ĐẶT VẤN ĐỀ Ối vỡ sớm là tình trạng màng ối bị rách và nước ối chảy ra ối vỡ xảy ra sau hoặc cùng lúc với chuyển dạ, trước khi cổ tử cung mở hết, chiếm từ 8% - 12% các trường hợp sinh và xảy ra thường nhất ở thai đủ ngày(lớn hơn hoặc bằng 37 tuần tuổi thai), khoảng 1% xuất hiện trước 31 tuần. Tất cả những yếu tố cản trở sự bình chỉnh tốt của ngôi thai đều có thể là nguyên nhân của ối vỡ như ngôi thai bất thường, khung chậu hẹp, nhau tiền đạo, đa thai, đa ối. Hở eo tử cung là nguyên nhân gây vỡ ối và sinh non liên tiếp. Viêm màng ối thường do nhiễm trùng ở âm đạo, âm hộ dẫn đến tính đàn hồi của màng ối thai đổi không còn chịu được áp lực cao trong buồng ối dẫn đến vỡ màng ối [20]. Vỡ ối sớm gây ra những nguy cơ như sa dây rốn, chèn ép rốn, nhau bong non, hội chứng suy hô hấp cấp, tăng nguy cơ sinh non nên làm tăng bệnh suất và tử suất cho thai nhi và ảnh hưởng có tính nguy hiểm đến sức khỏe của sản phụ. Ngoài ra ối vỡ sớm làm tăng nguy cơ nhiễm trùng cho mẹ và thai nhi tỉ lệ với thời gian ối vỡ sớm cho đến lúc sinh [20]. Từ thập kỷ 50 của thế kỷ trước, máy monitoring sản khoa đã được áp dụng để theo dõi sự thay đổi của nhịp tim thai trong thời kỳ thai nghén và trong chuyển dạ để phát hiện những bất thường trong quá trình mang thai. Từ khi được ứng dụng cho đến nay, người ta đều khẳng định vai trò to lớn của monitoring sản khoa trong theo dõi thai và đặc biệt trong lúc chuyển dạ. Lợi ích chính của monitoring sản khoa là đưa ra một cách nhanh chóng các chẩn đoán và tính chất nặng nhẹ của thai, cho phép có những quyết định lấy thai ra trước khi tình trạng thai diễn ra nặng nề hơn. Chính vì vậy mà ngày nay hầu hết các sản phụ đến khám thai ở 3 tháng cuối và chuyển dạ đều được theo dõi bằng monitoring sản khoa [15]. Có rất nhiều phân loại cardiotocography dựa trên các đặc điểm của đường biểu diễn tim thai: nhịp tim thai cơ bản, dao động nội tại, nhịp giảm, nhịp tăng… Hiện nay, phân loại được áp dụng nhiều trên thế giới là phân loại Cardiotocography thành ba nhóm của Hiệp hội sản phụ khoa Mỹ năm 2009 và có nhiều nghiên cứu đã cho thấy ý nghĩa của phân loại mới này trong chẩn đoán và tiên lượng tình trạng thai nhi [25]. Tại Việt Nam, vấn đề nghiên cứu nhịp tim thai qua Cardiotocography có ối vỡ sớm được thực hiện hầu hết tuyến trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện. Do vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm cardiotocography trong chuyển dạ ở thai đủ tháng có ối vỡ sớm” với hai mục tiêu: 1.Khảo sát đặc điểm cardiotocography trong chuyển dạ ở thai đủ tháng có ối vỡ sớm tại Bệnh viện Đại học Y - Dược Huế. 2.Nghiên cứu mối liên quan giữa Cardiotocography với kết quả kết thúc thai kỳ và đặc điểm trẻ sơ sinh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU
Biểu đồ 3.1 cho thấy phân bố tỷ lệ nhóm tuổi của thai phụ, trong đó nhóm tuổi 25-29 chiếm ưu thế với 72 trường hợp, tương đương 49,3% Nhóm thai phụ từ 30-34 tuổi chiếm 20,5%, trong khi chỉ có 3 trường hợp thai phụ từ 40 tuổi trở lên, chiếm 2,1% Tuổi trung bình của thai phụ là 27,94 ± 4,55 tuổi, với độ tuổi nhỏ nhất là 19 và lớn nhất là 44.
3.1.2 Nghề nghiệp của thai phụ
Bảng 3.1 Phân bố theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp Số lượng n Tỷ lệ %
Nhận xét: Phần lớn thai phụ là nghề tự do chiếm 48,6%, buôn bán, nội trợ chiếm 28,1%; công nhân là 21,2%, Chỉ có 2 CBCNV là 2,1%.
Bảng 3.2 Phân bố nơi cư trú của thai phụ
Nơi cư trú Số lượng n Tỷ lệ%
Nhận xét: Có 105 thai phụ ở nông thôn chiếm 71,9%, thành thị là
Bảng 3.3 Phân bố ối vỡ sớm theo số lần sinh
Số lần mang thai Số lượng n Tỷ lệ %
Nhận xét: 46,6% thai phụ mang thai lần 1, lần 2 là 34,2%, mang thai ≥ lần 3 (19,2%).
Bảng 3.4 Phân bố tuổi thai
Tuổi thai (tuần) Số lượng n Tỷ lệ %
X ± SD 38,76 ± 1,07 tuần, Min = 37 tuần, Max 41 tuần
Nhận xét: 60,9% thai phụ có tuổi thai là 39-40 tuần; > 40 tuần chỉ 2,1%.
Tuổi thai TB là 38,76 ± 1,07 tuần, tuổi thai nhỏ nhất 37 tuần, tuổi thai lớn nhất 41 tuần.
3.1.6 Phương pháp kết thúc thai kỳ
Bảng 3.5 Phương pháp kết thúc thai kỳ
Kết thúc thai kỳ Số lượng n Tỷ lệ%
62,3% thai phụ sinh thường và 37,7% sinh phẫu thuật, trong đó sinh do mổ suy thai chiếm cao nhất 21,3%, chuyển dạ đình trệ 9,6% khác (6,8%)
ĐẶC ĐIỂM CARDIOTOCOGRAPHY TRONG CHUYỂN DẠ Ở
THAI ĐỦ THÁNG CÓ ỐI VỠ SỚM
3.2.1 Các đặc điểm của CTG
Bảng 3.6 Đặc điểm NTTCB trên CTG Đặc điểm CTG Số lượng n Tỷ lệ %
NTTCB bình thường (110 – 160 nhịp/phút) chiếm 96,5%; NTCB chậm
< 110 nhịp/phút là 1,4%, và NTTCB nhanh >160 nhịp/phút chiếm 2,1%.
Bảng 3.7 Đặc điểm DĐNT trên CTG Đặc điểm CTG Số lượng n Tỷ lệ %
Nhận xét: DĐNT là 6 – 25 nhịp/phút chiếm 95,9% và ≤ 5 nhịp/phút là 4,1%
Bảng 3.8 Đặc điểm nhịp tăng, nhịp giảm trên CTG Đặc điểm CTG Số lượng n Tỷ lệ %
Nhịp tăng chiếm 55,5% Nhịp giảm có 9 trường hợp là NGBĐ chiếm
Biểu đồ 3.2 Phân loại CTG
Nhận xét: Phần lớn CTG là loại I chiếm 81,5% có 27 trường hợp loại II chiếm 18,5%.
Phân loại CTG Đặc điểm n Tỷ lệ %
NTTCB chậm o kèm theo mất DĐNT 2
DĐNT tối thiểu Nhịp giảm biến đổi với các đặc điểm khác
BÀN LUẬN
ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU
4.1.1 Tuổi của thai phụ Đa số thai phụ ở nhóm 25-29 tuổi với 79 trường hợp chiếm 49,3%; nhóm thai phụ 30-34 tuổi là 20,5%, chỉ 4 trường hợp thai phụ ≥ 40 tuổi (2,1%) Tuổi trung bình là 27,94 ± 4,55 tuổi, tuổi nhỏ nhất 19 tuổi, tuổi lớn nhất là 44 tuổi Nhóm tuổi 25-34 tuổi chiếm tỷ lệ cao (69,8%), đây là độ tuổi có tỷ lệ sinh sản cao nhất trong cộng đồng chung, nhóm tuổi này đã hoàn chỉnh về giải phẫu, chức năng sinh lý, tâm lý nên thích hợp để mang thai Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu về sản phụ mang thai đủ tháng của các tác giả trong và ngoài nước: Trương Thị Thanh Huyền (2015) kết quả ghi nhận ở nhóm 25-34 tuổi chiếm 61,2%, tuổi TB thai phụ là 27,6 ± 4,9 tuổi, nhỏ nhất 17 tuổi và lớn nhất 41 tuổi [12] Đặng Văn Pháp và cộng sự (2002) nghiên cứu trên 379 sản phụ có tuổi mẹ 27,23 ± 12 tuổi, tuổi lớn nhất 42 và nhỏ nhất 18 [17], [18], Hoàng Bảo Nhân và cộng sự (2013) khi nghiên cứu
Nghiên cứu về độ tuổi của sản phụ cho thấy 359 thai phụ mang thai đủ tháng có độ tuổi trung bình là 30,6 ± 6,5 tuổi Phan Thị Hồng Ngọc (2014) ghi nhận tuổi thai phụ trung bình là 2,7 ± 4,3 tuổi, với độ tuổi lớn nhất là 41 và nhỏ nhất là 19 Trong một nghiên cứu khác tại Đức với 816 thai phụ chuyển dạ vỡ ối sớm, Kehl S và cộng sự (2017) cũng xác định tuổi trung bình của thai phụ là 30,7 ± 5,2 tuổi.
4.1.2 Nghề nghiệp và nới cư trú của thai phụ
Nghề nghiệp thai phụ phân bố không đồng đều, phần lớn thai phụ là nghề tự do chiếm 48,6%, buôn bán, nội trợ chiếm 28,1%; công nhân là
Có 105 thai phụ ở nông thôn chiếm 71,9%, thành thị là 28,1%
4.1.3 Số lần mang thai (số lần sinh)
Theo thống kê, số thai phụ mang thai lần đầu chiếm tỷ lệ cao nhất với 46,6%, trong khi mang thai lần thứ hai là 34,2%, và mang thai từ lần thứ ba trở lên chỉ chiếm 19,2% Số lần sinh thấp nhất ghi nhận là 1 lần, trong khi số lần sinh cao nhất là 6 lần Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Phan Thị Hồng Ngọc (2014) tại Huế, cho thấy tỷ lệ sinh con đầu lòng đạt 68,5%, trong khi tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên chỉ là 6,7%, với số lần sinh nhiều nhất là 4 lần và ít nhất là 1 lần Những kết quả này phản ánh xu hướng xã hội hiện nay, khi các bà mẹ và gia đình thường chỉ sinh 1 đến 2 con, thể hiện sự thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình.
Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào thai phụ mang thai đủ tháng có dấu hiệu chuyển dạ, trong đó tỷ lệ thai phụ mang thai 39-40 tuần chiếm 60,9%, nhóm thai phụ 37-38 tuần chiếm 37,0% và nhóm trên 40 tuần chỉ chiếm 2,6% Tuổi thai trung bình là 38,76 ± 1,07 tuần, với tuổi thai nhỏ nhất là 37 tuần và lớn nhất là 41 tuần Kết quả này phù hợp với sinh lý mang thai và chuyển dạ, đồng thời nhất quán với nghiên cứu của Hoàng Bảo Nhân và cộng sự (2013), cho thấy tuổi thai trung bình là 40,0 ± 1,5 tuần.
Nghiên cứu của Lê Quang Vinh (2009) cho thấy tuổi thai trung bình là 39,7 ± 1,4 tuần Trong khi đó, Desai DS et al (2017) ghi nhận tuổi thai vượt quá 40 tuần Kehl S và cộng sự (2017) nghiên cứu 816 thai phụ chuyển dạ vỡ ối sớm tại Đức, cho kết quả tuổi thai trung bình là 39,4 ± 1,1 tuần Lee KA và Lee SM (2010) báo cáo tuổi thai trung bình là 40,2 ± 1,0 tuần Nghiên cứu của Kumari R trên 75 sản phụ cho thấy tuổi thai trung bình là 40,53 ± 1,48 tuần (95% CI: 40,19 - 40,80), trong khi một nghiên cứu khác tại Ấn Độ ghi nhận tuổi thai trung bình là 39,06 ± 1,23 tuần.
4.1.5 Phương pháp kết thúc thai kỳ
Theo kết quả nghiên cứu, 62,3% thai phụ sinh thường trong khi 37,7% sinh phẫu thuật, với tỷ lệ mổ do suy thai cao nhất là 13,6%, theo sau là chuyển dạ đình trệ 9,6% và mổ lấy thai 5,5% Nghiên cứu của Hoàng Bảo Nhân và cộng sự (2013) cho thấy 52,4% trong số 356 sản phụ mang thai đủ tháng có ối xanh được chỉ định mổ thai Andersen chỉ ra rằng tỷ lệ mổ lấy thai cao hơn khi chuyển dạ bắt đầu trong điều kiện cổ tử cung không thuận lợi (Bishop < 5) Đối với các trường hợp ối vỡ sớm, việc theo dõi tình trạng thai bằng monitoring sản khoa là cần thiết để xác định ngôi thai, tuổi thai và tình trạng dịch ối.
ĐẶC ĐIỂM CARDIOTOCOGRAPHY TRONG CHUYỂN DẠ Ở
4.2.1 Các đặc điểm của CTG
Nhịp tim thai nhi (NTTCB) bình thường dao động từ 110 đến 160 nhịp/phút, và ngoài giới hạn này thường liên quan đến bệnh lý Trong nghiên cứu của chúng tôi với 146 thai phụ chuyển dạ, NTTCB thay đổi đáng kể, với khoảng 96,5% (141 trường hợp) có NTTCB bình thường Theo y văn, sự thay đổi này có thể do sự chín muồi của hệ thống thần kinh tự động trong quá trình chuyển dạ, khi đầu thai nhi bị ép trong ống đẻ, làm tăng áp lực máu và kích thích trung tâm thần kinh, dẫn đến giảm nhịp tim Chúng tôi cũng ghi nhận 1,3% trường hợp nhịp chậm (< 110 nhịp/phút) và 5,8% nhịp nhanh (> 160 nhịp/phút) So với các nghiên cứu khác, NTTCB bình thường trong nghiên cứu của Đặng Văn Pháp là 93,41%, trong khi Phan Thị Hồng Ngọc ghi nhận 8,6% nhịp chậm và 10,5% nhịp nhanh Nghiên cứu của Desai DS et al (2017) cho thấy 6,61% trường hợp nhịp chậm và 40,44% nhịp nhanh trong số 136 thai phụ.
+ Dao động nội tại (DĐNT):
Theo nghiên cứu của chúng tôi trên 146 thai phụ trong quá trình chuyển dạ, nhịp tim thai có độ dao động nhịp tim (DĐNT) chủ yếu nằm trong khoảng từ 6 đến 25 nhịp/phút, chiếm tỷ lệ cao nhất là 95,9% Trong khi đó, nhóm có DĐNT tối thiểu chỉ chiếm 4,1%.
DĐNT được coi là nhịp tim thai không đều nhưng vẫn nằm trong giới hạn bình thường, phản ánh sự cân bằng giữa hệ giao cảm và phó giao cảm Tần số nhịp tim thai và biên độ dao động của nó cho biết tình trạng chức năng tim mạch và khả năng đáp ứng của thai nhi trong chuyển dạ Theo y văn, dao động từ 5 - 15 nhịp/phút là dấu hiệu khả quan về lượng O2 trong máu và dự trữ mô của thai nhi Nếu DĐNT giảm xuống dưới 3 nhịp/phút, có thể do trung tâm thần kinh bị ức chế hoặc thiếu O2 Trong nghiên cứu của chúng tôi, khoảng 5,8% DĐNT dưới 5 nhịp/phút, có thể do thai ngũ Khi có cơn co tử cung, nếu không can thiệp kịp thời, thai có thể rơi vào tình trạng suy, dẫn đến nhịp tim giảm nặng Nghiên cứu cho thấy DĐNT từ 5-10 nhịp/phút trong giai đoạn tiềm tàng chiếm 60,40% và 58,42% trong giai đoạn hoạt động, cho thấy đây có thể là hiện tượng bình thường ở thai đủ tháng khi các yếu tố nguy cơ đã được loại bỏ.
(2014) cho thấy DĐNT tối thiểu (≤ 5 nhịp/phút) chiếm 23,8%, không có DĐNT (2,9%) [15]; Desai DS et al (2017), kết quả nghiên cứu ghi nhận DĐNT chậm là 30,88%, [42]
Nhịp động điện tim (DĐNT) bất thường có thể dự đoán tình trạng thai suy Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy khi DĐNT dưới 5 nhịp/phút, đây thường là dấu hiệu của thai suy nặng hoặc thai chết, vì lúc này tình trạng thiếu oxy đã gây tổn thương nghiêm trọng đến hệ thần kinh trung ương.
Khi nhịp thai tăng xuất hiện trên máy monitoring sản khoa, đây là dấu hiệu tích cực cho thấy thai nhi đang phản ứng tốt với các cử động của mình hoặc sự co bóp của tử cung Ngược lại, việc không có nhịp tăng không nhất thiết là dấu hiệu xấu, đặc biệt khi không kèm theo các nhịp khác.
Theo bảng 3.6, có 62,3% thai phụ ghi nhận nhịp tăng, trong khi một số nghiên cứu khác, như của Phan Thị Hồng Ngọc (2014), cho thấy tỷ lệ này là 63,8%[15]; nghiên cứu của Desai DS và cộng sự cũng hỗ trợ kết quả tương tự.
(2017), kết quả nghiên cứu cho thấy nhịp tăng chiếm 67,74% [42]
Khi phân tích tim thai trên CTG, cần đánh giá các dạng nhịp tim như NTTCB, độ DĐNT, nhịp tăng và nhịp giảm Đặc biệt, nhịp giảm trong NGBĐ cần được phân tích kỹ lưỡng về biên độ và thời gian, vì đây là dạng tim thai bất thường thường gặp trong chuyển dạ, chiếm tỉ lệ cao nhất trong các biểu đồ nhịp tim thai liên tục bất thường Kết quả ghi nhận có 22 trường hợp NGBĐ, chiếm 14,3%.
Kết quả Phan Thị Hồng Ngọc (2014) ghi nhận NGBĐ chiếm 46,7%[15]; Desai DS et al (2017), kết quả cho thấy NGBĐ là 2,20% [42]
Nhịp giảm biến đổi thường quy cho chèn ép rốn có thể xảy ra một phần hoặc toàn bộ Sự kết hợp giữa nhịp giảm biến đổi, giảm dao động nội tại và tim thai nhanh tương đối, trong khi không có nhịp tăng, thường liên quan đến hội chứng hít phân su.
Dựa vào các hình ảnh CTG, bao gồm nhịp tim thai cơ bản, dao động nội tại, nhịp tăng và nhịp giảm (DIP 1, DIP 2, DIP 3), cũng như nhịp giảm kéo dài và nhịp tim thai hình sin, CTG được phân loại thành 3 nhóm theo tiêu chuẩn của ACOG (2009).
Kết quả chúng tôi ghi nhận loại I và II đáp ứng theo yếu cầu của ACOG
(2009) Ở biểu đồ 3.2 cho thấy 84,9% thai phụ (124 trường hợp) CTG là loại
I, và 22 trường hợp loại II chiếm 15,1% Phan Thị Hồng Ngọc (2014) kết quả ghi nhận CTG loại II chiếm đa số 97,1%; CTG loại III chỉ chiếm 2,9% [15]. Hoàng Bảo Nhân, Nguyễn Vũ Quốc Huy (2012) ghi nhận CTG bất thường chiếm 32,6% và bình thường thường 67,4% [16] Một nghiên cứu mô tả cắt ngang trên thai phụ đủ tháng có ối xanh tại Ấn Độ đã ghi nhận kết quả: CTG loại I chiếm 63%, loại II chiếm 25% và loại III là 12 % [43] Kumari R (2012) ghi nhận với CTG loại I là 30,7%, loại II chiếm 52,0% và loại III là 17,3% [49]. Chứng tỏ rằng với tất cả các kết quả nghiên cứu trên cho thấy CTG loại III rất hiếm gặp.
+ Tính chất nước ối và thời gian ối vỡ
Theo dữ liệu, hầu hết thai phụ đến viện với lý do vỡ ối tại nhà trong thời gian < 6 giờ, với 94,2% trường hợp vỡ ối ≤ 6 giờ Kết quả cho thấy 96,0% trường hợp có nước ối trong và 5% có màu xanh nhạt Trong số 21 trường hợp vỡ ối ≤ 6 giờ, 100% có màu sắc ối trong Màu sắc nước ối thay đổi theo thời gian vỡ ối, tuy nhiên có những trường hợp ngôi ngược với nước ối xanh do lẫn phân su của thai nhi Đối với trường hợp vỡ ối > 6 giờ kèm theo dấu hiệu nhiễm trùng như sốt (nhiệt độ ≥ 38°C) và bạch cầu tăng, cần xem xét khả năng nhiễm trùng ối và sử dụng kháng sinh ngay khi nhập viện, có thể xem xét chấm dứt thai kỳ nếu thai đủ tuổi.
Nghiên cứu của Nguyễn Phi Anh cho thấy tỷ lệ ối vỡ ≤ 6 giờ đạt 72,41% (147/203), trong đó màu sắc ối chủ yếu là trong suốt với 85,03%, và màu xanh chỉ chiếm 14,97% Đối với trường hợp ối vỡ > 6 giờ, tỷ lệ nước ối trong chiếm 23,56% Kết quả này cho thấy đối tượng nghiên cứu có tỷ lệ bình thường cao hơn bất thường.
LIÊN QUAN GIỮA CARDIOTOCOGRAPHY VỚI CÁC YẾU TỐ KHÁC
4.3.1 Liên quan giữa CTG và tình trạng ối vỡ sớm
Nước ối đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển của thai nhi, bao gồm bảo vệ, điều hòa nhiệt độ và hỗ trợ sản khoa Nó bảo vệ thai nhi khỏi chấn thương bên ngoài, cung cấp môi trường dinh dưỡng và giúp bài tiết chất thải Nước ối cũng duy trì thân nhiệt cho thai nhi trong tử cung, cho phép thai nhi dễ dàng điều chỉnh vị trí và quay trong tử cung Trong quá trình chuyển dạ, nước ối giúp hình thành đầu ối, tạo điều kiện cho cổ tử cung mở rộng dễ dàng và hỗ trợ quá trình sinh nở diễn ra nhanh chóng.
Thể tích nước ối tăng lên trong suốt thai kỳ, đạt đỉnh khoảng 1000 ml ở tuần 35-36, sau đó giảm dần còn khoảng 800 ml ở tuần 40 Số lượng nước ối được đánh giá qua siêu âm bằng chỉ số nước ối (AFI), với AFI bình thường từ 5-25 cm Giảm nước ối có thể gây nguy cơ thai suy, tăng thải phân su vào buồng ối, và trẻ sơ sinh có nguy cơ tiếp xúc hoặc hít phải nước ối khi sinh Sự giảm thể tích nước ối ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi, được phản ánh qua CTG Do đó, việc theo dõi cẩn thận chỉ số nước ối và CTG là cần thiết để can thiệp kịp thời, nhằm giảm tỉ lệ tử vong cu sản và tỉ lệ mắc bệnh ở trẻ sơ sinh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi CTG loại II chiếm 59,1% cao hơn loại
Trong nghiên cứu của Phan Thị Hồng Ngọc, tỷ lệ CTG loại I ở nhóm chỉ số nước ối (AFI < 5 cm) là 50,0%, trong khi đó tỷ lệ CTG loại I ở nhóm chỉ số nước ối AFI ≥ 5 cm là 40,9% Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, cho thấy CTG loại I cao hơn CTG loại II trong nhóm có nước ối đủ.
Nghiên cứu năm 2014 cho thấy chỉ có CTG nhóm II và III, với tỉ lệ nước ối (AFI < 5 cm) đạt 13,3% Cụ thể, tỉ lệ này là 12,5% ở nhóm CTG loại II và 33,3% ở nhóm CTG loại III [15].
4.3.2 Liên quan giữa CTG và màu sắc nước ối
Khi thai đủ tháng, nước ối thường có màu lờ lờ trắng, trong suốt như nước dừa hoặc chỉ hơi đục Sự xuất hiện của phân su trong nước ối, thường có màu xanh đậm, là dấu hiệu phổ biến trong sản khoa Màu sắc của nước ối có thể thay đổi, từ xanh đặc, xanh loãng, đến vàng xanh hoặc vàng như nước dưa cải, tùy thuộc vào thời điểm phân su được thải vào buồng ối, do quá trình thoái hóa các thành phần trong phân su.
Theo bảng 3.10, màu nước ối trong nhóm CTG loại I chiếm 98,4%, cao hơn so với nhóm CTG loại II là 72,7% Ngược lại, tỷ lệ màu xanh nhạt ở nhóm CTG loại II là 22,7%, vượt trội hơn so với chỉ 1,6% ở loại I Đặc biệt, chỉ có 4,6% mẫu nước ối của nhóm CTG loại II có màu xanh đặc, trong khi nhóm CTG loại I hoàn toàn không có màu xanh đặc.
Nghiên cứu của Phan Thị Hồng Ngọc (2014) trên 105 thai phụ có CTG bất thường cho thấy, nhóm nước ối trong chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,8%, trong khi nhóm nước ối xanh đen chỉ chiếm 5,7%.
Trong CTG loại II, tỉ lệ nước ối trong chiếm 46,1%, trong khi tỉ lệ nước ối xanh đen chỉ đạt 4,9% Đối với CTG loại III, nước ối xanh đặc chiếm ưu thế với 66,7%, còn nước ối xanh đen chiếm 33,3%.
Hoàng Bảo Nhân và Nguyễn Vũ Quốc Huy (2012) ghi nhận rằng 32,6% trường hợp có CTG bất thường, trong đó nhóm có nước ối màu xanh đặc chiếm 58,8% CTG loại I là phổ biến nhất với tỷ lệ 67,4% Nghiên cứu đã đề xuất một số mô hình dự báo tình trạng nhiễm toan ở trẻ sơ sinh có nước ối xanh kết hợp với CTG bất thường, trong đó CTG loại III trong nhóm ối xanh cho phép dự báo nhiễm toan với độ chính xác 96,4% (p < 0,01) Ngoài ra, nước ối xanh đặc kết hợp với CTG loại II cũng cho thấy khả năng dự báo tình trạng nhiễm toan với độ chính xác 93,3% (p < 0,05).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ CTG bất thường cao ở nhóm sản phụ có ối lẫn phân su, tuy nhiên, sự hiện diện CTG bất thường trong nhóm này không đủ để dự đoán tình trạng sức khỏe của thai nhi Nghiên cứu của Naveen S tại Ấn Độ năm 2006 ghi nhận tỉ lệ CTG bất thường lên đến 27%, cao hơn so với nhóm có ối trong Tương tự, Balchin I và cộng sự cũng phát hiện tỉ lệ CTG bất thường ở nhóm ối lẫn phân su cao hơn 2,22 lần so với nhóm chứng (95% CI: 2,17 - 2,07).
Các nghiên cứu trước đây về thai kỳ có nước ối lẫn phân su thường không phân nhóm như nghiên cứu của chúng tôi, mà thay vào đó, họ phân loại theo tính chất của phân su trong nước ối Cụ thể, các tác giả chia thành các mức độ như loãng, trung bình, và đặc hoặc phân thành ba mức độ I, II và III Một số nghiên cứu chỉ phân thành hai nhóm chính là phân su đặc và loãng.
Theo nghiên cứu của Anald RS (2016) với 206 thai phụ, 61% có tình trạng bình thường (Cat-I), 14,5% có nghi ngờ hoặc không xác định (Cat-II), và 24% có dấu hiệu bất thường (Cat-III) Trong số này, 144 trường hợp (69,9%) có nước ối trong, trong khi 62 trường hợp (31,1%) có nước ối phân su, bao gồm 36 ca (17,47%) có đặc điểm phân su rõ ràng.
4.3.3 Liên quan giữa Apgar và CTG
Dựa trên các đặc điểm của nhịp tim thai cơ bản (NTTCB) và diễn biến nhịp tim (DĐNT), CTG được phân loại theo ACOG 2009 thành ba nhóm: loại I (bình thường), loại II (nghi ngờ) và loại III (bệnh lý) Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ tập trung vào hai loại là I và II.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa điểm APGAR và nhịp tim thai cơ bản (NTTCB) trên CTG Cụ thể, điểm APGAR trung bình là 9,15 ± 0,95, với điểm thấp nhất là 7 và cao nhất là 10 Đối với nhóm có điểm APGAR từ 7-8, tỷ lệ NTTCB chậm là 3,8% và NTTCB nhanh là 5,8% Trong khi đó, nhóm có điểm APGAR 9-10 hoàn toàn có NTTCB bình thường, đạt 100%.
Nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa điểm APGAR và diễn biến nhịp tim (DĐNT) trên biểu đồ CTG Cụ thể, trong số các thai phụ có điểm APGAR từ 7-8, có 11,5% trường hợp ghi nhận DĐNT bất thường (≤ 5 nhịp/phút), trong khi không có trường hợp nào bất thường ở nhóm có điểm APGAR từ 9-10, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p