1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (luận văn thạc sỹ luật)

141 33 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Quyết Hậu Quả Của Việc Nam, Nữ Chung Sống Như Vợ Chồng Mà Không Đăng Ký Kết Hôn
Tác giả Nguyễn Văn Thành
Người hướng dẫn TS. Lê Vĩnh Châu
Trường học Trường Đại Học Luật TP Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự Và Tố Tụng Dân Sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Bình Thuận
Định dạng
Số trang 141
Dung lượng 36,95 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ NHÂN THÂN, QUYỀN LỢI CON CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN (13)
    • 1.1. Giải quyết về quan hệ nhân thân (13)
    • 1.2. Giải quyết quyền lợi của con chung (23)
  • CHƯƠNG 2: GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN, NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN (32)
    • 2.1. Giải quyết về quan hệ tài sản (32)
    • 2.2. Giải quyết về nghĩa vụ, hợp đồng (43)

Nội dung

GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ NHÂN THÂN, QUYỀN LỢI CON CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Giải quyết về quan hệ nhân thân

Khoản 7 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng” Việc chung sống này chưa được các bên tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền Từ “như” cho thấy rằng, nam và nữ chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do đó, họ chỉ trên thực tế có sự chung sống với nhau, có mối quan hệ như vợ chồng mà chưa được pháp luật ghi nhận Trong lịch sử, vấn đề này được công nhận khi có nghi lễ nhất định 2 nhưng ngày nay, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi có sự đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Trước đây, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TAND-VKS-BTP quy định rằng nam nữ sống chung như vợ chồng sẽ được công nhận nếu đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 Cụ thể, họ phải thuộc một trong các trường hợp như tổ chức lễ cưới khi về chung sống.

1 Khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014

Theo Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa (2012), các chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam có những tiêu chí quan trọng: (i) Sự chấp nhận của gia đình (một bên hoặc cả hai bên) là cần thiết; (ii) Việc sống chung phải được chứng kiến bởi người khác hoặc tổ chức; (iii) Các cặp đôi thực sự phải sống chung, chăm sóc và hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Việc ghi nhận này nhằm đảm bảo các bên đủ điều kiện đăng ký kết hôn từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003, qua đó bảo vệ quyền và nghĩa vụ của nam và nữ trong quan hệ vợ chồng hợp pháp Đồng thời, đây cũng có thể được xem là trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, đáp ứng các điều kiện kết hôn nhưng không tiến hành đăng ký.

Trong trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đủ điều kiện kết hôn, chẳng hạn như về độ tuổi hoặc năng lực hành vi, họ không thể đăng ký kết hôn nhưng vẫn sống chung Dấu hiệu nhận biết rõ ràng nhất là sự thiếu vắng Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn Việc không đảm bảo các yếu tố pháp lý này đã dẫn đến những hệ quả nhất định, đặc biệt là về vấn đề nhân thân, theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Nam và nữ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật không đăng ký kết hôn sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng Tuy nhiên, nếu họ chung sống như vợ chồng và sau đó thực hiện đăng ký kết hôn theo pháp luật, quan hệ hôn nhân sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký.

Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định rằng chỉ những cặp đôi đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn mới có thể được xem xét về quyền và nghĩa vụ vợ chồng, với giá trị pháp lý bắt đầu từ thời điểm đăng ký Pháp luật không công nhận mối quan hệ hôn nhân chỉ dựa trên việc chung sống mà không có đăng ký, nhằm tránh tranh chấp phức tạp và tạo hành lang pháp lý vững chắc Trong trường hợp cặp đôi không đủ điều kiện kết hôn, như chưa đủ tuổi hoặc có quan hệ huyết thống, mối quan hệ này được xem là hôn nhân trái pháp luật và cũng không được pháp luật thừa nhận, dẫn đến việc quyền và nghĩa vụ không phát sinh Hai bên cần chấm dứt quan hệ như vợ chồng và không có cơ hội đăng ký kết hôn để được công nhận.

Theo nguyên tắc chung của pháp luật hôn nhân và gia đình, việc nam, nữ sống chung như vợ chồng sẽ được xử lý dựa trên hai trường hợp cụ thể liên quan đến mặt nhân thân.

Nam và nữ đủ điều kiện đăng ký kết hôn sẽ có quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký Trước thời điểm này, pháp luật không công nhận mối quan hệ hôn nhân của họ.

Nam và nữ không đủ điều kiện kết hôn sẽ khiến mối quan hệ trước đó trở nên không hợp pháp Do đó, việc đăng ký kết hôn giữa hai bên sẽ không được công nhận vì không đáp ứng đủ yêu cầu về điều kiện kết hôn.

Khi pháp luật không công nhận mối quan hệ vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ trong hôn nhân không có giá trị pháp lý Điều này dẫn đến việc các chế định như đại diện hay thừa kế giữa vợ và chồng cũng không được áp dụng Hệ quả này chỉ liên quan đến mối quan hệ giữa nam và nữ, trong khi pháp luật không thừa nhận các mối quan hệ giữa những người cùng giới tính sống chung như vợ chồng.

Hôn nhân thực tế là trường hợp mà nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Tuy nhiên, để được công nhận, hôn nhân thực tế phải đáp ứng các điều kiện nhất định về mối quan hệ và thời gian chung sống.

3 Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014

4 Trừ trường hợp được công nhận là hôn nhân thực tế

Trong bài viết của Lê Thu Trang (2016) về quyền lợi của các bên sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, được đăng trên Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, có đề cập rằng việc ly hôn trong trường hợp này không vi phạm các điều kiện kết hôn và cấm kết hôn Đây chỉ là một khía cạnh nhỏ trong nội hàm của việc sống chung như vợ chồng.

Hôn nhân thực tế chỉ được công nhận bởi Nhà nước khi đáp ứng các điều kiện lịch sử và tình hình đất nước trước đây Căn cứ theo Thông tư số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001, các quy định cụ thể về vấn đề này được nêu rõ.

Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn, nếu có yêu cầu ly hôn từ một hoặc cả hai bên, Toà án sẽ thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều quan trọng là nếu sau khi xác lập quan hệ vợ chồng, họ thực hiện đăng ký kết hôn, thì quan hệ này vẫn được công nhận từ ngày bắt đầu chung sống, không chỉ từ ngày đăng ký kết hôn.

Giải quyết quyền lợi của con chung

Việc nam nữ sống chung như vợ chồng không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ của họ mà còn tác động đến các cá nhân khác trong xã hội Đặc biệt, vấn đề con chung luôn là một chủ đề quan trọng cần được chú ý.

Khi nam và nữ chung sống như vợ chồng, việc giải quyết các vấn đề liên quan đến con cái là rất quan trọng Pháp luật đảm bảo quyền lợi cho con của cặp đôi này, vì vậy việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp này là cần thiết.

Theo Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quyền và nghĩa vụ liên quan đến con cái, tài sản, cũng như nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của luật này.

Việc giải quyết hậu quả về con chung chỉ áp dụng cho con ruột của nam và nữ sống như vợ chồng, không bao gồm con nuôi hoặc con riêng của một bên Đối với con nuôi, việc nhận nuôi phải tuân thủ quy định của Luật Nuôi con nuôi, yêu cầu cặp đôi phải có giấy đăng ký kết hôn Nếu không, chỉ một bên mới có quyền nhận nuôi, và quyền lợi pháp lý chỉ phát sinh với mối quan hệ đã đăng ký Điều 15 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền, nghĩa vụ giữa nam nữ sống chung như vợ chồng và con theo luật này Con vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ, không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ Cha mẹ phải có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng, chăm sóc và giáo dục con để phát triển toàn diện Họ cũng phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của con và đảm bảo không có sự phân biệt đối xử Khi không còn sống chung, cha mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đến khi con trưởng thành hoặc không còn mất năng lực hành vi dân sự Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, vẫn tồn tại một số bất cập và vướng mắc.

19 Khoản 2 Điều 68 Luật HN&GĐ năm 2014

Thứ nhất, khó khăn trong việc xác định con chung của hai người nam và nữ

Việc nam nữ sống chung như vợ chồng và có con chung mà không đăng ký kết hôn đang ngày càng phổ biến, dẫn đến khó khăn trong việc xác định cha mẹ về mặt pháp lý Điều này có thể tạo ra rào cản trong việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi một trong hai bên không hợp tác Do đó, việc giải quyết các hệ quả liên quan đến con chung gặp nhiều thách thức, trong khi pháp luật đã có những quy định rõ ràng về hôn nhân, cần thiết phải có các biện pháp pháp lý cụ thể hơn để xử lý vấn đề con chung.

Ngày 28/5/2020 Bộ Tư pháp ban hành thông tư số 04/2020/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của LHT và NĐ số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015

Việc xác định họ và tên cho trẻ em cần tuân thủ pháp luật, đồng thời bảo tồn bản sắc dân tộc và các tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của Việt Nam Ngoài ra, tên gọi cũng không nên quá dài hoặc khó sử dụng.

Khi khai sinh cho con ngoài giá thú mà không xác định được người cha, phần thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh sẽ để trống Nếu có người nhận con vào thời điểm đăng ký, Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ phối hợp thực hiện việc nhận con và đăng ký khai sinh cùng lúc.

Khi sống chung như vợ chồng, việc đăng ký khai sinh cho con gặp nhiều khó khăn Nhiều trường hợp, giấy chứng sinh có ghi tên cha nhưng do đang trong mối quan hệ hôn nhân hợp pháp với người khác, các giấy tờ không đủ để công nhận mối quan hệ cha con và cần có phán quyết từ Tòa án.

Bản án số 72/2019/HN&GĐ-ST ngày 25/11/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang liên quan đến tranh chấp xác định cha cho con Chị H sống như vợ chồng với ông J và có con chung, nhưng khi mang thai cháu T, chị H vẫn đang trong hôn nhân với anh K Mặc dù giấy chứng sinh ghi nhận anh J là cha của cháu T, về mặt pháp lý, anh J chưa được công nhận là cha và cần có phán quyết của Tòa án để xác định quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý.

Việc chung sống như vợ chồng với người khác có thể vi phạm pháp luật, dẫn đến tranh chấp về quyền nuôi con và huyết thống Nhiều trường hợp phải nhờ đến Tòa án để xác định cha cho con, đặc biệt là khi có con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân.

Bản án số 16/2019/HN&GĐ-ST ngày 31/7/2019 của TAND huyện TH - Tỉnh B xác định mối quan hệ giữa chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn G, hai người đã từng có hôn nhân nhưng sống ly thân do không còn tình cảm Trong thời gian này, chị G đã có quan hệ tình cảm với anh L và sinh ra cháu Nguyễn Gia H Tuy nhiên, do cháu H được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân với anh G, nên về mặt pháp lý, anh L không được công nhận là cha của cháu.

H Thế nên, anh L và chị G làm đơn khởi kiện yêu cầu xác định cha cho con TAND huyện TH đã dựa vào hai yếu tố để tuyên anh L chính là cha của cháu H: (i) bản kết luận giám định về mặt huyết thống chứng minh cháu H chính là con ruột của anh L, (ii) anh G không thừa nhận cháu H là con ruột của mình

Trong Bản án số 72/2019/HN&GĐ-ST ngày 25/11/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang, chị Giáp Thị H và anh Lê Văn K kết hôn vào ngày 26/10/2009 nhưng đã ly thân từ năm 2015 mà chưa ly hôn Vào tháng 6/2018, chị H có quan hệ tình cảm với anh Huang Chi J và mang thai vào tháng 12/2018, trong khi vẫn đang trong quan hệ hôn nhân với anh K Ngày 29/01/2019, Tòa án tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố cho chị H và anh K ly hôn Sau khi bản án có hiệu lực, chị H kết hôn với anh J vào ngày 27/03/2019 và sinh con trai Hoàng Dục T vào ngày 03/08/2019 tại Đài Loan Mặc dù giấy khai sinh ghi tên chị H và anh J, nhưng anh J chưa được xác định là cha đẻ của cháu T do chị H vẫn đang trong hôn nhân hợp pháp với anh K khi mang thai HĐXX đã căn cứ vào Điều 88, 89, 90, 91 để xác định anh Huang Chi J là cha đẻ của cháu Hoàng Dục T.

Từ hai vụ việc nêu trên, tác giả chỉ ra hai vấn đề pháp lý quan trọng Thứ nhất, tình trạng người có gia đình sống chung với người khác gây khó khăn trong việc xác định cha mẹ cho con, khi người cha huyết thống không trùng khớp với người cha pháp luật Điều này dẫn đến vấn đề thứ hai, liên quan đến cách Tòa án giải quyết tranh chấp quyền nuôi con khi cha pháp luật không công nhận mình là cha ruột Trong cả hai trường hợp, HĐXX đã căn cứ vào việc người cha pháp luật không thừa nhận mối quan hệ huyết thống, nhưng không rõ ràng về ưu tiên giữa yếu tố huyết thống và pháp lý Pháp luật HN&GĐ hiện tại không đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc xác định cha cho con, chỉ nêu ra các căn cứ mà không phân biệt rõ ràng giữa cha ruột và cha pháp luật.

- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng

Con được sinh ra trong khoảng thời gian 300 ngày sau khi hôn nhân kết thúc sẽ được coi là con do người vợ mang thai trong thời gian hôn nhân.

- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng 20

GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN, NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Giải quyết về quan hệ tài sản

Khoản 4 Điều 3 TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 quy định: “Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình” Điều 16 Luật HN&GĐ năm 2014 lại ghi nhận các nguyên tắc về việc giải quyết hậu quả về tài sản khi nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:

Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa nam, nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo thỏa thuận của các bên Nếu không có thỏa thuận, vấn đề này sẽ được xử lý theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định pháp luật liên quan.

Việc phân chia tài sản cần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, trong đó công việc nội trợ và các công việc liên quan đến việc duy trì cuộc sống chung được xem là lao động có thu nhập.

Trong quan hệ tài sản giữa các bên sống chung như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, pháp luật cho phép họ tự thỏa thuận về tài sản riêng và tài sản chung Nếu không có thỏa thuận, các quy định của pháp luật dân sự sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp Điều này có nghĩa là Bộ luật dân sự và các luật chuyên ngành khác sẽ được sử dụng để xử lý các vấn đề liên quan đến tài sản, thay vì áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình.

Nếu không có thỏa thuận về tài sản, vấn đề tài sản của nam, nữ sống chung như vợ chồng sẽ được điều chỉnh theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự, trong đó quy định cách thức chia tài sản thuộc sở hữu chung.

Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia, mỗi chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu chia tài sản Tuy nhiên, nếu việc sở hữu chung phải duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận hoặc quy định của luật, thì quyền yêu cầu chia chỉ được thực hiện khi hết thời hạn đó Nếu tài sản chung không thể chia bằng hiện vật, chủ sở hữu chung có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các chủ sở hữu.

Nếu một trong các chủ sở hữu chung không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán do không có tài sản riêng hoặc tài sản không đủ, người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào quá trình chia tài sản, trừ khi có quy định pháp luật khác.

Nếu việc chia quyền sở hữu bằng hiện vật không khả thi hoặc bị phản đối bởi các chủ sở hữu khác, người có quyền có thể yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Trong quá trình chung sống như vợ chồng, nếu các bên có thể chứng minh việc tạo lập tài sản chung, cả hai đều có quyền yêu cầu chia tài sản đó Tuy nhiên, tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên sẽ không bị can thiệp bởi bên còn lại Vấn đề then chốt là cách chứng minh tài sản và các căn cứ liên quan, bởi thu nhập của mỗi người không hoàn toàn giống nhau Các chi phí cho cuộc sống chung và con cái (nếu có) cũng cần được xem xét Đối với hôn nhân hợp pháp, việc định đoạt tài sản riêng phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng nếu tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình Nếu không chứng minh được tài sản riêng, tài sản đó sẽ tự động được xem là tài sản chung Trong mối quan hệ sống chung như vợ chồng, các quy định này cũng cần được lưu ý.

Theo Khoản 4 Điều 44 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nếu không có mối quan hệ vợ chồng hợp pháp được pháp luật công nhận, tài sản sẽ được xác định là sở hữu riêng của người đứng tên Điều này có nghĩa là, để chứng minh tài sản thuộc sở hữu chung theo pháp luật dân sự, cần có bằng chứng rõ ràng; nếu không, tài sản đó sẽ không được coi là chung Pháp luật không xem xét đến việc tài sản có phải là nguồn thu nhập duy nhất hay có được sử dụng để duy trì cuộc sống chung hay nuôi dạy con cái hay không.

Trong việc giải quyết tài sản giữa nam nữ chung sống như vợ chồng, nguyên tắc quan trọng là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và con cái Quyền lợi của phụ nữ không phải lúc nào cũng được ưu tiên hơn, mà phải dựa trên nhiều yếu tố khác nhau Khi áp dụng các quy định về tài sản trong thời gian chung sống, quyền lợi của phụ nữ và con luôn được đặt lên hàng đầu, đồng thời có các ngoại lệ để bảo vệ quyền lợi tối thiểu của họ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã ghi nhận công việc nội trợ như một loại lao động có thu nhập, từ đó giúp giải quyết vấn đề tài sản chung một cách công bằng hơn Đối với những cặp đôi cùng giới, việc xác định tài sản chung trở nên phức tạp hơn do không được Nhà nước công nhận hôn nhân Tuy nhiên, luật vẫn có những quy định ngoại lệ nhằm bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ và con cái trong mối quan hệ này.

Trong trường hợp thừa kế tài sản, việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn dẫn đến việc không có tư cách pháp lý "vợ" hay "chồng" Do đó, khi một trong hai người qua đời, người còn lại sẽ không có quyền thừa kế theo luật pháp Tuy nhiên, quyền thừa kế của con chung hợp pháp vẫn được công nhận và không thể bị phủ nhận.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có những tiến bộ đáng kể so với Luật năm 2000, đặc biệt trong việc giải quyết hệ quả tài sản giữa các cặp đôi chung sống như vợ chồng Luật mới quy định rõ ràng hơn và bổ sung hướng dẫn cụ thể, đồng thời thiết lập nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, công nhận đóng góp của những người nội trợ vào tài sản chung Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng các quy định này vẫn chưa đủ để giải quyết toàn bộ những vấn đề phức tạp và đa dạng trong các tranh chấp phát sinh.

Xác định tài sản chung giữa nam nữ sống như vợ chồng thường gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc chứng minh ai đã đóng góp nhiều hơn Việc xác định này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.

Thứ nhất, Đối với việc xác định mức đóng góp cũng như tài sản chung cùng tạo lập khi chung sống

Bản án số 17/2018/HN&GĐ-PT ngày 24/4/2018 của TAND tỉnh Bắc Giang đã chỉ ra những thiếu sót trong quy định pháp lý về việc chia tài sản của nam nữ sống chung như vợ chồng Chị N và anh C đã sống chung từ năm 1994 mà không đăng ký kết hôn, trong thời gian này họ đã mua đất 328m² và xây dựng nhà 2 tầng trị giá 296.403.800 đồng Chị N yêu cầu chia tài sản, và tòa sơ thẩm đã chấp nhận, giao toàn bộ tài sản cho anh C nhưng yêu cầu anh phải trả cho chị N 135.027.000 đồng Tòa phúc thẩm xác định rằng ngôi nhà 2 tầng là tài sản chung, vì chị N đã gửi tiền về cho anh C để xây dựng nhà trong thời gian chị đang lao động ở nước ngoài Tổng giá trị tài sản chung của họ là 332.483.800 đồng, và tòa sơ thẩm đã căn cứ vào nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp của cả hai để đưa ra quyết định hợp lý.

Giải quyết về nghĩa vụ, hợp đồng

Pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể nào giải thích đầy đủ khái niệm nghĩa vụ về tài sản, tương tự như vấn đề tài sản chung Đối với các nghĩa vụ tài sản và quyền tài sản, Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định rằng “Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; nếu không có thỏa thuận, sẽ áp dụng theo Bộ luật Dân sự và các quy định pháp luật liên quan.”

Nếu có thỏa thuận về việc thực hiện nghĩa vụ, pháp luật sẽ tôn trọng và giải quyết theo thỏa thuận đó Ngược lại, nếu không có thỏa thuận, hậu quả sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và các quy định liên quan Tương tự, việc xác định tài sản chung cũng cần được xem xét Nếu các nghĩa vụ tài sản phát sinh từ tài sản chung hoặc phục vụ cho cuộc sống chung, chúng có thể được coi là nghĩa vụ chung của nam nữ sống như vợ chồng.

Khoản 2 Điều 209 BLDS xác định “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” Như vậy, nghĩa vụ đối với tài sản chung cũng sẽ được giải quyết phân chia Áp dụng nguyên tắc, tỷ lệ phần quyền đối với tài sản chung là bao nhiêu thì sẽ có nghĩa vụ tương ứng Nội dung này sẽ loại trừ đi trường hợp các bên có sự thỏa thuận khác

Việc xác định mức nghĩa vụ tài sản cần tuân thủ cơ chế bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và con cái Khác với quyền sở hữu tài sản chung, tỷ lệ nghĩa vụ về tài sản của phụ nữ và con phải thấp hơn so với nam giới để đảm bảo quyền lợi cho họ Điều này thể hiện sự trái ngược so với việc xác định quyền đối với tài sản.

Nghĩa vụ về tài sản chung giữa những người sống chung như vợ chồng tương tự như nghĩa vụ liên đới, trong đó mỗi người đều phải thực hiện nghĩa vụ của mình Nghĩa vụ liên đới được xác định khi nhiều người cùng có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và bên có quyền có thể yêu cầu bất kỳ ai trong số họ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ Nếu một người đã hoàn thành nghĩa vụ, họ có quyền yêu cầu những người khác thực hiện phần nghĩa vụ của mình Trong trường hợp tài sản chung, cả hai người đều có nghĩa vụ và một trong hai có thể bị yêu cầu thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, đồng thời có quyền yêu cầu người còn lại hoàn trả phần đã thực hiện tương ứng với tỷ lệ quyền sở hữu Nếu bên có quyền chỉ định một người thực hiện toàn bộ nghĩa vụ nhưng sau đó miễn cho người đó, người còn lại cũng được miễn Tuy nhiên, nếu chỉ miễn cho một người không thực hiện phần nghĩa vụ của mình, người còn lại vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ.

Nam và nữ đều có trách nhiệm thực hiện một số nghĩa vụ về tài sản, dù không xuất phát từ tài sản chung, như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên Ngoài ra, còn có nghĩa vụ hình thành do nhu cầu duy trì đời sống chung và nuôi dạy, giáo dục con cái Những vấn đề này phản ánh nguyên lý đảm bảo sự công bằng và bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em.

Các quy định về việc giải quyết hậu quả liên quan đến nghĩa vụ tài sản khi nam nữ chung sống như vợ chồng tương tự như việc xác định tài sản chung Những yếu tố giúp xác định tài sản sở hữu chung cũng là cơ sở quan trọng để xác định nghĩa vụ tài sản tương ứng.

Mặc dù pháp luật đã quy định nghĩa vụ và trách nhiệm cho những cặp đôi sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, nhưng thực tế vẫn tồn tại nhiều bất cập trong việc xác định khi nào nghĩa vụ phát sinh là chung của cả hai Trong trường hợp tài sản chung, các bên thường tranh chấp quyền sở hữu, trong khi đối với các khoản nợ, họ thường từ chối nhận trách nhiệm Những quy định pháp luật hiện hành cần được xem xét và điều chỉnh để giải quyết những vấn đề này một cách hiệu quả hơn.

Điều 288 BLDS năm 2015 chỉ đưa ra những khái quát cơ bản, chưa đủ để bao quát tất cả các tình huống thực tiễn, dẫn đến khó khăn trong việc xác định.

Thứ nhất, đối với căn cứ xác định khoản nợ chung

Tình huống: Bản án số 30/2017/HN&GĐ-PT ngày 19/10/2017 về tranh chấp chia tài sản trong thời gian chung sống như vợ chồng của TAND tỉnh Đắk Lắk Bà

Trong thời gian chung sống, bà T và ông T phát sinh nghĩa vụ tài sản liên quan đến các khoản nợ Bà T kháng cáo yêu cầu ông T cùng chịu trách nhiệm trả nợ cho bà Phạm Thị T1 02 cây vàng 9999, bà Phạm Thị S 01 cây vàng 9999 và ông Phan Ngọc Đ 80.000.000 đồng Tuy nhiên, bà T là người trực tiếp vay nợ và không có chứng cứ chứng minh đây là nợ chung, trong khi ông T chỉ thừa nhận đã vay của bà Phạm Thị T1 01 cây vàng 9999 và bà Phạm Thị S 05 chỉ vàng 9999, nhưng không cung cấp được chứng cứ đã trả nợ Do đó, ông T và bà T vẫn còn nợ bà Phạm Thị T1 01 cây vàng 9999 và bà Phạm Thị S 05 chỉ vàng 9999.

Bản án sơ thẩm đã tuyên buộc ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị T phải trả cho bà Phạm Thị T1 01 cây vàng 9999 và bà Phạm Thị S 05 chỉ vàng 9999, cùng với số tiền 80.000.000 đồng cho ông Phan Ngọc Đ Nội dung kháng cáo của bà T yêu cầu ông T chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số nợ không có căn cứ chấp nhận Tuy nhiên, bản án sơ thẩm thiếu sót trong việc xác định nghĩa vụ trả nợ của từng người, vì vậy cấp phúc thẩm cần điều chỉnh Cụ thể, ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị T sẽ có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị T1 01 cây vàng 9999, trong đó ông T trả 05 chỉ vàng 9999 và bà T cũng trả 05 chỉ vàng 9999 Đồng thời, ông T và bà T cũng có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị S 05 chỉ vàng 9999, chia theo phần ông T trả 2,5 chỉ vàng 9999 và bà T trả 2,5 chỉ vàng 9999.

Căn cứ xác định nợ chung trong bản án chưa rõ ràng và chỉ dựa vào sự thừa nhận của các bên Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng ông T thừa nhận nợ bà S và bà T1, nhưng không có chứng cứ cho thấy đã trả hết nợ, nên xác định đây là nợ chung Tuy nhiên, tác giả cho rằng kết luận này không hợp lý và cần quy định rõ ràng hơn về nghĩa vụ chung của vợ chồng Trước hết, Tòa án chưa làm rõ mục đích khoản vay, liệu có phục vụ cho đời sống chung hay không Thứ hai, sự thừa nhận của ông T chỉ thể hiện sự đồng ý về khoản vay, không phải là căn cứ duy nhất để xác định nghĩa vụ chung Thứ ba, Tòa án chưa xác định tỷ lệ đóng góp của mỗi bên, dẫn đến việc mỗi bên đều phải gánh chịu nghĩa vụ mà không có cơ sở rõ ràng Tác giả đề xuất Tòa cần đánh giá dựa trên các tiêu chí: mục đích khoản vay, xác minh chứng cứ và tỷ lệ đóng góp của mỗi người, đồng thời phải xem xét quyền lợi của phụ nữ và con.

Tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 16 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nhằm đưa ra các quy định hướng dẫn và định hướng trong việc giải quyết hậu quả liên quan đến nghĩa vụ tài sản.

“Mỗi bên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình

Nghĩa vụ liên đới giữa nam và nữ khi sống chung như vợ chồng được xác lập nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống chung và việc nuôi dạy con cái.

Toà án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn xác định nghĩa vụ chung của các cặp đôi chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn Khi giải quyết tranh chấp, Tòa cần đánh giá dựa vào các tiêu chí quan trọng như mục đích khoản vay, xác minh chứng nhận của các bên, và tỷ lệ đóng góp của mỗi người, đặc biệt chú trọng đến quyền lợi của phụ nữ và con cái.

Ngày đăng: 01/04/2022, 21:32

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w