1. Trang chủ
  2. » Y Tế - Sức Khỏe

Thực trạng chăm sóc người bệnh rối loạn lo âu lan toả tại viện sức khoẻ tâm thần – bệnh viện bạch mai năm 2021

49 37 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Chăm Sóc Người Bệnh Rối Loạn Lo Âu Lan Tỏa Tại Viện Sức Khỏe Tâm Thần – Bệnh Viện Bạch Mai
Tác giả Nguyễn Thị Thúy
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Dũng
Trường học Trường Đại Học Điều Dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều Dưỡng Tâm Thần
Thể loại báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
Năm xuất bản 2021
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 906,45 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (0)
    • 1.1. Cơ sở lý luận (10)
    • 1.2. Cơ sở thực tiễn (22)
  • CHƯƠNG 2. MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP BỆNH (0)
    • 2.1. Khái quát Viện Sức Khoẻ Tâm Thần- Bệnh viện Bạch Mai (25)
    • 2.2 Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể (32)
    • 2.3. Một số ưu điểm và tồn tại (38)
  • CHƯƠNG 3. BÀN LUẬN (40)
    • 3.1. Bàn luận kết quả chăm sóc người bệnh (40)
    • 3.2. Nguyên nhân của các tồn tại (41)
    • 3.3. Đề xuất giải pháp (41)
  • KẾT LUẬN (44)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (46)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Cơ sở lý luận

1.1.1 Khái niệm rối loạn lo âu lan tỏa

Rối loạn lo âu lan tỏa là một dạng rối loạn liên quan đến stress, đặc trưng bởi những lo âu dai dẳng, không chỉ tập trung vào một sự kiện cụ thể nào mà còn liên quan đến những trải nghiệm trong quá khứ Rối loạn này thường gắn liền với stress kéo dài, có tính chất tiến triển và có xu hướng trở thành mãn tính.

Rối loạn lo âu lan tỏa (RLLALT), theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD – X 1992), có mã bệnh F41.1 và thuộc chương “Các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể” Đặc trưng của RLLALT là lo âu quá mức, lan tỏa trên nhiều chủ đề không thể kiểm soát, thường liên quan đến những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày và kéo dài ít nhất 6 tháng Bệnh này đi kèm với các triệu chứng căng thẳng tâm thần vận động và hoạt động quá mức của hệ thần kinh tự trị, bao gồm bồn chồn, run, nhịp tim nhanh, ra mồ hôi, cảm giác đứng ngồi không yên, hoa mắt chóng mặt, căng thẳng và rối loạn giấc ngủ.

Rối loạn lo âu lan tỏa, theo DSM-IV và DSM-V, là tình trạng mà người bệnh trải qua lo âu và lo lắng quá mức về nhiều sự kiện và hoạt động khác nhau mà họ không thể kiểm soát Để được chẩn đoán, bệnh nhân cần có ít nhất 3 trong 6 triệu chứng như bồn chồn, căng thẳng, cáu kỉnh, khó tập trung, dễ mệt mỏi và rối loạn giấc ngủ Những triệu chứng này phải gây ra sự khó chịu hoặc suy giảm đáng kể trong các chức năng nghề nghiệp và xã hội, và không được giải thích bởi các bệnh lý tâm thần khác, bệnh nội khoa hay việc sử dụng chất.

Tỉ lệ rối loạn lo âu lan tỏa (RLLALT) trong cộng đồng có sự khác biệt tùy thuộc vào tiêu chuẩn chẩn đoán Một nghiên cứu tại Úc cho thấy tỉ lệ mắc RLLALT trong 1 năm là 5,8% khi áp dụng tiêu chuẩn ICD - 10, trong khi theo DSM - IV, tỉ lệ này chỉ là 3,6% Năm 1992, Wacker và cộng sự đã điều tra RLLALT tại Basel, Thụy Sỹ, sử dụng cả DSM - III - R và ICD - 10, kết quả cho thấy tỉ lệ lo âu cả đời theo DSM - III - R là 1,9%, nhưng con số này tăng lên 9,2% khi áp dụng ICD - 10.

Tại Mỹ, tỷ lệ rối loạn lo âu (RLLALT) hàng năm dao động từ 3,4% đến 8,6%, với nhóm tuổi 18 – 24 là 2,9% và nhóm 45 – 65 tuổi là 4,3%, trong đó tỷ lệ nữ mắc rối loạn lo âu gấp đôi nam giới Tại Việt Nam, nghiên cứu của Amstadter và cộng sự vào năm 2009 cho thấy tỷ lệ rối loạn lo âu trong cộng đồng người Việt sau sang chấn tâm lý là khoảng 2,3%.

Các nghiên cứu tại các khu vực địa lý khác nhau, với các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau, đã chỉ ra rằng tỷ lệ RLLALT có sự biến đổi đáng kể Tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng trong cộng đồng.

1.1.3 Bệnh nguyên - bệnh sinh rối loạn lo âu lan tỏa

Rối loạn lo âu lan tỏa là một bệnh lý liên quan đến stress, trong đó nguyên nhân không chỉ do stress mà còn bị ảnh hưởng bởi nhân cách, khả năng chống đỡ của cá nhân, môi trường sống và tình trạng sức khỏe.

Sang chấn tâm lý, hay stress, có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau như áp lực công việc, học tập, thất vọng trong sự nghiệp, mâu thuẫn gia đình, hoặc tổn thất kinh tế và mất mát người thân Những loại stress mạnh và cấp diễn, cũng như những vấn đề sang chấn tâm lý nhỏ nhưng kéo dài và lặp đi lặp lại, đều có thể gây căng thẳng nội tâm Stress không chỉ là nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh tật mà còn có thể thúc đẩy sự phát sinh của các bệnh lý đã có sẵn.

Vai trò của nhân cách

Khả năng chống đỡ của nhân cách không chỉ ảnh hưởng đến việc gây bệnh mà còn tác động đến hình thành thể bệnh và nhận thức về sang chấn tâm lý Khi nhận thức tình huống không nguy hiểm và có thể vượt qua, phản ứng sẽ thích hợp và bình thường Ngược lại, nếu nhận thức tình huống là nguy hiểm và không thể chống đỡ, triệu chứng bệnh lý sẽ xuất hiện Nhân cách vững mạnh, lý tưởng và có khả năng chịu đựng stress sẽ khó gây bệnh, và nếu có bệnh, người đó cũng dễ hồi phục hơn Trong trường hợp bệnh RLLALT, nhân cách có vai trò quan trọng hơn cả sang chấn tâm lý Những người có thần kinh không ổn định, cầu toàn, hay dễ lo lắng và căng thẳng là những cá nhân dễ bị tổn thương, có thể mắc bệnh sau một stress nhẹ và hồi phục chậm.

 Vai trò của môi trường và cơ thể

Stress và nhân cách là những yếu tố chính gây ra các rối loạn liên quan đến stress, nhưng môi trường và tình trạng cơ thể cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các rối loạn này Một cơ thể khỏe mạnh và môi trường tích cực giúp nhân cách chống đỡ tốt hơn với stress Trong gia đình, nếu có bố mẹ hoặc họ hàng mắc các bệnh tâm thần như rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, hoặc có thói quen lạm dụng rượu và chất gây nghiện, thì nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn Bên cạnh đó, những bệnh nhân có bệnh lý cơ thể như chấn thương, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, hoặc các bệnh mạn tính, khi gặp sang chấn nhỏ cũng dễ bị mắc rối loạn lưỡng cực.

1.1.3.2 Bệnh sinh rối loạn lo âu lan tỏa

Rối loạn lo âu lan tỏa có biểu hiện đa dạng, bao gồm triệu chứng tâm thần và triệu chứng cơ thể Cơ chế bệnh sinh của rối loạn này rất phức tạp, liên quan đến sự rối loạn của các chất dẫn truyền thần kinh cũng như hệ thống dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận.

 Các chất dẫn truyền thần kinh:

Gama Aminobutiric Acid (GABA) là một amino acid quan trọng có chức năng ức chế dẫn truyền thần kinh, với các thụ thể tập trung chủ yếu ở vùng vỏ não liên quan đến cảm xúc sợ hãi và lo âu như thùy trán, hồi hải mã và hạnh nhân Khi GABA gắn vào thụ thể của hệ GABA-ergic, nó làm tăng quá trình khử cực màng tế bào thần kinh qua việc mở kênh Clo, dẫn đến giảm và ức chế hoàn toàn các xung động thần kinh Thuốc benzodiazepine, thường được sử dụng trong điều trị lo âu, hoạt động theo cơ chế tương tự, khi gắn vào thụ thể sẽ làm tăng ái lực của GABA, từ đó tăng cường tác dụng ức chế dẫn truyền thần kinh và giảm triệu chứng lo âu.

Serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng trong rối loạn lo âu lan tỏa (RLLALT), với đường dẫn truyền serotonergic bắt nguồn từ nhân raphe và được giải phóng vào thân não, ảnh hưởng đến các vùng vỏ não liên quan đến cảm xúc lo âu như hồi hải mã Sự tăng hoặc giảm chức năng của hệ serotonergic có thể dẫn đến rối loạn lo âu Nghiên cứu từ Đại học Bristol, Vương quốc Anh cho thấy nồng độ 5-HT (serotonin) giảm có liên quan đến sự xuất hiện của các triệu chứng lo âu và các biểu hiện khác của RLLALT.

Norepinephrin là một chất dẫn truyền quan trọng liên quan đến cơ chế bệnh sinh của rối loạn lo âu và trầm cảm, chủ yếu tập trung ở vùng cầu não Chất này phóng chiếu qua bó trước giữa tới các vùng như vỏ não, hệ viền, đồi não, thân não và tủy sống, những khu vực này có vai trò trong việc đáp ứng với stress và tạo ra cảm xúc sợ hãi, lo âu.

 Hệ thống dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận

Trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận là hệ thống thần kinh nội tiết quan trọng trong việc điều chỉnh cảm xúc lo âu Khi gặp sang chấn tâm lý, con người thường biểu hiện lo lắng và sợ hãi, thông tin này được truyền từ hệ viền đến vùng dưới đồi, nơi sản xuất corticotropin releasing factor (CRF) CRF kích thích tuyến yên sản xuất ACTH, dẫn đến việc tuyến thượng thận giải phóng cortisol, hormone giúp duy trì sự cân bằng và chuẩn bị cho việc đối mặt với nguy hiểm Nồng độ cortisol cao ở người bệnh RLLALT có thể làm tăng quá trình vận chuyển serotonin.

1.1.4 Đặc điểm lâm sàng rối loạn lo âu lan tỏa

Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Nghiên cứu về lo âu lan toả trên thế giới

Nghiên cứu về rối loạn lo âu lan tỏa đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả trên toàn cầu Một nghiên cứu dịch tễ học nổi bật được thực hiện bởi Blazer và cộng sự vào năm 1987 trên dân số Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc bệnh này trong suốt cuộc đời.

1 năm, 6 tháng của rối loạn lo âu lan tỏa [4]

Năm 1989, Craske MG và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM III, phát hiện tỷ lệ mắc bệnh, các bệnh phối hợp và bản chất mạn tính của các triệu chứng.

Năm 2001, Hettema và cộng sự nghiên cứu so sánh về rối loạn lo âu lan tỏa trên 2 giới nam và nữ [27]

Năm 2009, Michael và cộng sự nghiên cứu về đánh giá triệu chứng và điều trị rối loạn lo âu lan tỏa và nhiều nghiên cứu khác nữa [30]

Sự thay đổi trong định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lo âu lan tỏa, cùng với sự tồn tại song song của hai hệ thống chẩn đoán DSM và ICD, đã gây khó khăn cho việc thu thập dữ liệu trong các nghiên cứu dịch tễ học Theo ICD-10, tỷ lệ hiện mắc của rối loạn lo âu lan tỏa là từ 5-8% dân số, trong khi DSM-IV ghi nhận tỷ lệ này chỉ từ 1,5-3% (Heimberg, 2004) Tỷ lệ mắc trong vòng 12 tháng là 3,1%, và tỷ lệ mắc cả đời đạt 5,6%.

Theo độ tuổi: Dưới 18 tuổi: 2-4% dân số (Portman, 2009) [30]

Từ 50-64: 8,6% dân số (Dan J Stein, 2009) [15] Trên 65: 3,6% dân số (Huge, 2009) [31]

Giới: Rối loạn lo âu lan tỏa gặp ở nữ nhiều hơn nam[25] [33]

Tuổi khởi phát: Rối loạn lo âu lan tỏa có thể khởi phát sớm ở tuổi 13, 10% khởi phát trên 51 tuổi [29] Tuổi khởi phát trung bình là 32,7 [26]

1.2.2 Nghiên cứu về rối loạn lo âu lan toả tại Việt Nam

Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự phổ biến của rối loạn lo âu lan tỏa, như nghiên cứu của Đinh Dăng Hoè (2000) về tác dụng của pregabalin và diazepam Nguyễn Thị Phước Bình (2010) đã tiến hành nghiên cứu trên 90 bệnh nhân tại Viện Sức Khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai, cho thấy tỷ lệ bệnh nhân mắc rối loạn lo âu lan tỏa cao nhất trong các rối loạn lo âu khác, với triệu chứng tâm thần theo ICD 10 chiếm từ 85,7% đến 100% Các triệu chứng này phân bố đều giữa hai giới, nhưng có sự khác biệt rõ rệt: nữ giới có tỷ lệ cáu kỉnh (78,3%) và lo sợ (64%) cao hơn nam giới (33% và 38,1%) Hồi hộp tim đập nhanh (93%) và khô miệng (79%) là những triệu chứng phổ biến, trong khi chóng mặt và run tay chân thường gặp nhiều hơn ở nữ giới với tỷ lệ lần lượt là 70% và 73,9%.

Nghiên cứu của Vũ Sơn Tùng (2007) tại Viện Sức Khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai trên 44 bệnh nhân cho thấy triệu chứng của bệnh rối loạn lo âu lan toả xuất hiện đa dạng trên nhiều cơ quan trong cơ thể Cụ thể, tỷ lệ triệu chứng ở các hệ thống như tim mạch (93,2%), hô hấp (59,1%), tiêu hóa (75%), thận – tiết niệu (25%), thần kinh – cơ (63,6%) và da – giác quan (70,5%) cho thấy mức độ ảnh hưởng rộng rãi của bệnh lý này.

Theo nghiên cứu của tác giả Trần Nguyễn Ngọc (2019) tại Viện Sức Khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai, trong số 170 bệnh nhân rối loạn lo âu điều trị nội trú, 79,4% có chủ đề lo âu liên quan đến gia đình và 72,46% liên quan đến tai nạn, bệnh tật Đặc biệt, 40% bệnh nhân gặp phải 3 chủ đề lo âu khác nhau, với mức độ lo âu nặng chiếm 45,5% theo thang đo HAM-A.

Theo nghiên cứu, các bệnh nhân có mức độ lo âu trung bình là 5,2  2,7 lần mỗi tuần, với thời điểm triệu chứng lo âu nặng nhất thường xảy ra vào buổi tối (66,7%) Trung bình, mỗi bệnh nhân trải qua khoảng 8,6  3,2 triệu chứng trong tổng số 22 triệu chứng theo tiêu chuẩn ICD 10 năm 1992.

Hồi hộp/ tim đập mạnh/ nhanh (89,4%), bồn chồn (93,5%), căng thẳng tâm thần (71,7%), khó ngủ vì lo lắng (97,0%), vã mồ hôi (62,9%), khó thở ( 61,1%), run (55,8%), và cơn nóng hoặc lạnh(55,2%)[21].

MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP BỆNH

Khái quát Viện Sức Khoẻ Tâm Thần- Bệnh viện Bạch Mai

VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN

1 Địa điểm: Tòa nhà T4, T5, T6 Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai

Fax:024.35765346 Email: nimhvn@gmail.com

3 Website: www.nimh.gov.vn

FB: https://www.facebook.com/nimh.vietnam

4 Cơ cấu tổ chức - nhân sự

Tổng số cán bộ nhân viên là 91 người, bao gồm 02 phó giáo sư, 07 tiến sĩ, 04 bác sĩ chuyên khoa cấp II, 22 thạc sĩ, 01 bác sĩ, 16 cử nhân đại học (chuyên ngành điều dưỡng và tâm lý), 03 điều dưỡng cao đẳng, 28 điều dưỡng trung cấp, 05 hộ lý và 03 nhân viên khác (bao gồm lái xe và kỹ thuật viên).

Viện trưởng - Bí thư Chi bộ: TS BS Nguyễn Doãn Phương

TS.BSCKII.Nguyễn Văn Dũng

PGS TS Nguyễn Văn Tuấn

TS Trần Thị Hà An

Chủ tịch Công đoàn: ThS Đặng Thanh Tùng

Bí thư Đoàn thanh niên: CN Bùi Văn Toàn Điều dưỡng trưởng: ThS Phạm Thị Thu Hiền

Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai được thành lập từ Khoa Tâm thần

Năm 1911, Khoa Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai (tiền thân của Viện Sức khỏe Tâm thần ngày nay) được thành lập

Năm 1969, Khoa Tinh – Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai được tách ra thành hai khoa: Khoa Tâm thần và Khoa Thần kinh

Ngày 08 tháng 08 năm 1991 đến nay, Viện Sức khỏe Tâm thần đã được thành lập theo Quyết định số 784/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế trên cơ sở kết hợp Khoa Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, các cán bộ biệt phái của Bộ môn Tâm thần, Trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Tâm thần Trung ương I

Viện Sức khỏe Tâm thần, thuộc Bệnh viện Bạch Mai, được thành lập theo Quyết định số 784/QĐ-BYT của Bộ Y tế vào ngày 08/08/1991 Đây là viện đầu ngành về Tâm thần học, đảm nhiệm các chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong lĩnh vực này.

Chúng tôi tiếp nhận tất cả bệnh nhân mắc rối loạn tâm thần, bao gồm cả những trường hợp được chuyển từ các bệnh viện khác Dịch vụ của chúng tôi bao gồm cấp cứu, khám bệnh, và điều trị nội trú cũng như ngoại trú.

- Nghiên cứu và chỉ đạo các cơ sở chuyên khoa nghiên cứu những vấn đề về Tâm thần học và tâm lý xã hội cấp bách hiện nay

Đào tạo và bổ sung cán bộ chuyên khoa Tâm thần ở bậc đại học và sau đại học là cần thiết để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe tâm thần cho cộng đồng.

- Kết hợp với các Bệnh viện Tâm thần Trung ương trong công tác chỉ đạo chuyên môn kỹ thuật chuyên khoa Tâm thần học trong cả nước

- Cùng với Viện Giám định Pháp y Tâm thần Trung ương thực hiện nhiệm vụ giám định pháp y tâm thần

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật tâm thần học là cần thiết để phát triển và nâng cao hoạt động chuyên ngành tâm thần tại Việt Nam Việc kết nối với các nước và tổ chức quốc tế sẽ giúp cải thiện chất lượng dịch vụ và nghiên cứu trong lĩnh vực này, từ đó nâng cao sức khỏe tâm thần cho cộng đồng.

Phối hợp với các Bệnh viện Tâm thần Trung ương và các cơ quan liên quan nhằm tuyên truyền và giáo dục kiến thức về chăm sóc sức khỏe tâm thần cho cộng đồng.

Nâng cao chất lượng dịch vụ phòng bệnh, điều trị và chăm sóc sức khỏe tâm thần là rất quan trọng Đồng thời, cần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học để làm cơ sở và cung cấp bằng chứng cho việc thực hành y khoa hiệu quả.

Tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi kiến thức khoa học kỹ thuật về lĩnh vực Tâm thần

12 Những thành tựu nổi bật

Công tác khám, chữa bệnh

Viện hiện có 241 giường bệnh nội trú, phục vụ từ 250-280 bệnh nhân nội trú mỗi ngày, cùng với 300-350 lượt bệnh nhân đến khám ngoại trú hàng ngày Các dịch vụ và kỹ thuật y tế đa dạng đang được thực hiện tại Viện.

- Khám, tư vấn & điều trị ngoại trú;

- Khám và điều trị nội trú;

- Điện não đồ vi tính;

- Kích thích từ xuyên sọ;

- Tư vấn/Trị liệu tâm lý;

- Liệu pháp thư giãn luyện tập

Công tác nghiên cứu khoa học

- 01 đề tài cấp Nhà nước;

- 23 đề tài cấp cơ sở

Viện Sức khỏe Tâm thần là trung tâm hàng đầu quy tụ các chuyên gia trong lĩnh vực Tâm thần học, đóng vai trò quan trọng trong đào tạo đại học và sau đại học về chuyên ngành này trên toàn quốc Viện cũng hợp tác chặt chẽ với Bộ môn Tâm thần của Đại học Y Hà Nội để nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu trong lĩnh vực tâm thần học.

- Liên tục đào tạo đại học cho sinh viên Y5 Đại học Y Hà Nội

- Tham gia đào tạo hệ cử nhân điều dưỡng của Đại học Y Hà Nội, Đại học Thăng Long

Viện đã hợp tác với Khoa Tâm lý thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Công đoàn và Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn để tạo cơ hội cho sinh viên Khoa Tâm lý tham gia kiến tập và thực tập tại Viện.

- Kết hợp với Bệnh viện tổ chức đào tạo cho các học viên của Trường Cao đẳng Y Bạch Mai đi luân khoa

Bệnh viện Bạch Mai, phối hợp với Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến, tổ chức các lớp đào tạo và đào tạo lại cho điều dưỡng tâm thần tại Viện Sức khỏe Tâm thần.

Liên tục tổ chức các khóa đào tạo và chuyển giao kỹ thuật về xét nghiệm cận lâm sàng như điện não, lưu huyết não và trắc nghiệm tâm lý cho các bệnh viện tuyến tỉnh nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị.

Viện tổ chức các hoạt động khoa học định kỳ, bao gồm báo cáo chuyên đề hàng tuần và hội chẩn các ca lâm sàng với sự tham gia của các Giáo sư, Phó Giáo sư chuyên ngành Những hoạt động này nhằm cung cấp thông tin khoa học, từ đó nâng cao kiến thức về sức khỏe tâm thần cho cán bộ nhân viên của Viện.

Chương trình đào tạo sau đại học cung cấp các khóa học cho nghiên cứu sinh, nội trú, cao học, cũng như chuyên khoa tâm thần cấp I và II, bao gồm cả hệ chính quy và không tập trung Bên cạnh đó, chương trình cũng đào tạo chứng chỉ hỗ trợ tâm thần cho các chuyên khoa khác, phục vụ cho nghiên cứu sinh, nội trú, cao học thần kinh và cao học y tế cộng đồng.

Công tác hợp tác quốc tế

Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể

1 Họ và tên: Nguyễn Quang B

5 Địa chỉ: Xóm 10, Minh Khai, Phủ Lý, Hà Nam

9 Người cung cấp thông tin

Người bệnh: Độ tin cậy cao (tỉnh táo, hượp tác kể bệnh)

Con trai NB: Độ tin cậy cao (sống cùng NB, hợp tác kể bệnh)

13 Khi cần báo tin cho

1 Lý do vào viện: Lo lắng ngủ kém

2 Chẩn đoán y khoa: Rối loạn lo âu lan toả/ tăng huyết áp

Theo lời NB và người nhà ( con trai NB) kể:

NB là con thứ 1 trong gia đình, có quá trình phát triển thể chất và tâm thần bình thường Không có tiền sử viêm não, màng não hay chấn thương sọ não, đồng thời không dị ứng với thuốc hay thức ăn, cũng như không lạm dụng chất kích thích Tuy nhiên, NB đã có tiền sử tăng huyết áp trong 3 năm, với mức huyết áp cao nhất ghi nhận là 160/90 mmHg.

NB là người cầu toàn và hay lo nghĩ, hiện đang sống cùng con trai cả trong một gia đình khá giả và hòa thuận Tuy nhiên, bệnh của NB đã khởi phát cách đây hai năm với triệu chứng mất ngủ, khó ngủ và suy nghĩ miên man về những chuyện nhỏ nhặt Ban đêm, NB chỉ ngủ được 1-2 tiếng, kèm theo cơn hồi hộp, đánh trống ngực và ra mồ hôi Gia đình đã đưa NB đi khám và điều trị ngoại trú tại Viện Sức Khoẻ Tâm Thần – Bệnh Viện Bạch Mai, nhưng không duy trì thuốc thường xuyên Gần đây, tình trạng mệt mỏi, khó ngủ, hồi hộp và ra mồ hôi, cùng với run tay chân, xuất hiện nhiều vào buổi sáng, mỗi cơn kéo dài từ 45-60 phút.

NB gặp phải tình trạng suy nghĩ linh tinh, ăn uống kém và giảm cân, vì vậy gia đình đã quyết định đưa NB đến khám và điều trị nội trú tại Viện Sức Khoẻ Tâm Thần thuộc Bệnh Viện Bạch Mai.

Người bệnh vào Viện điều trị trong tình trạng:

Tỉnh tiếp xúc với cảm giác mệt mỏi, chán ăn và thường xuyên lo lắng về huyết áp, mặc dù đã được kiểm soát và duy trì thuốc Bệnh nhân thường suy nghĩ nhiều về những điều nhỏ nhặt, dẫn đến tình trạng mất ngủ vào ban đêm.

Nhiều người gặp khó khăn trong việc đi vào giấc ngủ, thường trải qua cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực và ra mồ hôi Những triệu chứng này thường xuất hiện nhiều hơn vào buổi tối trước khi đi ngủ, trong khi vào buổi chiều thì nhẹ hơn.

- Nội khoa và thần kinh chưa phát hiện dấu hiệu bệnh lý

+ Thể trạng: Trung bình ( chiều cao 158cm, cân nặng 58 kg BMI: 23,23 kg/m 2 )

+ Dấu hiệu sinh tồn: Mạch 100 L/p, huyết áp 130/80mmHg, nhiệt độ 36,5 0 C, nhịp thở 19 lần/phút, SPO2 97% khí phòng

+ Biểu hiện chung: Tiếp xúc được, ăn mặc gọn gàng

+ Ý thức định hướng: Không gian, thời gian, bản thân đúng

+ Cảm xúc: Lo nghĩ nhiều chuyện nhỏ nhặt

+ Tri giác: không có ảo giác

Hình thức: Nhịp chậm Nội dung: Không có hoang tưởng + Hánh vi tác phong: Không rối loạn

Hoạt động có ý trí: Suy giảm (chậm chạp, nằm nhiều, giảm quan tâm thích thú)

Hoạt động bản năng: Ăn ngủ kém

+ Chú ý: Giảm tập trung chú ý

+ Không có tổn thương liệt khu chú

+ Vận động tứ chi: Không hạn chế vận động tứ chi

+ Trương lực cơ: Bình thường

+ Cảm giác ( nông, sâu): Không rối loạn

+ Phản xạ: Phản xạ gân xương đáp ứng đều hai bên

2.2.2.4.Khám thực thể các cơ quan

- Tuần hoàn: Nhịp tim đều, nghe tiếng T1, T2 rõ

- Hô hấp: Lồng ngực hai bên cân đối, nhịp thở đều

- Tiêu hoá: Bụng mềm, không chướng, gan lách không sờ thấy

- Thận, tiết niệu, sinh dục: Bình thường

- Cơ, xương, khớp: Bình thường

- Tai, mũi, họng: Bình thường

-Răng, hàm, mặt: Bình thường

- Các bệnh lý khác: Chưa thấy có biểu hiện bệnh lý

2.2.2.5 Các xét nghiệm cận lâm sàng

+ Xét nghiệm công thức máu: HC 4,5 T/L; BC 9,7 G/L; TC 186G/L + Sinh hoá máu: Glucose 6,1 mmol/l; SGOT 45U/I; SGPT: 64 U/I

Bilirubin- TT 3,9 mol/l; Protein toàn phần:

Triglycerit 1,8 mmol/l; Cholesterol 5,0 mmol/l + Zung: 50  kết quả cho thấy trên thang điểm là lo âu cao

+ HAMILTON: 20  Kế quả cho thấylo âu cao

+ DASS: A/15 Kết quả cho thấy lo âu cao

+ XQ tim phổi: bình thường

+ Tiền sử sản nhi: phát triển bình thường

+ Tiền sử bệnh: Tăng huyết áp 3 năm nay, điều trị thường xuyên Bệnh rối loạn lo âu lan toả 2 năm nay không duy trì thuốc thường xuyên

+ Tiền sử sử dụng chất: Không

- Tiền sử gia đình:Ba đời nội ngoại hai bên gần đây không ai mắc các rối loạn bệnh lý tâm thần

2.2.3 Hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hoá:

+ Hoàn cảnh gia đình: Khá giả

- Các thuốc đang dùng cho người bệnh:

+ Diazepam 5mg x 02 viên uống : 09h 01 viên, 20h 01 viên

Trong thời gian NB nằm viện 30 ngày tôi đánh giá hoạt động hàng ngày của NB như sau (Từ ngày 02/07/2021 đến 02/08/ 2021):

- NB tỉnh, tiếp xúc được

NB là người cầu toàn, thường xuyên lo lắng về những chi tiết nhỏ nhặt, dẫn đến cảm giác mệt mỏi Luôn trong trạng thái lo sợ huyết áp sẽ tăng cao, mặc dù đã được điều trị bằng thuốc kiểm soát huyết áp.

Những triệu chứng của bệnh nhân bao gồm cơn hồi hộp, đánh trống ngực, choáng váng, và cảm giác bồn chồn kèm theo ra mồ hôi Các triệu chứng này thường xuất hiện nhiều vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, trong khi vào buổi chiều thì nhẹ hơn.

- NB ăn không có cảm giác ngon miệng, đêm khó vào giấc ngủ, ngủ ít 1-

Điều dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc động viên và hướng dẫn bệnh nhân thực hiện các sinh hoạt cá nhân Họ khích lệ bệnh nhân hoàn thành vệ sinh cá nhân, mặc dù sau khi thực hiện, bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi và cần nghỉ ngơi.

- Cảm giác khó thở, hồi hộp, choáng váng, bồn chồn liên quan đến khả năng ứng phó với stress chưa hiệu quả

- Dễ bị căng thẳng, mệt mỏi liên quan đến mối lo âu quá mức

- Ăn không ngon miệng liên quan đến mệt mỏi

- Ngủ khó vào giấc liên quan đến tình trạng bệnh

- Bệnh dễ tái phát liên quan đến kiến thức kỹ năng giải quyết vấn đề của người bệnh

2.2.4.3 Lập kế hoạch chăm sóc

- Chăm sóc về tâm lý

- Giúp NB hiểu được những lo lắng sẽ dẫn đến tình trạng bệnh

- Thực hiện y lệnh thuốc: 5 đúng

- Đảm bảo dinh dưỡng cho NB

- Đảm bảo giấc ngủ cho NB

2.2.4.4 Thực hiện kế hoạch chăm sóc

- Đo dấu hiệu sinh tồn thường xuyên đúng giờ và trấn an tinh thần NB

- Thay ga trải giường cho NB, vệ sinh buồng bệnh sạch sẽ, tạo không gian buồng bệnh yên tĩnh , đủ ánh sáng

Để tạo sự tin tưởng và hợp tác từ bệnh nhân, cần thường xuyên gần gũi và lắng nghe những phàn nàn của họ một cách bình tĩnh Tránh phản ứng trước cơn giận dữ của bệnh nhân, đồng thời ân cần động viên và giải thích hợp lý về các triệu chứng mà họ gặp phải Điều này sẽ giúp giảm căng thẳng, lo âu và các cảm giác khó chịu, từ đó tạo điều kiện cho bệnh nhân yên tâm và tích cực trong quá trình điều trị.

- Thực hiện y lệnh thuốc đầy đủ, chính xác, theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc để báo bác sĩ kịp thời xử trí

Để duy trì sức khỏe tốt, người bệnh cần thực hiện chế độ ăn lành mạnh, bao gồm thực phẩm giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hóa và dễ hấp thu Việc khuyến khích người bệnh ăn uống đầy đủ và không bỏ bữa là rất quan trọng để tránh tình trạng mệt mỏi và suy nhược.

- Đảm bảo giấc ngủ cho NB:

+ Hướng dẫn NB ngủ đúng giờ: trưa ngủ từ 12h đến 13h30’, tối ngủ từ 22h đến 6h sáng hôm sau

+ Hướng dẫn NB không dùng các chất kích thích như: chè, cà phê, rượu, bia…

Để giúp nâng cao sức khỏe và giảm căng thẳng, các bài tập thư giãn cho người bệnh bao gồm tập thể dục nhẹ nhàng sau khi ngủ dậy, nằm thả lỏng cơ thể, hít thở sâu, tập yoga, ngồi thiền, luyện tập tự sinh và thở tập khí công Những hoạt động này không chỉ giúp cải thiện tâm trạng mà còn hỗ trợ quá trình hồi phục hiệu quả.

+ Theo dõi sát NB phát hiện sớm các diễn biến bất thường

- Đối với NB đang nằm viện: Điều dưỡng tư vấn cho NB:

Để giúp người bệnh vượt qua cảm giác hồi hộp và đánh trống ngực, cần động viên và giải thích cho họ về cách loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực Hướng dẫn họ thực hiện bài tập hít sâu, thở đều và thả lỏng cơ thể sẽ giúp giảm bớt căng thẳng và cải thiện tâm trạng.

Sự tương tác trong gia đình và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lo âu về bệnh tật Tăng cường các hoạt động giao tiếp và kết nối sẽ giúp cải thiện sức khỏe tinh thần và cảm xúc của mọi người.

+ Tham gia sinh hoạt, vui chơi giải trí, phục hồi chức năng trong Viện

- Đối với NB chuẩn bị ra viện: Điều dưỡng thực hiện:

+ Uống thuốc đều, đúng giờ theo đơn, tuyệt đối không tự ý bỏ thuốc khi chưa được sự đồng ý của bác sĩ

+ Tin tưởng vào phác đồ điều trị của bác sĩ

+ Tạo cho mình cuộc sống vui vẻ và thoải mái, hạn chế uống rượu, bia và các chất kích thích như: cà phê, thuốc lá…

 Giáo dục cho gia đình NB:

+ Thường xuyên động viên, gần gũi, quan tâm, tránh sang chấn tâm lý cho NB

Quản lý và bảo quản thuốc một cách chặt chẽ là rất quan trọng, đảm bảo người bệnh uống thuốc đúng giờ Bên cạnh đó, gia đình cần tư vấn và khuyến khích người bệnh tham gia các hoạt động xã hội, giao lưu với mọi người xung quanh để nâng cao tinh thần và sức khỏe.

- NB hiểu và xác định được mối lo âu của mình để tiếp tục phối hợp điều trị

- NB phối hợp và thực hiện thuốc an toàn

- NB đã tham gia luyện tập thư giãn

- NB ăn cảm thấy ngon miệng hơn

- NB ngủ được nhiều giờ hơn và sâu giấc hơn

- NB tập ứng phó dần với stress

- Gia đình và NB hợp tác với nhân viên y tế.

Một số ưu điểm và tồn tại

- NB đã được Điều dưỡng theo dõi sát trong quá trình điều trị Trong ngày đầu Điều dưỡng đã đón tiếp xếp giường cho NB, những ngày tiếp theo

NB được thực hiện tốt các y lệnh của bác sĩ như thuốc, đo dấu hiệu sinh tồn, thực hiện các xét nghiệm cần thiết cho NB

-Điều dưỡng hướng dẫn cho NB những bài tập thư giãn để NB có thể kiểm soát được cơn hồi hộp đánh trống ngực

-Điều dưỡng đã tư vấn, hướng dẫn cho người nhà và NB phối hợp trong chăm sóc về ăn uống và điều trị

- Tham gia thường trực theo quy chế thường trực dưới sự phân công của Điều dưỡng trưởng Viện

- Bàn giao NB giữa giờ hành chính và giờ trực cho Điều dưỡng trực, ghi vào sổ những y lệnh còn lại trong ngày

Điều dưỡng đã lắng nghe những chia sẻ của người bệnh (NB) để hỗ trợ họ về mặt tâm lý, tuy nhiên thời gian dành cho NB để trò chuyện vẫn còn hạn chế.

- NB chưa thực sự được chăm sóc một cách toàn diện như dinh dưỡng, vệ sinh cá nhân

- Điều dưỡng thực hiện giáo dục sức khoẻ cho NB tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ, chưa giải thích rõ về bệnh và nguyên nhân gây bệnh

Khi chăm sóc người bệnh, cần nâng cao tính chủ động trong công việc và đảm bảo giải thích rõ ràng cho người nhà về các tác dụng cũng như tác dụng không mong muốn của thuốc.

BÀN LUẬN

Bàn luận kết quả chăm sóc người bệnh

Người bệnh đến Viện Sức Khoẻ Tâm thần với các triệu chứng bồn chồn, lo lắng, tỉnh táo nhưng mệt mỏi, ăn uống kém, thường xuyên suy nghĩ và lo sợ về huyết áp mặc dù đã được kiểm soát Họ gặp khó khăn trong giấc ngủ ban đêm và thường xuyên trải qua cơn hồi hộp, đánh trống ngực, ra mồ hôi, và run tay chân, đặc biệt vào buổi sáng và trước khi đi ngủ Hành vi trở nên chậm chạp, trí nhớ và khả năng tập trung giảm sút.

Sau một tháng điều trị từ 02/07/2021 đến 02/08/2021, bệnh nhân đã được chăm sóc an toàn theo Thông tư 07/2011/TT-BYT của Bộ Y Tế Kết quả điều trị cho thấy bệnh nhân có sự tiến triển rõ rệt về mặt bệnh lý: ăn uống tốt hơn, cảm giác ngon miệng, ngủ sâu giấc hơn, giảm mệt mỏi và hồi hộp, đồng thời tự chăm sóc bản thân và tích cực tham gia vào giao tiếp cũng như các hoạt động.

Người bệnh được tiếp đón tại viện điều dưỡng với sự hướng dẫn về nội quy và động viên để yên tâm điều trị Họ được sắp xếp vào buồng bệnh thoáng mát vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, đảm bảo đủ ánh sáng Việc xếp bệnh nhân cùng phòng giúp thuận tiện cho công tác quản lý và chăm sóc Điều dưỡng cung cấp chăn màn và quần áo viện cho người bệnh, thực hiện đo dấu hiệu sinh tồn theo y lệnh bác sĩ Theo dõi sát sao diễn biến bệnh, quản lý người bệnh ở khu vực dễ quan sát để phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường, đảm bảo an toàn trong quá trình chăm sóc Y lệnh thuốc hàng ngày được thực hiện, cùng với chế độ dinh dưỡng và giấc ngủ hợp lý, cũng như vệ sinh cá nhân cho người bệnh Bên cạnh đó, giáo dục sức khỏe và phục hồi chức năng cũng được chú trọng trong quá trình điều trị tại viện.

Các can thiệp trong chuyên đề của chúng tôi đã chứng minh hiệu quả cao trong quản lý, theo dõi và chăm sóc bệnh nhân lo âu tại Viện Sức Khoẻ Tâm thần Những biện pháp này cũng được nhiều tác giả khác như Nguyễn Thị Hồng Thanh và Nguyễn Đức Tiến đồng tình.

Nguyên nhân của các tồn tại

* Đối với Viện Sức Khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai:

Điều dưỡng mới được tuyển dụng sẽ trải qua chương trình đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành điều dưỡng, đồng thời được bổ sung kiến thức về tâm lý và các liệu pháp trong tâm thần.

- Việc kiểm giám sát, đánh giá chưa được tốt nên đem lại hiệu quả, sự tuân thủ công vụ của một số điều dưỡng chưa cao

* Đối với đội ngũ điều dưỡng:

- Năng lực điều dưỡng mới còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò chủ động trong chăm sóc

- NVYT nói chung và điều dưỡng nói riêng chưa chủ động học tập để vận dụng các liệu pháp tâm lý đối với NB.

Đề xuất giải pháp

3.3.1 Giải pháp về quản lý

- Xây dựng các quy trình, hướng dẫn cụ thể cho điều dưỡng trong chăm sóc NB lo âu lan toả

- Tăng cường hoạt động giám sát đánh giá các hoạt động chăm sóc NB lo âu lan toả

- Xây dựng các bảng kiểm để đánh giá được các hoạt động chăm sóc NB của điều dưỡng

3.3.2 Giải pháp về kỹ thuật

- Tổ chức nhiều khóa đào tạo tại chỗ về kỹ năng mềm cho đội ngũ điều dưỡng

- Tăng cường đào tạo, tập huấn cho điều dưỡng về kỹ năng truyền thông, nhất là truyền thông về phòng chống bệnh lo âu lan toả tại cộng đồng

- Thường xuyên tực hiện đào tạo, tập huấn cho điều dưỡng nhất là điều dưỡng mới tuyển để nắm được quy trình chăm sóc NB

- Thường xuyên cấp nhập kiến thức về bệnh lo âu lan toả để nâng cao năng lực cho hệ thống điều dưỡng cụ thể:

+ Điều dưỡng chăm sóc cần tìm hiểu NB để lên kế hoạch chăm sóc NB cho phù hợp

+ Động viên, quan tâm và giúp đỡ NB bị lo âu lan toả

+ Tăng cường công tác giáo dục sức khỏe, hướng dẫn giải thích cho NB người nhà người hiểu rõ thế nào là bệnh lo âu lan toả

+ Khi NB chống đối dùng thuốc thì phải giải thích tại sao phải uống thuốc, và cách uống thuốc như thế nào

+ Sau khi cho NB dùng thuốc phải theo dõi và hướng dẫn phát hiện tác dụng phụ của thuốc

+ Giải thích cho người nhà biết cách ứng xử với những biểu hiện bất thường của bệnh cũng như tác dụng phụ của thuốc

Phục hồi chức năng là bước quan trọng sau khi bệnh nhân đã điều trị ổn định Hướng dẫn bệnh nhân cách tự chăm sóc bản thân, bao gồm việc tự tắm giặt và vệ sinh cá nhân, là cần thiết Đồng thời, việc sắp xếp chỗ ở gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ cũng góp phần vào quá trình hồi phục sức khỏe.

Các liệu pháp tâm lý nhằm tác động tích cực đến trạng thái tâm lý của người bệnh, giúp họ cảm thấy thoải mái và vui vẻ hơn Điều này không chỉ nâng cao sự tự tin mà còn hình thành sự lạc quan và tin tưởng vào quá trình điều trị.

Nhân viên y tế hướng dẫn bệnh nhân các kỹ năng cộng đồng thiết yếu, bao gồm tham gia hoạt động sinh hoạt tập thể, đi du lịch để giảm căng thẳng, sử dụng điện thoại một cách hợp lý và khai thác các phương tiện giao thông công cộng.

Giáo dục cho người bệnh (NB) là rất quan trọng để họ nhận thức rõ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân Điều này không chỉ giúp họ hiểu được yêu cầu được hỗ trợ khi cần thiết, mà còn khuyến khích họ tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng.

3.3.3 Đối với gia đình người bệnh

Khi NB được trở về với gia đình, xã hội cần phải xác định:

Gia đình cần nhận thức rằng việc chăm sóc người bệnh lo âu không chỉ dựa vào thuốc mà còn cần sự quan tâm và chăm sóc tâm lý từ họ Điều này sẽ giúp người bệnh tái hòa nhập với cuộc sống và xã hội một cách hiệu quả hơn.

Gia đình cần thể hiện sự quan tâm và gần gũi, không được thờ ơ hay coi thường người cao tuổi Hãy động viên và cảm thông với những mặc cảm của họ, khuyến khích họ tham gia lao động tập thể, hoạt động của chi hội người cao tuổi, cũng như công việc dọn dẹp vệ sinh nhà cửa để tạo cảm giác gắn kết và ý nghĩa trong cuộc sống.

Gia đình cần nhận thức rõ những nguy cơ làm trầm trọng thêm tình trạng của người bệnh, như lo lắng, suy nghĩ tiêu cực và tâm trạng phiền muộn Khi người bệnh đã ổn định và trở về cộng đồng, gia đình không nên để họ rơi vào trạng thái thụ động mà nên khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động nhẹ nhàng, phù hợp với khả năng của mình.

Bố trí thời gian tham gia đầy đủ các lớp tập huấn kiến thức về bệnh và chăm NB lo âu lan toả

Quản lý thuốc một cách chặt chẽ và đảm bảo bệnh nhân uống thuốc đều đặn hàng ngày theo chỉ dẫn của bác sĩ Đồng thời, cần phát hiện kịp thời các tác dụng phụ của thuốc hoặc triệu chứng của bệnh và báo cáo ngay cho bác sĩ chuyên khoa.

Khi bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng liên quan đến bệnh tâm thần, việc đưa họ đến cơ sở y tế chuyên khoa để được khám và điều trị là rất quan trọng Gia đình không nên tin vào mê tín dị đoan hay thực hiện các nghi lễ cúng bái cho bệnh nhân.

Ngày đăng: 01/04/2022, 14:01

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. American Psychiatric Association (2013). Generalized Anxiety disorder, Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition, 222 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition
Tác giả: American Psychiatric Association
Năm: 2013
2. Amstadter A.B., Acierno R., Richardson L., et al. (2009). Post-Typhoon Prevalence of Post -traumatic Stress Disorder, Major Depressive Disorder, Panic Disorder and Generalized Anxiety Disorder in a Vietnamese Sample. J Trauma Stress, 22(3), 180–188 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Post-Typhoon Prevalence of Post -traumatic Stress Disorder, Major Depressive Disorder, Panic Disorder and Generalized Anxiety Disorder in a Vietnamese Sample
Tác giả: Amstadter A.B., Acierno R., Richardson L
Nhà XB: J Trauma Stress
Năm: 2009
3. Baldwin D.S., Anderson I.M., Nutt D.J, et al. (2014). Evidence-based pharmacological treatment of anxiety disorders, post-traumatic stress disorder and obsessive-compulsive disorder: A revision of the 2005 guidelines from the British Association for Psychopharmacology. J Psychopharmacol (Oxf), 28(5), 403–439 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Evidence-based pharmacological treatment of anxiety disorders, post-traumatic stress disorder and obsessive-compulsive disorder: A revision of the 2005 guidelines from the British Association for Psychopharmacology
Tác giả: Baldwin D.S., Anderson I.M., Nutt D.J., et al
Nhà XB: J Psychopharmacol (Oxf)
Năm: 2014
4. Blazer D C, Huges D,Geor L K (1987), “stressfull life events and the onset of a generalized axiety syndrome”, American Journal of psychiatry, 144(9), tr. 1178 – 1183 Sách, tạp chí
Tiêu đề: stressfull life events and the onset of a generalized axiety syndrome
Tác giả: Blazer D C, Huges D, Geor L K
Nhà XB: American Journal of Psychiatry
Năm: 1987
6. Bùi Quang Huy (2007), "Rối loạn lo âu lan tỏa", Rối loạn lo âu, Nhà xuất bản y học, tr 29-38 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn lo âu
Tác giả: Bùi Quang Huy
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2007
7. Craske MG et al (1989), “Qualitative dimensions of worry in DSM – III – R generalized anxiety disorder subjects and nonanxious controls”, 27(4), 397 – 402 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Qualitative dimensions of worry in DSM – III – R generalized anxiety disorder subjects and nonanxious controls
Tác giả: Craske MG
Năm: 1989
8. Đinh Đăng Hòe (2000), Bài giảng chuyên đề tâm thần học. Rối loạn lo âu, Bộ môn tâm thần – Đại học Y Hà Nội,28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng chuyên đề tâm thần học. Rối loạn lo âu
Tác giả: Đinh Đăng Hòe
Nhà XB: Bộ môn tâm thần – Đại học Y Hà Nội
Năm: 2000
24. Bruce Lydiard, Karl Rickels (2010), Comparative e ffi cacy of pregabalin and benzodiazepines in treating the psychic and somatic symptoms of generalized anxiety disorder. International Journal of Neuropsychopharmacology (2010), pp.13, 229–241 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Comparative efficacy of pregabalin and benzodiazepines in treating the psychic and somatic symptoms of generalized anxiety disorder
Tác giả: Bruce Lydiard, Karl Rickels
Nhà XB: International Journal of Neuropsychopharmacology
Năm: 2010
25. Dan J.Stein (2009),“Generalized axiety disorders”, Textbook of anxiety, American Psychiatric Publishing, Inc, pp. 3, 4, 115-119, 125-126, 6, 180, 210, 351, 352, 362, 369 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Textbook of anxiety
Tác giả: Dan J.Stein
Nhà XB: American Psychiatric Publishing, Inc
Năm: 2009
26. Grant BF et al (2005) Prevalence, correlates, co-morbidity,and comparative disability of DSM-IV generalized anxiety disorder in the USA: Results from the National Epidemiologic Survey on Alcohol and Related Conditions. Psychological Medicine, USA, 35: 1747-1759 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Prevalence, correlates, co-morbidity,and comparative disability of DSM-IV generalized anxiety disorder in the USA: Results from the National Epidemiologic Survey on Alcohol and Related Conditions
Tác giả: Grant BF, et al
Nhà XB: Psychological Medicine
Năm: 2005
27. John M. Hettema (2001), A Population-Based Twin Study of Generalized Anxiety Disorder in Men and Women. The journal of nervous and mental disease Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Population-Based Twin Study of Generalized Anxiety Disorder in Men and Women
Tác giả: John M. Hettema
Nhà XB: The journal of nervous and mental disease
Năm: 2001
32. Richar G. Heimberg (2004). Generalized Anxiety Disorder –Advances in reseach and practice, The Guilford Press, New York, pp. 16- 18,24,30,189-190, 265, 350-358, 368-370 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Generalized Anxiety Disorder –Advances in reseach and practice
Tác giả: Richar G. Heimberg
Nhà XB: The Guilford Press
Năm: 2004
33. Ronald C. Kessler (2005), Lifetime Prevalence and Age-of-Onset Distributions of DSM-IV Disorders in the National Comorbidity Survey Replication, Arch Gen Psychiatry. 2005;62:593-602 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lifetime Prevalence and Age-of-Onset Distributions of DSM-IV Disorders in the National Comorbidity Survey Replication
Tác giả: Ronald C. Kessler
Nhà XB: Arch Gen Psychiatry
Năm: 2005
34. Nguyễn Thị Hồng Thanh: Thực trạng chăm sóc người bệnh lo âu và trầm cảm tại Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương I năm 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng chăm sóc người bệnh lo âu và trầm cảm tại Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương I năm 2017
Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Thanh
Năm: 2017
35. Nguyễn Đức Tiến: Thực trạng chăm sóc người bệnh rối loạn lo âu lan toả tại Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương I năm 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng chăm sóc người bệnh rối loạn lo âu lan toả tại Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương I năm 2018
Tác giả: Nguyễn Đức Tiến
Năm: 2018
5. Bộ Y Tế số: 1895/1997/QĐ – BYT, Quyết định về việc ban hành Quy Chế bệnh viện Khác
28. Bộ Y Tế (2011), TT07/2011/TT-BYT hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện Khác
29. Julie Schulz et al (2005), The Diagnosis and Treatment of Generalized Anxiety Disorder, Clinical Focus, Primary Psychiatry 2005;12(11):58-67 30. Michael E.Portman (2009), Generalized anxiety disorder Across thelifepan, Springer, New York, pp. 1, 2,6,9,11,88,99 Khác
31. Michael G.Kavan (2009), Generalized Anxiety Disorder: Practical Assessment and Management, Am Fam Physician 2009;79(9):785-791.American Academy of Family Physicians Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN