn;
- Họ, tên, địa ch của Trọng tài viên;
- Tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp;
- Căn cứ để ra phán quyết, tr khi các bên có th a thuận không cần nêu căn cứ trong phán quyết;
5 Các trường h p quy định tại Điều 60 Luật Trọng t i thương mại 2010
6 Điều 61 Luật Trọng t i thương mại 2010
- Kết quả giải quyết tranh chấp;
- Thời hạn thi hành phán quyết;
- Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;
- Chữ ký của Trọng tài viên
1.1.3 Đặc điểm c ph n quyết trọng t i – phân iệt v i c c quyết định trọng t i h c
Phán quyết trọng tài, được định nghĩa trong Luật Trọng tài thương mại 2010, là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài Theo Điều 3, phán quyết trọng tài được tách biệt với các quyết định khác của Hội đồng trọng tài, như quyết định về thẩm quyền, biện pháp khẩn cấp, và đình chỉ giải quyết tranh chấp, nhằm khẳng định tính chất đặc thù của nó Một quyết định chỉ được coi là phán quyết trọng tài khi đáp ứng đủ hai yếu tố nhất định.
Thứ nhất, phán quy t trọng tài giải quy t toàn bộ nội dung vụ tranh chấp đƣợc nêu trong đơn kiện
Phán quyết trọng tài được xem là quyết định cuối cùng và toàn diện, được đưa ra sau khi Hội đồng trọng tài đã giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp Tính toàn diện của phán quyết này thể hiện ở chỗ nó là quyết định duy nhất trong quá trình tố tụng, phản ánh đầy đủ kết quả giải quyết tranh chấp và bao gồm tất cả các yêu cầu của các bên trong đơn khởi kiện.
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định rằng trong quá trình tố tụng, các bên cần trình bày đầy đủ các yêu cầu của mình, vì đây là mấu chốt gây ra tranh chấp cần được giải quyết Nếu Hội đồng Trọng tài bỏ sót yêu cầu nào đó trong phán quyết, các bên có quyền yêu cầu phán quyết bổ sung Ngược lại, nếu phán quyết vượt quá yêu cầu ban đầu của các bên, Hội đồng có thể bị coi là vượt thẩm quyền, dẫn đến khả năng bị Tòa án hủy bỏ phán quyết đó Do đó, Hội đồng Trọng tài cần đảm bảo giải quyết đầy đủ và chính xác mọi vấn đề trong phạm vi thẩm quyền để tránh các rủi ro pháp lý.
Kết quả giải quyết tranh chấp là nội dung chính bắt buộc có trong phán quyết trọng tài, cần phải giải quyết toàn diện và đầy đủ các nội dung tranh chấp Trong khi đó, quyết định trọng tài là những quyết định tạm thời do Hội đồng trọng tài đưa ra liên quan đến các vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp Những quyết định này không chứa đựng nội dung kết quả giải quyết tranh chấp và không trực tiếp giải quyết yêu cầu của các bên, mà chỉ nhằm hỗ trợ cho quá trình tố tụng trọng tài diễn ra suôn sẻ hơn Trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có thể ban hành nhiều quyết định trọng tài khác nhau, nhưng chỉ có một phán quyết trọng tài duy nhất nhằm giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp.
Thứ hai, việc ban hành quy t định này dẫn đ n chấm dứt toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài và chấm dứt nhiệm vụ của Hội đồng trọng tài
Phán quyết trọng tài đánh dấu thời điểm kết thúc quá trình tố tụng trọng tài, có nghĩa là khi Hội đồng trọng tài đưa ra quyết định, mọi tranh chấp sẽ được giải quyết và không còn cơ hội kháng cáo.
8 Điều 36 Luật Trọng t i thương mại 2010
Theo Khoản 4 Điều 63 Luật Trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài không thể bị xem xét lại về nội dung quyết định, trừ trường hợp sửa lỗi kỹ thuật theo quy định của pháp luật Phán quyết trọng tài được coi là bằng chứng pháp lý rõ ràng nhất, xác nhận rằng vụ việc đã được xử lý thông qua một quy trình tố tụng hoàn chỉnh, do đó không thể yêu cầu xét xử lại, trừ khi phán quyết đó bị hủy bởi Tòa án.
Hiệu lực của ph n quy t trọng tài trong mối quan hệ giữa các bên
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định thống nhất về “hiệu lực của phán quyết trọng tài”, mà các đặc điểm này được phản ánh qua các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Trọng tài thương mại Phán quyết trọng tài là kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc của Hội đồng trọng tài, chứa đựng toàn bộ nội dung giải quyết tranh chấp mà các bên mong muốn Do đó, hiệu lực của phán quyết trọng tài là mục tiêu quan trọng nhất trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Trong phần này của luận văn, chúng ta sẽ phân tích hiệu lực của phán quyết trọng tài từ hai khía cạnh: giá trị pháp lý và khả năng thi hành Giá trị pháp lý là nền tảng cho hiệu lực thi hành, nghĩa là phán quyết trọng tài phải có giá trị pháp lý để có thể được thi hành thực tế Ngược lại, hiệu lực thi hành là sự hiện thực hóa giá trị pháp lý, vì một phán quyết trọng tài sẽ không có ý nghĩa nếu không thể thi hành Do đó, việc nghiên cứu hiệu lực của phán quyết trọng tài cần xem xét cả hai khía cạnh này thông qua các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật trọng tài Tính chung thẩm và hiệu lực của sự việc đã được giải quyết là những yếu tố quan trọng thuộc về giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài, trong khi hiệu lực thi hành phản ánh khả năng thực thi của phán quyết đó trong thực tế.
1.2.1 Hiệu lực chung thẩm c phán quyết trọng tài
Nguyên tắc về tính chung thẩm của phán quyết trọng tài đƣ c quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 “Ph n quyết trọng tài là chung
Theo H C Alvarez (2008), trong bài viết về việc thực hiện Công ước New York tại Canada, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận tính chung thẩm của phán quyết trọng tài, nhưng chưa giải thích rõ ràng về hiệu lực của nó Tính chung thẩm được hiểu là vụ việc đã được trọng tài giải quyết sẽ không thể bị xét xử lại qua các thủ tục phúc thẩm hay tái thẩm Các quy định trong pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam cũng khẳng định rằng các bên không có quyền kháng cáo hay kháng nghị đối với phán quyết trọng tài, và không có cấp xét xử nào khác để xem xét lại nội dung tranh chấp Do đó, phán quyết trọng tài ngay lập tức có hiệu lực sau khi ban hành và không thể bị kháng cáo hay xem xét lại bởi bất kỳ thủ tục cấp trên nào khác.
Tính chung thẩm là đặc điểm nổi bật của phán quyết trọng tài, mang lại ưu thế vượt trội so với phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án Khi Hội đồng trọng tài ban hành phán quyết, quá trình tố tụng kết thúc và đây là kết quả cuối cùng, không thể bị xem xét lại về nội dung bởi bất kỳ thủ tục cấp trên nào Ngược lại, tranh chấp tại Tòa án phải trải qua nhiều giai đoạn như sơ thẩm, phúc thẩm, và có thể bị kháng cáo, kháng nghị, dẫn đến việc kéo dài thời gian giải quyết Tính chung thẩm trong trọng tài cho phép quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, với ít trường hợp hủy phán quyết do sai sót thủ tục Để đạt được tính hiệu lực chung thẩm, phán quyết trọng tài cần phải được xây dựng từ một quá trình giải quyết khách quan và tuân thủ quy định pháp luật.
13 Khoản 5 Điều 61 Luật Trọng t i thương mại 2010
14 Đỗ Văn Đại - Trần Ho ng Hải (2011), Ph p luật Việt N m về Trọng t i thương mại, NXB Ch nh trị quốc gia – Sự thật, tr.320
Hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho xã hội và các bên tranh chấp Đầu tiên, nó giúp giải quyết tranh chấp nhanh chóng, duy trì một nền tài phán lành mạnh, hiệu quả và gọn nhẹ Thứ hai, các bên có tranh chấp tiết kiệm thời gian và công sức, nhận được kết quả giải quyết ngay lập tức mà không cần trải qua các giai đoạn tố tụng cấp trên Ưu điểm này đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh doanh thương mại, vì nó giúp các bên tiết kiệm thời gian và tăng cường mối quan hệ đối tác.
Ngày nay, tính chung thẩm của phán quyết trọng tài là nguyên tắc cơ bản trong trọng tài thương mại, được ghi nhận trong các văn bản luật trọng tài quốc tế và luật trọng tài của nhiều quốc gia Cụ thể, Điều 34 Bản Quy tắc trọng tài UNCITRAL ngày 15/12/1976 (sửa đổi, bổ sung ngày 06/12/2010) của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế quy định rõ về vấn đề này.
Phán quyết trọng tài cần được lập bằng văn bản và có tính chung thẩm, ràng buộc các bên tham gia Các bên có trách nhiệm cam kết thi hành phán quyết một cách kịp thời Tính chung thẩm của phán quyết trọng tài đã được công nhận rộng rãi, trở thành chuẩn mực trong nhiều hệ thống pháp luật trọng tài.
Các trung tâm trọng tài tại Việt Nam khẳng định giá trị chung thẩm của phán quyết trong quy tắc tố tụng của mình, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật Trọng tài thương mại Cụ thể, Điều 31 trong Bản quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) nêu rõ rằng “Quyết định trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố Các bên phải thi hành quyết định trọng tài theo quy định của pháp luật.”
Trọng tài Thương mại phía Nam (STAC) cũng ghi nhận nguyên tắc này tại Điều 31:
Phán quyết trọng tài có tính chất chung thẩm và có hiệu lực ngay từ ngày ban hành Điều này cho thấy hiệu lực chung thẩm của phán quyết được công nhận rộng rãi, trở thành một nguyên tắc đặc thù trong tố tụng trọng tài.
1.2.2 Hiệu lực c sự việc đã được giải quyết ằng phán quyết trọng tài c phán quyết trọng tài (Res judicata)
Người ta thường sử dụng “Res judicata” - một thuật ngữ lấy t tiếng Latin - để nhằm ch “hiệu lực của sự việc đ đƣ c giải quyết”, một vấn đề cuối cùng đ
Hiệu lực của quyết định trọng tài được thể hiện qua nguyên tắc "res judicata", nghĩa là các bên không thể yêu cầu xét xử lại một vụ tranh chấp đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài Điều này đảm bảo rằng quyết định được đưa ra một cách công bằng và xứng đáng dựa trên pháp luật, đồng thời ngăn chặn việc khởi kiện lại từ các bên liên quan Sự giải thích này nhấn mạnh rằng một phán quyết đã ban hành sẽ không còn bị xem xét lại qua các phiên xét xử khác hoặc cấp xét xử cao hơn như phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm.
Nghiên cứu lịch sử pháp luật về trọng tài cho thấy rằng việc công nhận hiệu lực của các phán quyết trọng tài không phải là điều hiển nhiên Thực tế, sự công nhận này phụ thuộc vào nhiều yếu tố pháp lý và quy định cụ thể trong từng trường hợp.
Trong một thời gian dài, chúng ta đã nghi ngờ về hiệu lực của các phán quyết trọng tài, đặc biệt là tính chất tài phán của chúng Tuy nhiên, hiện nay, sự tranh luận về tính tài phán của phán quyết trọng tài đã giảm đi đáng kể Theo pháp luật so sánh, phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi là có hiệu lực đối với các sự việc đã được giải quyết, điều này đồng nghĩa với việc hiệu lực của các phán quyết này được công nhận một cách phổ biến.
Trong lĩnh vực tài phán trọng tài, hiệu lực của sự việc đã được giải quyết (hay còn gọi là Res judicata) có nghĩa là ngăn cấm việc tái xét xử một tranh chấp đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài.
Thực trạng của pháp luật Việt Nam
Khác với nhiều hệ thống pháp luật như Áo, Đức hay Pháp, pháp luật Việt Nam có một văn bản riêng về trọng tài, đó là Luật Trọng tài thương mại, tồn tại song song với Bộ luật Tố tụng dân sự Trong khi Bộ luật Tố tụng dân sự quy định rõ ràng về hiệu lực của các vụ việc được giải quyết tại Tòa án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì Luật Trọng tài thương mại vẫn chưa làm rõ vấn đề hiệu lực liên quan đến phán quyết trọng tài.
16 Đỗ Văn Đại (2021), “Sự việc đ đƣ c giải quyết bằng phán quyết trọng t i”, Tạp chí Kho học ph p lý số
6(145)/2021, Đại học Luật TP HCM, tr 2
17 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 2
18 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 2
Pháp luật trọng tài Việt Nam hiện hành công nhận tính chung thẩm và hiệu lực ngay từ ngày ban hành của phán quyết trọng tài.
Hiệu lực của ph n quy t trọng tài trong mối quan hệ với bên thứ ba
1.3.1 Bên thứ ba trong tố tụng trọng tài
Hiệu lực của phán quyết trọng tài là ràng buộc các bên tham gia tố tụng dựa trên thỏa thuận trọng tài đã được thiết lập trước đó Đây là nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực trọng tài.
29 Nguyễn Thị Hoa (2021), “Ho n thiện pháp luật trọng t i ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 tháng 6, tr.40
"Các bên tham gia tố tụng trọng tài" đề cập đến những bên liên quan trực tiếp đến quá trình tố tụng, cụ thể là các bên đã ký kết thỏa thuận trọng tài Tuy nhiên, quy tắc này có những ngoại lệ, cho phép phán quyết trọng tài có thể ảnh hưởng đến bên thứ ba trong một số trường hợp nhất định Mặc dù phán quyết trọng tài không ràng buộc trực tiếp đối với bên thứ ba, nhưng vẫn có thể tác động đến những bên không tham gia tố tụng.
Luật Trọng tài thương mại không quy định về “người thứ ba” trong tố tụng trọng tài, khác với tố tụng dân sự tại Tòa án, nơi có sự tham gia của “người có quyền và nghĩa vụ liên quan” Trong vụ kiện trọng tài, chỉ có các bên đã thỏa thuận trọng tài tham gia Tuy nhiên, “người thứ ba” được ghi nhận tại Điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, quy định rằng Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài khi có nội dung trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của một hoặc nhiều bên, cũng như của người thứ ba.
Trong Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, thuật ngữ “người thứ ba” không đồng nghĩa với “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” như được quy định trong vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Bộ luật này xác định rõ về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trong khi Luật Trọng tài thương mại lại không đề cập đến khái niệm này.
Hội đồng trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận trọng tài giữa các bên, theo quy định tại Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại Nếu không tồn tại thỏa thuận này, trọng tài sẽ không có quyền quyết định về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến quan hệ tranh chấp.
Trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, những vấn đề này sẽ được giải quyết thông qua một vụ án khác theo quy trình tố tụng dân sự, như đã được đề cập trong tài liệu của Gary B Born (2009) về trọng tài thương mại quốc tế.
Theo Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, "người thứ ba" được hiểu là các tổ chức quốc tế hoặc nhóm tổ chức xã hội đại diện cho lợi ích công cộng, tham gia khởi kiện trong các vụ án liên quan đến sức khỏe cộng đồng, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và quyền lợi người tiêu dùng Ngoài ra, "người thứ ba" cũng có thể là một quốc gia khác có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết trọng tài, đặc biệt trong các tranh chấp đầu tư được giải quyết bằng trọng tài.
"Người thứ ba" có thể là cá nhân hoặc tổ chức không liên quan đến tranh chấp nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi phán quyết trọng tài, nếu phán quyết đó xâm phạm quyền lợi của họ hoặc vi phạm công lý hiển nhiên.
Người bảo lãnh có thể là bên thứ ba không tham gia trực tiếp vào tố tụng trọng tài giữa bên cho vay và bên đi vay, mặc dù họ có những nghĩa vụ liên quan đến khoản vay Điều này có thể dẫn đến việc người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm pháp lý theo phán quyết của trọng tài.
Nhà thầu phụ có thể không tham gia trực tiếp vào tố tụng trọng tài giữa chủ đầu tư và nhà thầu chính, mặc dù phán quyết trọng tài vẫn có thể ảnh hưởng đến phần công trình của nhà thầu phụ nếu có khiếm khuyết dẫn đến tranh chấp.
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP không xác định bên thứ ba là một bên thực sự trong thủ tục tố tụng trọng tài, vì họ không ký kết thỏa thuận trọng tài và không tham gia vào quá trình trọng tài trước đó Tuy nhiên, do tất cả các bên, bao gồm bên tranh chấp và bên thứ ba, đều tham gia vào một mối quan hệ hợp đồng đa bên, bên thứ ba sẽ bị ảnh hưởng bởi kết quả của tranh chấp trong phán quyết Điều này nên được hiểu là một hệ quả logic của mối quan hệ tương quan giữa các bên, chứ không phải là hành vi kiện tụng của các bên nhằm chống lại bên thứ ba.
Trong một số trường hợp, bên thứ ba có thể phải chịu hậu quả từ phán quyết trọng tài Đây là kết quả của một hợp đồng có rủi ro mà bên này đã chấp nhận từ trước Ví dụ, người bảo lãnh có thể chấp nhận rủi ro rằng con n có thể không đủ khả năng chi trả, dẫn đến trách nhiệm pháp lý cho chính mình.
Tố tụng trọng tài bắt đầu từ thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết tranh chấp, thể hiện tính ý chí và quyền lựa chọn của họ Nếu không có thỏa thuận này, quá trình tố tụng sẽ không thể khởi động Phán quyết trọng tài trở thành ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa thuận, và trong suốt quá trình tố tụng, các bên phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ của mình Khi thủ tục tố tụng được mở ra, thỏa thuận trọng tài chuyển thành một hiện tượng có quy mô tài phán, dẫn đến việc phán quyết có thể được công nhận và thi hành toàn cầu, vượt qua các ranh giới pháp lý Phán quyết này không chỉ có hiệu lực như một hợp đồng đơn thuần mà còn được thi hành thông qua các cơ chế cưỡng chế nhà nước, tương tự như các quyết định của cơ quan tư pháp Đặc biệt, hiệu lực của phán quyết trọng tài có thể ảnh hưởng đến bên thứ ba có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp, mở rộng phạm vi thi hành ra ngoài các bên trong thỏa thuận.
Trong tranh chấp được giải quyết tại trọng tài, tồn tại bên thứ ba không ký thỏa thuận trọng tài với các bên tranh chấp Khi xảy ra tranh chấp, tố tụng trọng tài chỉ áp dụng cho các bên đã ký thỏa thuận, loại trừ bên thứ ba không tham gia Mặc dù bên thứ ba không trực tiếp tham gia tố tụng, phán quyết trọng tài vẫn có thể ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, do nội dung giải quyết tranh chấp có tác động trực tiếp đến họ hoặc nghĩa vụ của bên thứ ba có thể liên quan đến việc giải quyết triệt để tranh chấp.
1.3.2 Phán quyết trọng tài xâm hại t i người thứ ba
Phán quyết trọng tài có thể ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, mặc dù họ không tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài Trong một số trường hợp, lợi ích của bên thứ ba, có thể là cá nhân hoặc tổ chức, bị xâm phạm do thỏa thuận giữa hai bên trong hợp đồng hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng Nếu nội dung của biên bản hòa giải giữa hai bên có điều khoản xâm phạm lợi ích của bên thứ ba, phán quyết trọng tài công nhận thỏa thuận đó sẽ dẫn đến việc xâm phạm quyền lợi của họ Mức độ ảnh hưởng của phán quyết trọng tài đối với bên thứ ba phụ thuộc vào mối quan hệ giữa họ và các bên liên quan, cũng như sự liên quan của bên thứ ba đối với nội dung tranh chấp.
Chúng ta cùng xem xét một vụ việc thực tế về giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài xâm phạm đến người thứ ba như sau: