1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

85 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quyền Con Người Của Người Thiểu Số Về Dân Tộc Và Người Bản Địa Trong Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Việt Nam
Tác giả Nguyễn Phương Kiên
Người hướng dẫn Thạc Sĩ Lê Đức Phương
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Quốc Tế
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2012
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 1,67 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ VỀ DÂN TỘC VÀ NGƯỜI BẢN ĐỊA (11)
    • 1.1. Khái niệm về quyền con người (11)
    • 1.2. Khái niệm và phân loại người thiểu số (14)
      • 1.2.1. Khái niệm người thiểu số (14)
      • 1.2.2. Phân loại người thiểu số (17)
    • 1.3. Khái niệm người thiểu số về dân tộc và người bản địa (18)
      • 1.3.1. Khái niệm người thiểu số về dân tộc (18)
      • 1.3.2. Khái niệm về người bản địa (19)
    • 1.4. Phân biệt người thiểu số về dân tộc với người bản địa và người thiểu số về dân tộc, người bản địa với các nhóm người thiểu số khác (21)
      • 1.4.1. Phân biệt người thiểu số về dân tộc với người bản địa (21)
      • 1.4.2. Phân biệt người thiểu số về dân tộc, người bản địa với các nhóm người thiểu số khác (22)
    • 1.5. Vấn đề về người bản địa ở Việt Nam (22)
    • 1.6. Cơ sở lý luận, thực tiễn của việc bảo vệ quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa (24)
      • 1.6.1. Cơ sở lý luận (24)
      • 1.6.2. Cơ sở thực tiễn (25)
    • 1.7. Lược sử vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam (27)
      • 1.7.1. Lược sử vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa trong luật quốc tế (27)
  • Chương 2 QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ VỀ DÂN TỘC VÀ NGƯỜI BẢN ĐỊA TRONG LUẬT QUỐC TẾ (32)
    • 2.1. Cơ sở pháp lý về quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa (32)
    • 2.2. Các quyền con người cơ bản của người thiểu số về dân tộc và người bản địa (33)
      • 2.2.1. Các quyền dân sự - chính trị (33)
      • 2.2.2. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (39)
    • 2.3. Các quyền con người đặc thù của người thiểu số về dân tộc và người bản địa (43)
      • 2.3.1. Các quyền con người đặc thù của người thiểu số về dân tộc (43)
      • 2.3.2. Các quyền con người đặc thù của người bản địa (46)
    • 2.4. So sánh quyền con người của người thiểu số về dân tộc với người bản địa (51)
    • 2.5. Hoạt động của các cơ quan đặc biệt trong việc bảo vệ quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa (51)
  • Chương 3 QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ VỀ DÂN TỘC (55)
    • 3.1. Cơ sở pháp lý về quyền con người của người thiểu số về dân tộc (55)
    • 3.2. Các quyền con người cơ bản của người thiểu số về dân tộc (55)
      • 3.2.1. Các quyền dân sự, chính trị (56)
      • 3.2.2 Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (60)
    • 3.3. Các quyền con người đặc thù của người thiểu số về dân tộc (64)
    • 3.4. Các thiết chế bảo vệ quyền con người của người thiểu số về dân tộc (70)
    • 3.5. So sánh mối tương quan về quyền con người của người thiểu số về dân tộc theo pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế (71)

Nội dung

KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ VỀ DÂN TỘC VÀ NGƯỜI BẢN ĐỊA

Khái niệm về quyền con người

Quyền con người luôn là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm trong quá trình đấu tranh để được công nhận và bảo vệ giá trị của mỗi cá nhân trong xã hội Tính phức tạp này thể hiện qua sự đa dạng ý kiến và quan điểm liên quan đến các khía cạnh như khái niệm, bản chất, nội dung và phương thức thực hiện quyền con người Đồng thời, tính nhạy cảm của vấn đề này cũng được thể hiện qua việc một số thế lực đã lợi dụng quyền con người như một công cụ để chống phá các quốc gia không chấp nhận sự áp đặt, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và các nước xã hội chủ nghĩa.

Do tính phức tạp và nhạy cảm của vấn đề, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm quyền con người, mặc dù nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và quốc gia đã được ban hành Ngay cả trong “Bộ luật quốc tế về quyền con người”, bao gồm Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) và hai công ước quốc tế, cũng không có định nghĩa cụ thể nào về quyền con người Khái niệm này hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, cho thấy khó khăn trong việc tìm ra một định nghĩa chung cho toàn nhân loại Định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về quyền con người cho rằng “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu bảo vệ cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm và tự do cơ bản của con người”.

4 Trần Ngọc Đường (2009), Bộ luật quốc tế về quyền con người: Giá trị, ý nghĩa và cam kết của Việt Nam, Tạp chí khoa học pháp lý, số 5/2009, tr 22

5 Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam - Truyền thống, lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia

Tại Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật, giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người nhấn mạnh rằng mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo hay địa vị xã hội, đều có quyền tự nhiên ngay từ khi sinh ra chỉ vì họ là con người.

Quyền con người được hiểu là những giá trị cơ bản mà mỗi cá nhân được hưởng, bao gồm nhân phẩm, tự do và các nhu cầu thiết yếu, được bảo đảm bởi pháp luật quốc tế và quốc gia Tại Việt Nam, có nhiều định nghĩa về quyền con người, như của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, nhấn mạnh rằng quyền con người là nhân phẩm và nhu cầu của con người được ghi nhận trong pháp luật Tác giả Cao Đức Thái cũng định nghĩa quyền con người bao gồm các nhu cầu vật chất, tinh thần và nghĩa vụ của con người PGS.TS Phạm Văn Tỉnh lại cho rằng quyền con người là nhu cầu chính đáng và phổ biến, không bao gồm phẩm giá, điều này phản ánh sự khác biệt trong cách tiếp cận Tuy nhiên, phẩm giá là giá trị không thể tước đoạt và không cần sự công nhận từ bên ngoài, trong khi nhu cầu của con người rất đa dạng và cần được giới hạn để bảo đảm sự hài hòa trong xã hội.

7 Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2009), chú thích số 6, tr 41

8 Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ Pháp, 2006

Trong bài viết "Quyền con người trong thời kỳ đổi mới - Mấy vấn đề nhận thức lý luận và thực tiễn", tác giả đã trình bày những khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền con người trong bối cảnh đổi mới Bài viết được công bố trong cuốn sách "Quyền con người – Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội", do NXB Khoa học xã hội phát hành năm 2009, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển và nhận thức về quyền con người trong xã hội hiện đại.

Quyền con người, theo Phạm Văn Tỉnh (2010), là khái niệm căn bản được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, khẳng định rằng "mỗi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền" (Điều 1, UDHR) Sự tôn trọng và ghi nhận phẩm giá con người là nền tảng cho các quy định về quyền con người Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và hiện thực hóa các quyền này, vì quyền con người không phải do pháp luật tạo ra nhưng cần pháp luật để được thực thi.

Quyền con người được hiểu là tổng hợp những nhu cầu thiết yếu và chính đáng của con người, được pháp luật quốc tế và quốc gia bảo vệ Mỗi cá nhân khi sinh ra đều có quyền hưởng các quyền này như một thành viên của cộng đồng nhân loại Trong luật quốc tế, quyền con người có đặc trưng thống nhất, với các quyền năng và chuẩn mực cụ thể, mang tính phổ quát và có sự kết hợp giữa đặc tính dân tộc và nhân loại, giữa quyền cá nhân và quyền tập thể, cũng như giữa quyền con người và quyền công dân.

Khóa luận này tập trung vào phân tích các quyền con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, nhấn mạnh sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân Quyền công dân được hiểu là những giá trị được bảo vệ bởi nhà nước đối với công dân của mình, tạo nên mối liên hệ pháp lý giữa cá nhân và nhà nước Ngược lại, quyền con người là những quyền tự nhiên, phổ quát và được cộng đồng quốc tế công nhận Khi các quốc gia công nhận quyền con người và nội luật hóa chúng, họ dựa trên quyền dân tộc tự quyết và chủ quyền quốc gia, dẫn đến sự lựa chọn khác nhau trong việc quy định các quyền này.

11 Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người – tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, NXB Khoa học xã hội,

12 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật quốc tế, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 139

Quyền con người và quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mối liên hệ chặt chẽ nhưng phạm vi tác động khác nhau Quyền con người bao gồm tất cả các cá nhân trong cộng đồng, bất kể quốc tịch, và được bảo vệ bởi các quy định toàn cầu Trong khi đó, quyền công dân chỉ áp dụng cho những người mang quốc tịch của một quốc gia, với các quyền đặc thù như quyền bầu cử và ứng cử Quyền công dân có phạm vi tác động hẹp hơn, chỉ giới hạn trong lãnh thổ quốc gia, trong khi quyền con người mang tính toàn cầu và yêu cầu các quốc gia tôn trọng.

Khái niệm và phân loại người thiểu số

1.2.1 Khái niệm người thiểu số

Khái niệm về người thiểu số hiện nay vẫn chưa có sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu nhân quyền và tổ chức quốc tế Nhiều đề xuất đã được thảo luận nhằm xây dựng một định nghĩa chấp nhận được, tạo nền tảng cho các văn kiện quốc tế Định nghĩa của Tòa án Công lý quốc tế thường trực vào những năm 1930 mô tả người thiểu số là nhóm người có đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngưỡng và ngôn ngữ, nhưng không trở thành định nghĩa chính thức do tính rộng lớn của các thuộc tính xác định Điều này dẫn đến lo ngại về an ninh và trật tự xã hội khi thừa nhận một định nghĩa như vậy Tiểu ban chống phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số của Liên Hợp Quốc cũng đã nghiên cứu để xây dựng định nghĩa về người thiểu số, trong đó có định nghĩa được ông Francesco Capotorti công bố vào năm 1977.

Nhóm người thiểu số là những người có số lượng ít hơn so với phần còn lại của dân cư trong quốc gia, thường có vị thế xã hội yếu hơn Họ sở hữu những đặc trưng về chủng tộc, tín ngưỡng hoặc ngôn ngữ khác biệt, và thể hiện rõ ý thức thống nhất trong việc bảo tồn văn hóa, truyền thống, tôn giáo và ngôn ngữ của mình.

Dựa trên các đặc trưng về chủng tộc, tôn giáo, truyền thống và ngôn ngữ, nhóm người thiểu số được xác định với sự bổ sung về số lượng và vai trò, như được định nghĩa bởi Francesco Capotorti, giúp giảm lo ngại cho các quốc gia, mặc dù chưa được coi là định nghĩa chính thức Vào tháng 5/1985, chuyên gia Jules Denchenes đã đưa ra một định nghĩa khác về "người thiểu số", nhấn mạnh rằng đó là nhóm công dân ít về số lượng và yếu thế trong quốc gia, sở hữu các đặc trưng khác biệt và có ý thức thống nhất nhằm đạt được mục tiêu bình đẳng với nhóm dân cư đa số, cả về mặt pháp luật lẫn thực tiễn.

Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2011) đã xuất bản tài liệu về Luật quốc tế liên quan đến quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương Tài liệu này được phát hành bởi NXB Lao động - Xã hội tại Hà Nội và có thể được truy cập tại www.nhanquyen.vn, với thông tin được kiểm tra vào ngày 10/4/2012.

Bài viết của Vũ Công Giao (2002) thảo luận về những vấn đề liên quan đến nhận thức về khái niệm "người thiểu số" và "quyền của người thiểu số" trong bối cảnh luật quốc tế Tác giả phân tích tầm quan trọng của việc hiểu đúng các khái niệm này nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm thiểu số, đồng thời nhấn mạnh vai trò của luật pháp trong việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho họ Nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2002, trang 65.

16 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2011), chú thích số 14

Định nghĩa về nhóm người thiểu số không được Ủy ban Nhân quyền chấp nhận vì yêu cầu phải có ý thức thống nhất và động cơ rõ rệt trong việc sử dụng ý chí tập thể để đạt được mục tiêu bình đẳng với nhóm dân cư đa số Thuộc tính này có thể dẫn đến việc các dân tộc thiểu số yêu cầu quyền ly khai, quyền tự trị hoặc từ chối sự quản lý của Nhà nước nơi họ sinh sống.

Trong các văn kiện pháp lý về nhân quyền của các tổ chức khu vực, khái niệm người thiểu số cũng được đề cập Tuy nhiên, do tính chất khu vực của các văn kiện này, các định nghĩa chỉ mang tính tham khảo và không có khả năng tác động đến phạm vi toàn cầu.

Tới thời điểm hiện tại, cộng đồng quốc tế vẫn chưa đạt được sự thừa nhận chung về khái niệm người thiểu số, mặc dù quyền của họ đã được khẳng định trong ICCPR và Tuyên ngôn 1992 về quyền của các nhóm thiểu số Tuyên ngôn 1992 được xem là văn kiện toàn diện nhất của Liên Hợp Quốc về vấn đề này, nhưng vẫn chưa đưa ra định nghĩa rõ ràng về người thiểu số Dựa trên các quan điểm chung từ những định nghĩa đã có, có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản để xác định khái niệm người thiểu số.

 Những đặc điểm khách quan 20 :

Về số lượng: Nhóm có số lượng người ít (thiểu số) khi so sánh với nhóm dân cư đa số cùng sinh sống trên một lãnh thổ

Vị thế xã hội của nhóm yếu thế thể hiện qua tiềm lực, vai trò và ảnh hưởng của họ đối với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội tại lãnh thổ cư trú Nhóm này thường không có khả năng can thiệp mạnh mẽ vào việc tạo ra ảnh hưởng và chi phối đời sống xã hội nơi họ sinh sống.

18 Có thể xem các định nghĩa này tại Công ước Châu Âu về bảo vệ người thiểu số của Hội Đồng Châu Âu (Điều

2), Khuyến nghị số 1201 năm 1993 của Nghị viện Châu Âu về Nghị định thƣ bổ sung Công ƣớc Châu Âu về nhân quyền (Điều 1)

The "Declaration on the Rights of Persons Belonging to National or Ethnic, Religious, and Linguistic Minorities" was adopted by the United Nations General Assembly through Resolution 47/135 on December 18, 1992 This landmark declaration aims to protect the rights and identities of minority groups, ensuring their full participation in society and safeguarding their cultural heritage.

20 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2011), chú thích số 14

Về bản sắc riêng: Họ có những đặc điểm riêng về mặt chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa…

Về địa vị pháp lý: Có thể là công dân hoặc kiều dân của quốc gia nơi họ đang sinh sống

Những đặc điểm chủ quan liên quan đến ý chí của các thành viên trong nhóm về việc bảo tồn truyền thống văn hóa của họ không phải là yếu tố bắt buộc khi xem xét khái niệm người thiểu số Mặc dù đây là những đặc điểm thường được công nhận, vẫn có thể tồn tại những ngoại lệ nhất định.

1.2.2 Phân loại người thiểu số

Theo Điều 27 ICCPR, người thiểu số được phân thành ba nhóm chính: thiểu số về chủng tộc, thiểu số về tôn giáo và thiểu số về ngôn ngữ Tuyên ngôn 1992 đã mở rộng khái niệm này, bổ sung thêm nhóm thiểu số về dân tộc, từ đó xác định bốn nhóm thiểu số: người thiểu số về dân tộc, người thiểu số về chủng tộc, người thiểu số về ngôn ngữ và người thiểu số về tôn giáo Mỗi nhóm thiểu số có những đặc trưng riêng biệt, phản ánh sự đa dạng văn hóa và xã hội.

Người thiểu số về chủng tộc là những cá nhân thuộc một nhóm chủng tộc có đặc điểm hình thái tương đồng như màu da và ngoại hình, nhưng lại có số lượng ít hơn so với các nhóm chủng tộc khác trong một quốc gia Trên thế giới, có ba chủng tộc chính: Môngôlôit, Ơrôpêôit và Nêgrô-Ôxtralôit Đặc điểm di truyền là yếu tố chính phân biệt các chủng tộc, không phụ thuộc vào ngôn ngữ hay phong tục tập quán.

Người thiểu số về ngôn ngữ là nhóm dân cư có số lượng ít và sử dụng một ngôn ngữ riêng biệt, khác với ngôn ngữ của đa số dân cư trong quốc gia.

21 Vũ Công Giao (2002), chú thích số 15, tr 68

Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2011) chỉ ra rằng ngôn ngữ chính thức của một quốc gia thường được coi là ngôn ngữ phổ biến nhất trong cộng đồng Những ngôn ngữ này có thể là từ thời cổ xưa, chỉ được sử dụng trong một phạm vi nhất định, hoặc là ngôn ngữ của các kiều dân.

Khái niệm người thiểu số về dân tộc và người bản địa

1.3.1 Khái niệm người thiểu số về dân tộc

Hầu hết các quốc gia đều có một hoặc nhiều nhóm thiểu số sinh sống trên lãnh thổ của mình, trong đó nhóm người thiểu số về dân tộc thường chiếm số lượng lớn hơn so với các nhóm thiểu số khác.

Khái niệm về người thiểu số dân tộc không có định nghĩa chung, nhưng có thể hiểu là nhóm dân cư có số lượng ít hơn so với nhóm chiếm đa số, thường là nhóm yếu thế trong xã hội Họ sử dụng chung một ngôn ngữ, theo một tôn giáo và có bản sắc văn hóa, phong tục tập quán riêng, đồng thời có ý thức bảo tồn truyền thống văn hóa và ngôn ngữ của dân tộc mình Nhiều dân tộc thiểu số sinh sống ở những khu vực tách biệt, như vùng núi cao, rừng rậm hoặc những nơi hoang sơ Họ duy trì các hình thức tổ chức xã hội riêng, như bầu người đứng đầu cộng đồng và quyết định các công việc chung, cũng như bảo tồn những tập tục và tín ngưỡng cổ xưa.

Khái niệm “dân tộc” trong bối cảnh người thiểu số thực chất là “tộc người”, một hình thái đặc thù của một tập đoàn xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức cộng đồng, tồn tại bền vững qua hàng nghìn năm Cộng đồng này thường có số lượng thành viên ít hơn so với cộng đồng dân cư chiếm đa số tại quốc gia Cần phân biệt giữa “dân tộc” (peoples) với ý nghĩa là một quốc gia, bao gồm tất cả các cộng đồng dân cư trên lãnh thổ nhất định Sự khác biệt này là nền tảng cho sự khác nhau về nội dung quyền lợi giữa nhóm thiểu số và quyền của họ với tư cách là thành viên quốc gia Quyền tự quyết của các dân tộc - quốc gia, được quy định trong Luật quốc tế hiện đại, cho phép một dân tộc tự do đấu tranh giành độc lập và lựa chọn thể chế chính trị, trong khi quyền tự quyết không áp dụng cho các dân tộc thiểu số, vì họ chỉ là một bộ phận của quốc gia dân tộc và không phải là chủ thể của Luật quốc tế.

1.3.2 Khái niệm về người bản địa

Các dân tộc bản địa sinh sống trên nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn trên thế giới, bao gồm người da đỏ ở Châu Mỹ, người Inuit và Aleutians ở vùng xích đạo, người Sami ở Bắc Âu, người Aborigines và Torres ở Australia, cùng người Maori ở New Zealand Quyền của các dân tộc bản địa đã được đề cập từ lâu trong luật quốc tế, được gọi là các dân tộc bản địa (indigenous peoples) và bộ tộc bản địa (tribal peoples) Liên Hợp Quốc và ILO đều công nhận rằng việc bảo vệ và thiết lập quyền của các dân tộc bản địa là một phần thiết yếu của quyền con người, đồng thời là mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, với cả hai tổ chức này tích cực thúc đẩy vấn đề này.

23 http://cema.gov.vn/modules.php?mid46&name=Content&opails (truy cập ngày 24/7/2012)

Công ước số 169 của ILO về các dân tộc và bộ tộc bản địa, được ban hành năm 1989, cùng với Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa năm 2007, là những văn kiện quốc tế quan trọng nhất hiện nay nhằm đảm bảo tôn trọng và thực hiện các quyền của các dân tộc bản địa Những tiêu chuẩn này được xây dựng để bảo vệ các quyền hiện có và thúc đẩy quyền lợi của các cộng đồng bản địa.

Theo Điều 1 Công ước số 169 của ILO năm 1989, các dân tộc bản địa là những cộng đồng cư dân trong các quốc gia độc lập, duy trì các thể chế chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội riêng của mình, dựa trên nguồn gốc và khu vực địa lý mà họ thuộc về trước khi có sự xâm chiếm hay thuộc địa hóa Các bộ tộc bản địa được định nghĩa là những nhóm có tình trạng kinh tế, xã hội, văn hóa khác biệt so với phần còn lại của dân cư, với vị thế được quy định bởi các tập tục, truyền thống hoặc luật lệ đặc biệt của họ.

Sự đồng nhất và đặc trưng văn hóa, cùng với nguồn gốc định cư, là những yếu tố cốt lõi để xác định một nhóm người là bản địa hay không.

25 Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2010), chú thích số 24, tr.157

26 Indigenous and Tribal Peoples Convention, 1989 (No 169), Adopted on 27 June 1989 by the General Conference of the International Labour Organisation at its seventy-sixth session

27 United Nations Declaration on the Rights of Indigenuos Peoples - Đƣợc Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết 61/295 ngày 13 tháng 9 năm 2007

Indigenous peoples in independent countries are defined as those descended from the original populations that inhabited a specific region at the time of conquest or colonization They maintain various aspects of their social, economic, cultural, and political institutions, regardless of their legal status.

Tribal peoples in independent countries possess unique social, cultural, and economic conditions that set them apart from other national communities Their status is often governed by their own customs and traditions, as well as by specific laws or regulations aimed at protecting their rights and identity.

30 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2011), chú thích số 14

Người bản địa, hay thổ dân, là những cư dân đầu tiên của một vùng đất, tồn tại trước khi các nền văn hóa và chủng tộc khác đến xâm lấn và chiếm đoạt Họ đã phải nỗ lực không ngừng để bảo vệ lãnh thổ, gìn giữ bản sắc và di sản văn hóa của mình trước những cuộc tấn công từ các dân tộc khác trong suốt lịch sử.

Người bản địa là cộng đồng đầu tiên sinh sống tại một lãnh thổ nhất định, đã xây dựng và duy trì xã hội với nền chính trị và văn hóa riêng trước khi các nhóm dân cư khác xuất hiện Họ thường đối mặt với nguy cơ xâm phạm lãnh thổ, cũng như sự mai một của truyền thống và bản sắc văn hóa.

Phân biệt người thiểu số về dân tộc với người bản địa và người thiểu số về dân tộc, người bản địa với các nhóm người thiểu số khác

1.4.1 Phân biệt người thiểu số về dân tộc với người bản địa Điểm khác biệt giữa hai nhóm dân cƣ trên chính là nguồn gốc xuất xứ của họ, những người bản địa luôn là người đầu tiên có mặt tại một lãnh thổ quốc gia hoặc một khu vực địa lý nhất định Họ có thể là người thiểu số về dân tộc, chủng tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo Những người thiểu số về dân tộc cũng có thể là người bản địa ở một số nơi trên thế giới, tuy nhiên người thiểu số về dân tộc không phải lúc nào cũng là người bản địa Các quốc gia hiện nay, hầu hết đều có một bộ phận dân cư là người thiểu số về dân tộc, nhưng người bản địa còn tồn tại ở rất ít quốc gia

Người bản địa có khả năng duy trì các thiết chế kinh tế, văn hóa và xã hội riêng, trong khi người thiểu số chỉ có thể bảo tồn những nét văn hóa và phong tục tập quán mà không có quyền tự quyết về chính trị và kinh tế Sự khác biệt này sẽ được phân tích chi tiết trong chương 2 về các quyền đặc thù của hai nhóm dân cư.

31 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2010), chú thích số 24, tr 155

1.4.2 Phân biệt người thiểu số về dân tộc, người bản địa với các nhóm người thiểu số khác

Mặc dù người thiểu số có nhiều điểm chung, nhưng giữa người thiểu số về dân tộc và người bản địa vẫn tồn tại những khác biệt cơ bản so với các nhóm thiểu số khác.

Người thiểu số về dân tộc và người bản địa là những nhóm cư dân sở hữu đặc trưng văn hóa, phong tục tập quán và giá trị riêng biệt, tạo nên bản sắc độc đáo của họ Họ khác biệt về ngôn ngữ, sắc tộc và tôn giáo so với các nhóm thiểu số khác Trong khi đó, những nhóm thiểu số khác có thể không có đặc trưng văn hóa rõ ràng, mà chỉ đơn thuần là những cộng đồng sử dụng chung một ngôn ngữ, theo cùng tôn giáo hoặc là công dân của một quốc gia, như lao động di trú, người tị nạn, lưu học sinh, và nhân viên ngoại giao.

Các nhóm thiểu số như người lao động di trú, người tị nạn, lưu học sinh và nhân viên ngoại giao thường có sự khác biệt về quốc tịch so với các nhóm thiểu số về dân tộc và người bản địa Họ thường phải đối mặt với sự không ổn định về môi trường sống tại quốc gia sở tại Ngược lại, các nhóm thiểu số về dân tộc và bản địa có môi trường sống ổn định, kéo dài hàng nghìn năm tại một vùng đất nhất định, và họ là công dân của quốc gia mình, hưởng các quyền cơ bản như những công dân đa số khác.

Vào ngày thứ ba, các nhóm thiểu số thường thiếu mục tiêu để bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa chung Trong khi đó, việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa, tạo nên bản sắc cộng đồng, là một mục tiêu đặc biệt quan trọng đối với các nhóm dân tộc thiểu số và người bản địa.

Vấn đề về người bản địa ở Việt Nam

Có thể khẳng định, Việt Nam hiện nay không còn tồn tại khái niệm người bản địa và vấn đề người bản địa, bởi các lý do:

Tất cả 54 dân tộc đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều được coi là dân tộc bản địa, vì họ đáp ứng đầy đủ các đặc điểm của khái niệm này Điều này có nguồn gốc từ những ngày đầu dựng nước, khi các dân tộc này đã hình thành và phát triển cùng với lịch sử và văn hóa của đất nước.

Tất cả 54 dân tộc Việt Nam đã cùng nhau khai thác và gìn giữ đất nước, với mỗi dân tộc là chủ nhân của vùng đất nơi họ sinh sống Sự đa dạng về văn hóa của từng dân tộc góp phần tạo nên bản sắc chung của dân tộc Việt Nam, làm phong phú nền văn hóa dân tộc Do đó, không thể có một quốc gia mà mỗi cộng đồng cư dân đều là một dân tộc bản địa.

Thứ hai, nếu cho rằng, tất cả 54 dân tộc là dân tộc bản địa, thì mỗi dân tộc đều có

Quyền tự trị không thể tồn tại trong một quốc gia thống nhất, vì điều này sẽ dẫn đến sự phân chia lãnh thổ và bất ổn chính trị Tại Việt Nam, mọi dân tộc đều được coi là một phần của dân tộc Việt Nam, cùng chung sống và không có sự phân biệt đối xử nào.

Khái niệm “người bản địa” ở Việt Nam gắn liền với thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, khi các cuộc chiến tranh xâm lược áp đặt sự thống trị lên các quốc gia chậm phát triển, trong đó có Việt Nam Chiến lược di dân khai thác thuộc địa đã tạo ra sự phân hóa xã hội, hình thành hai tầng lớp: tầng lớp thống trị bao gồm bộ máy cai trị thực dân và bộ máy quan lại “bù nhìn”, cùng với tầng lớp bị trị là những người dân thuộc địa sống trong cảnh nghèo đói, bệnh tật và bị áp bức Với thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945, nhân dân Việt Nam đã thoát khỏi kiếp nô lệ và lần đầu tiên được công nhận quyền làm chủ đất nước Tiếp đó, các dân tộc đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ năm 1975, đưa Việt Nam đến độc lập và thống nhất, từ đó người dân thực sự trở thành chủ nhân của đất nước.

Khái niệm “người bản địa” ở Việt Nam chỉ xuất hiện khi đất nước trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và tồn tại song song với chế độ này.

Trong những năm qua, các đòi hỏi về việc thành lập Nhà nước tự trị như Nhà nước Đê Ga, Nhà nước Mông, Nhà nước Khmer Krom thực chất chỉ là chiêu trò của các thế lực phản động cả trong và ngoài nước, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khái niệm "dân tộc thiểu số" hiện nay thường được sử dụng để phân biệt các dân tộc ít người với dân tộc Kinh, chiếm 86% dân số cả nước Hiện tại, khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” không còn tồn tại; thay vào đó, chỉ có khái niệm “quyền công dân”, áp dụng cho tất cả mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số.

Cơ sở lý luận, thực tiễn của việc bảo vệ quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa

Người thiểu số về dân tộc và người bản địa, bên cạnh việc được hưởng các quyền con người cơ bản, cần được bảo vệ các quyền con người đặc thù phù hợp với vị thế xã hội và hoàn cảnh riêng của họ Điều này được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của các nhóm này trong cộng đồng nhân loại.

Mỗi người khi sinh ra đều có quyền được công nhận là con người với đầy đủ quyền lợi thiết yếu, được xã hội thừa nhận và pháp luật bảo vệ Người dân tộc thiểu số và người bản địa cũng có quyền thụ hưởng tất cả các quyền của con người Như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã nêu, "phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng bất di bất dịch của mọi thành viên trong gia đình nhân loại" là nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình Quyền bình đẳng chính là cơ sở cho tất cả các quyền con người khác.

Những người thiểu số và người bản địa thường là những chủ nhân đầu tiên của lãnh thổ quốc gia, có công khai phá và bảo vệ đất nước Tuy nhiên, khi xã hội phát triển, họ thường bị gạt sang bên lề của sự tiến bộ và văn minh Họ ít có cơ hội tiếp xúc với thành tựu khoa học, kỹ thuật và sự phát triển kinh tế, do thường sinh sống ở những vùng đất có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và khó khăn về xã hội.

34 http://vov.vn/Home/Boi-canh-lich-su-quyen-cua-nguoi-ban-dia-khong-ton-tai-o-nuoc-CHXHCN-Viet

Nam/20089/12732.vov ( truy cập ngày 5/4/2012)

Mặc dù được công nhận đầy đủ quyền con người, nhưng các nhóm thiểu số và người bản địa vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản do điều kiện tự nhiên và xã hội hạn chế, như sống ở vùng cao, giao thông khó khăn, và rào cản ngôn ngữ Sự thiếu quan tâm từ chính phủ cũng góp phần làm giảm khả năng tiếp cận quyền lợi của họ, khiến họ không dễ dàng thụ hưởng các quyền như các nhóm đa số.

Những người thiểu số về dân tộc và người bản địa có những đặc thù riêng và thường ở trong vị thế yếu trong xã hội Ngoài việc được bảo đảm các quyền con người cơ bản như mọi cá nhân khác, họ cần được công nhận và bảo vệ các quyền đặc thù phù hợp với hoàn cảnh của mình Các quyền này bao gồm những quyền vốn có của người dân tộc bản địa, xuất phát từ cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội và từ các nền văn hóa, truyền thống tâm linh, lịch sử, triết học, đặc biệt là quyền liên quan đến đất đai, lãnh thổ và tài nguyên của họ.

Việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số và người bản địa không chỉ góp phần vào sự ổn định chính trị và xã hội mà còn tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc và quốc gia Đồng thời, điều này cũng đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước và phát huy sức mạnh của toàn cộng đồng trong công cuộc xây dựng và phát triển.

Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, trên thế giới có khoảng 5.000 nhóm người bản địa với tổng số 370 triệu người, trong đó có hơn 150 triệu người ở châu Á, 30 triệu người ở châu Phi và 2,5 triệu người ở Bắc Mỹ, trải dài trên hơn 70 quốc gia Mặc dù không có số liệu chính thức, ước tính cho thấy khoảng 10% đến 20% dân số toàn cầu, tương đương từ 600 triệu đến 1.200 triệu người, là người thiểu số.

Người bản địa và người thiểu số là những nhóm dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất trong xã hội, thường xuyên phải đối mặt với việc vi phạm quyền lợi của mình Sự thiếu hiểu biết và phân biệt đối xử là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này.

35 Lời mở đầu Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về quyền của các dân tộc bản địa 2007

36 Trong lời mở đầu của Tuyên ngôn 1992

Cuốn sách “Quyền của người thiểu số và các dân tộc bản địa” do Quỹ phát triển phụ nữ Liên Hợp Quốc (UNIFEM) xuất bản tại Việt Nam năm 2009, cung cấp cái nhìn sâu sắc về quyền lợi và những đóng góp quan trọng của các nhóm thiểu số trong xã hội hiện đại Tài liệu này nhấn mạnh sự cần thiết phải công nhận và bảo vệ quyền lợi của họ, bất chấp những thách thức mà họ phải đối mặt trong quá trình phát triển Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào địa chỉ http://cedawseasia.org/vietnam_resources.html.

Các dân tộc bản địa thường bị tước đoạt quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa, dẫn đến tình trạng phân biệt, miệt thị, bất công, bóc lột, mù chữ và sống trong nghèo khổ Họ đang phải chịu đựng những bất công lịch sử do thực dân hóa, bị chiếm đoạt đất đai, lãnh thổ và tài nguyên Điều này ngăn cản họ thực hiện quyền phát triển theo nhu cầu và lợi ích riêng của mình.

Các vụ vi phạm nhân quyền trên thế giới đang diễn ra nghiêm trọng, đặc biệt là đối với các quyền cơ bản của người thiểu số và người bản địa Họ thường là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, ảnh hưởng đến quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của họ Những cuộc chiến này không chỉ xâm phạm quyền con người mà còn tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội toàn cầu.

Theo báo cáo đầu tiên về người bản xứ của Liên hợp quốc công bố vào ngày 14/1/2010, khoảng 370 triệu người bản xứ trên toàn cầu đang phải đối mặt với tình trạng bất công nghiêm trọng, với tỷ lệ đói nghèo cao và khó khăn trong việc tiếp cận y tế và nhân quyền Người bản xứ tại Mỹ có tỷ lệ mắc bệnh lao cao gấp 600 lần và tỷ lệ tự tử cao gấp 62 lần so với mức trung bình toàn quốc Tại Australia và Nepal, tuổi thọ của người bản xứ thấp hơn trung bình từ 11 đến 20 năm, trong khi ở Guatemala là 13 năm Mặc dù chỉ chiếm dưới 5% dân số thế giới, người bản xứ lại chiếm 1/3 trong số 900 triệu người nghèo nhất Sức khỏe của họ bị ảnh hưởng bởi thiếu dinh dưỡng, khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, và ô nhiễm môi trường Liên hợp quốc cũng cảnh báo rằng 90% ngôn ngữ của người bản xứ có thể biến mất trong vòng 100 năm tới nếu không được bảo tồn, khi mà 97% dân số thế giới chỉ sử dụng 4% ngôn ngữ hiện có.

38 Lời mở đầu Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về quyền của các dân tộc bản địa 2007

Cộng đồng người thiểu số trên toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, bao gồm đói nghèo, bệnh tật và sự mai một của các nền văn hóa Những vấn đề này đang đe dọa sự tồn tại của các nhóm thiểu số, làm tăng nguy cơ mất mát bản sắc văn hóa và gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội.

Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cho người thiểu số về dân tộc và người bản địa trên toàn cầu hiện nay đang trở thành một vấn đề cấp bách Điều này yêu cầu sự quan tâm và hành động cụ thể từ các chính phủ, tổ chức quốc tế và toàn nhân loại.

Lược sử vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam

1.7.1 Lược sử vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa trong luật quốc tế Để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung và quyền con người của người thiểu số về dân tộc và bản địa nói riêng cần phải có sự tham gia của cộng đồng quốc tế và các chính phủ trong việc xây dựng hệ thống pháp luật và những cơ chế bảo vệ Đối với vấn đề của người thiểu số về dân tộc Ngay từ những ngày đầu thành lập, Hội quốc liên với tƣ cách là tổ chức quốc tế toàn cầu đầu tiên đã xem xét các vấn đề của các dân tộc thiểu số Tuy nhiên mục đích này đã không đạt đƣợc do chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ Sau khi ra đời, kế thừa tƣ cách của Hội quốc liên, Liên Hợp Quốc đã thực sự quan tâm vấn đề này Sau phiên họp đầu tiên vào năm 1947, Ủy ban nhân quyền (thành lập năm 1946, đến năm 2006 đƣợc đổi thành Hội đồng nhân quyền) đã thành lập Tiểu ban ngăn ngừa sự phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số, một trong những nhiệm vụ của Tiểu ban là tiến hành các nghiên cứu và đƣa ra các khuyến nghị với Ủy ban về việc cần ngăn ngừa bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong việc hưởng thụ các quyền con người và bảo vệ các nhóm thiểu số về dân tộc Kết quả hoạt động của Tiểu ban là việc đưa vào ICCPR một điều khoản riêng về quyền của người thiểu số (Điều 27), cũng như thông qua Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc hoặc chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992- những văn kiện đóng vai trò nền tảng cho việc bảo vệ quyền của người thiểu số trên thế giới Năm 1993, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thiết lập Cao ủy về quyền con người, với nhiệm vụ được giao là thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người, trong đó có các quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số Năm 1995, Tiểu ban ngăn ngừa sự phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số đã thành lập Nhóm công tác về người thiểu số, nhóm công tác này đã nhanh chóng trở thành một tiêu điểm chính cho những hoạt động của Liên Hơp Quốc trên lĩnh vực bảo vệ người thiểu số, năm 2007, nhóm công tác này đƣợc thay thế bằng Diễn đàn về các vấn đề thiểu số Đối với người bản địa Trong những năm đầu Liên Hợp Quốc mới được thành lập, hầu nhƣ không có sự quan tâm đối với những vấn đề của các dân tộc bản địa Cho đến năm 1970 mới có những hoạt động cụ thể, khi Tiểu ban chống phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số đã khuyến nghị cần phải có một nghiên cứu toàn diện về vấn đề phân biệt đối xử với các dân tộc bản địa Kết quả của nghiên cứu này cùng với sự ủng hộ của các tổ chức phi chính phủ đã thúc đẩy ECOSOC thành lập Nhóm công tác về các dân tộc bản địa vào năm 1982 với nhiệm vụ giúp việc cho Tiểu ban về chống phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số Nhóm công tác về các dân tộc bản địa và sau đó là Diễn đàn thường trực về các vấn đề bản địa đã tích cực nghiên cứu thúc đẩy các quyền của người bản địa qua việc soạn thảo Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa và sau đó đƣợc thông qua vào năm 2007 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã tuyên bố lấy năm 1993 là Năm quốc tế về các dân tộc bản địa 40 và thập kỷ 1995-2004 là Thập kỷ quốc tế về các dân tộc bản địa 41 với mục tiêu chính là nhằm tăng cường sự hợp tác quốc tế để giải quyết những vấn đề của cộng đồng người bản địa đang phải đối mặt trong các lĩnh vực như quyền con người, môi trường, phát triển, y tế, văn hóa và giáo dục Cùng với đó Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã quyết định lấy ngày 9/8 hàng năm là Ngày quốc tế về Người bản địa trên thế giới 42 Bên cạnh vai trò của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng có những đóng góp rất lớn cho các hoạt động về các vấn đề của người bản địa Đây là tổ chức quốc tế đầu tiên có các hoạt động về vấn đề này, năm 1953 ILO xuất bản một công trình nghiên cứu về các dân tộc bản địa, năm 1957 đã thông qua Công ƣớc số 107 và khuyến Nghị số 104 về bảo vệ và hợp nhất các dân tộc Đặc biệt, tháng 6/1989 Hội nghị lao động quốc tế đã thông qua văn bản sửa đổi Công ƣớc 107 (hiện nay là Công

40 Theo Nghị quyết số 45/164 ngày 18/12/1990

41 Theo Nghị quyết số 48/163 ngày 21/12/1993

Ngày 23/12/1994, theo Nghị quyết số 49/214 của Liên Hợp Quốc, được xác định là ngày kêu gọi sự chú ý đến các vấn đề xã hội của người bản địa Đây cũng là dịp để các chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các nhóm xã hội tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về người bản địa và văn hóa của họ, phù hợp với Công ước số 169 của ILO về các dân tộc và bộ tộc bản địa ở các quốc gia độc lập.

Công ước 169 đã thay đổi cách tiếp cận trước đây, loại bỏ sự áp đặt và đồng hóa đối với các dân tộc bản địa, đồng thời tạo nền tảng cho các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật của ILO Liên hợp Quốc và ILO hợp tác triển khai các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu của công ước 169 và Thập kỷ quốc tế về các dân tộc bản địa Hệ thống Liên Hợp Quốc cũng đã tích cực thúc đẩy quyền con người cho người bản địa.

1.7.2 Lược sử vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người thiểu số về dân tộc và người bản địa trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia đa dạng với 54 dân tộc, trong đó có hơn 10 triệu người thuộc 53 dân tộc thiểu số, chiếm gần 14% tổng dân số hơn 86 triệu Các dân tộc thiểu số sinh sống xen kẽ trên toàn quốc, nhưng chủ yếu tập trung ở các vùng núi, đặc biệt là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và bình đẳng giữa các dân tộc là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và Nhà nước Đảng ta luôn xác định công tác dân tộc và đoàn kết dân tộc là chiến lược quan trọng trong cách mạng, là yếu tố quyết định cho sự toàn vẹn và phát triển bền vững của đất nước Để thực hiện tốt công tác này, cần đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc Ngay từ khi thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác đã nhấn mạnh sức mạnh của sự đoàn kết giữa các dân tộc, khẳng định rằng tất cả đều bình đẳng như anh chị em trong một nhà Bác cam kết sẽ xóa bỏ những hủ tệ cũ và sửa chữa mọi bất bình để đảm bảo quyền lợi cho các dân tộc thiểu số.

43 Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2010), chú thích số 24, tr 172-173

44 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Lời phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 110-111

Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thành lập Nha dân tộc thiểu số nhằm chăm sóc cho tất cả đồng bào Ông cũng cho rằng việc xóa bỏ định kiến giữa các dân tộc là cần thiết, tạo nền tảng cho sự tiến bộ và phát triển văn hóa Đoàn kết, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà là điều mà tất cả các dân tộc cần thực hiện.

Hiến pháp Việt Nam, văn bản pháp lý tối cao, quy định rõ ràng các quyền con người của người thiểu số dân tộc, tạo nền tảng cho các văn bản pháp luật và hoạt động của cơ quan nhà nước Qua bốn bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, quyền công dân được ghi nhận đầy đủ trong chương II với 18 điều, nhấn mạnh quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều 6) và sự bình đẳng trước pháp luật (Điều 7) Đặc biệt, Hiến pháp cũng khẳng định quyền bình đẳng cho các dân tộc thiểu số, với cam kết hỗ trợ để họ phát triển kịp với trình độ chung (Điều 8).

Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959 nhấn mạnh quyền của các dân tộc thiểu số tại Điều 3, khẳng định rằng Việt Nam là một quốc gia thống nhất với nhiều dân tộc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc, cấm mọi hành vi khinh miệt, áp bức, và chia rẽ Các dân tộc có quyền duy trì và điều chỉnh phong tục tập quán, sử dụng ngôn ngữ và chữ viết của mình, đồng thời phát triển văn hóa riêng Những khu vực có dân tộc thiểu số sống tập trung có thể được thành lập thành khu vực tự trị, là phần không thể tách rời của đất nước Nhà nước cam kết hỗ trợ các dân tộc thiểu số trong việc nâng cao trình độ kinh tế và văn hóa.

Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kế thừa và tiếp thu các quyền được ghi nhận trong hai bản Hiến pháp trước đó, đồng thời cụ thể hóa và bổ sung các biện pháp đảm bảo việc thực hiện quyền công dân trong thực tiễn.

Hiến pháp Việt Nam đã tạo ra một "khuôn khổ pháp lý rộng rãi" nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc thực hiện quyền công dân, phục vụ cho sự phát triển mới của đất nước Ba bản Hiến pháp đầu tiên khẳng định rằng "quyền công dân gắn liền với quyền con người" và xác lập "chủ quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia," là nền tảng để nhân dân Việt Nam trở thành người chủ thực sự của đất nước.

Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được sửa đổi bổ sung năm 2001, lần đầu tiên công nhận quyền con người tại Điều 50 Sự ghi nhận này không chỉ thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức mà còn cho thấy sự phát triển và hòa nhập với xu hướng pháp luật quốc tế về quyền con người Việc thừa nhận quyền con người giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cả những cá nhân không phải là công dân, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân dưới sự bảo vệ của cả pháp luật quốc gia và quốc tế.

Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế quan trọng, bao gồm Công ước về quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, và các công ước xoá bỏ phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử với phụ nữ, cũng như quyền trẻ em, đồng thời phê chuẩn 17 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế Việt Nam luôn ủng hộ hoạt động của Hội Đồng Nhân Quyền và hợp tác đầy đủ với các cơ chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc Ngoài ra, Việt Nam cùng với các quốc gia ASEAN đã thành lập Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR) vào ngày 23/10/2009 và thiết lập cơ chế đối thoại về nhân quyền với các đối tác như Mỹ, EU, Úc, và Na Uy.

Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt là việc được bầu làm thành viên Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc trong nhiệm kỳ 2001-2003 Hiện tại, Việt Nam đang nỗ lực nhận được sự đồng thuận từ các quốc gia trên thế giới để trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc trong nhiệm kỳ 2014-2016.

47 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), chú thích số 12, tr 154

48 Trần Ngọc Đường (2004), chú thích số 13, tr 58.

QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ VỀ DÂN TỘC VÀ NGƯỜI BẢN ĐỊA TRONG LUẬT QUỐC TẾ

QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI THIỂU SỐ VỀ DÂN TỘC

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:29

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
33. Vũ Công Giao (2002), Một số vấn đề xung quanh nhận thức về khái niệm “người thiểu số” và “quyền của người thiểu số” trong luật quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: người thiểu số” và “quyền của người thiểu số
Tác giả: Vũ Công Giao
Năm: 2002
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001).2. Bộ luật dân sự năm 2005 Khác
7. Nghị định số 82/2010/NĐ-CP quy định việc dạy và học tiếng nói chữ viết của dân tộc trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên Khác
8. Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ về miễn, giảm học phí, hỗ trợ cho phí học tập…từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015 Khác
9. Quyết định số 102/2009/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ : Về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn Khác
10. Quyết định số 2123/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015 Khác
11. Quyết định 85/2010/QĐ-TTG ngày 21/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông DTBT cùng với đó là hướng dẫn trong Thông tư liên tịch số 65/2011/TTLT-BGDĐT-BTC-BKHĐT Khác
13. Thông tƣ liên tịch số 912/2001/TTLT-UBDTMN-BTC-BKHĐT ngày 16/11/2001 hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn Khác
14. Thông tƣ liên tịch số 29/2010/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTB&XH của Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của và Nghị định 49 Khác
15. Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BTP-UBDT hướng dẫn việc thực hiện trợ giúp pháp lý đối với người dân tộc thiểu số.Các văn bản pháp luật quốc tế Khác
16. Hiến chương Liên Hợp Quốc (1945) 17. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) Khác
19. Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966) Khác
20. Công ƣớc số 169 của ILO về các dân tộc và bộ tộc bản địa ở các bộ tộc bản địa ở các quốc gia độc lập năm 1989 Khác
21. Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc hoặc chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 Khác
22. Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa năm 2007 Các sách, báo, tạp chí.Sách Khác
23. ĐH Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật quốc tế, NXB Công an nhân dân Khác
24. ĐHQG Hà Nội - Khoa luật (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia Khác
25. ĐHQG Hà Nội - Khoa luật (2010), Quyền con người - Tập tài liệu chuyên đề của Liên Hợp Quốc, NXB Công an nhân dân Khác
26. ĐHQG Hà Nội - Khoa luật (2010), Quyền con người - Tập hợp những bình luận, khuyến nghị chung của Ủy ban công ƣớc Liên Hợp Quốc, NXB Công an nhân dân Khác
27. ĐHQG Hà Nội - Khoa luật (2011), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, NXB Lao động - xã hội, 2011 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w