NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NHTM
Tổng quan về NHTM và hoạt động tín dụng của NH
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11, ngân hàng thương mại được định nghĩa là tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh liên quan Hoạt động ngân hàng bao gồm kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, với các nội dung chủ yếu như nhận tiền gửi, cấp tín dụng từ số tiền này và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Theo Frederic S Mishkin, ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian tài chính nhận tiền gửi từ cá nhân và tổ chức để cho vay NHTM thu hút vốn chủ yếu qua các hình thức tiền gửi có thể phát séc, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn Số tiền này sau đó được sử dụng để cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp, cũng như để đầu tư vào các chứng khoán Chính phủ và trái khoán của chính quyền địa phương.
Theo Peter S.Rose, NHTM là tổ chức tài chính cung cấp đa dạng dịch vụ tài chính, bao gồm tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán NHTM thực hiện nhiều chức năng tài chính hơn bất kỳ tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò là định chế tài chính trung gian quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường, hoạt động như kênh dẫn vốn gián tiếp lớn nhất, kết nối người thừa vốn với người cần vốn NHTM đáp ứng nhu cầu về vốn đa dạng của mọi tầng lớp dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội.
• Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng nhận tiền gửi từ công chúng, doanh nghiệp và tổ chức, giữ tiền cho khách hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền của họ Chức năng này không chỉ là cơ sở để ngân hàng thực hiện vai trò trung gian thanh toán mà còn tạo nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động trung gian tín dụng Khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng không chỉ được đảm bảo an toàn cho tài sản mà còn nhận được lợi tức, mặc dù vẫn có nguy cơ mất khả năng thanh toán từ phía ngân hàng.
• Chức năng trung gian thanh tóan
Ngân hàng đóng vai trò là trung gian thanh toán khi thực hiện các giao dịch theo yêu cầu của khách hàng, bao gồm việc trích tiền từ tài khoản tiền gửi để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ, cũng như nhập tiền thu từ bán hàng và các khoản thu khác vào tài khoản tiền gửi của khách hàng theo lệnh của họ.
Chức năng trung gian thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế, giúp tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo an toàn trong thanh toán Khách hàng có thể lựa chọn hình thức thanh toán nhanh chóng và hiệu quả, từ đó thúc đẩy tốc độ lưu thông hàng hóa và luân chuyển vốn Hơn nữa, việc cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chất lượng cao không chỉ nâng cao uy tín của Ngân hàng mà còn thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong việc trung gian thanh toán, thực hiện chức năng như một thủ quỹ cho xã hội Việc nhận tiền gửi và quản lý các giao dịch thu chi trên tài khoản của khách hàng là nền tảng để ngân hàng thực hiện nhiệm vụ này một cách hiệu quả.
• Chức năng làm trung gian tín dụng
Ngân hàng hoạt động như một trung gian tín dụng, kết nối người có vốn dư thừa với người cần vốn Bằng cách huy động các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng tạo ra quỹ cho vay chủ yếu dành cho các khoản vay ngắn hạn Với vai trò này, ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Thông qua vai trò trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại (NHTM) đã mang lại lợi ích cho cả người gửi tiền, ngân hàng và người vay, đồng thời góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững cho nền kinh tế.
Người gửi tiền có thể hưởng lợi từ lãi suất trên số vốn tạm thời nhàn rỗi của mình, trong khi ngân hàng đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp dịch vụ thanh toán tiện lợi cho khách hàng.
Người vay có thể đáp ứng nhu cầu kinh doanh, chi tiêu và thanh toán một cách hiệu quả mà không tốn nhiều sức lực và thời gian để tìm kiếm nguồn vốn hợp pháp và tiện lợi.
Ngân hàng thương mại (NHTM) kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi, hoặc từ hoa hồng môi giới, tạo nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của mình Chức năng này không chỉ quan trọng đối với NHTM mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách đáp ứng nhu cầu vốn, đảm bảo quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục và mở rộng quy mô sản xuất NHTM chuyển đổi vốn nhàn rỗi thành vốn hoạt động, kích thích luân chuyển vốn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Các ngân hàng thương mại đóng vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa Với chức năng trung gian tín dụng, các ngân hàng đã huy động vốn từ nền kinh tế và các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế.
Các ngân hàng đã khai thác sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế, giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa Việc đưa các khoản tiền tiết kiệm nhàn rỗi vào hoạt động kinh tế đã tạo ra sự chuyển động linh hoạt, trở thành "chất dầu bôi trơn" cho bộ máy kinh tế.
Những vấn đề cơ bản về nợ xấu tại NHTM
Hoạt động tín dụng là hoạt động đặc trưng của NHTM Bắt đầu từ các quan hệ tín dụng mà hình thành nên “nợ”.
Nợ trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) được định nghĩa là các khoản phải trả, bao gồm cả gốc và lãi, từ doanh nghiệp và cá nhân Đây là tài sản và tiền mà các đơn vị này đã cam kết vay từ NHTM để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình.
Phân loại nợ là quá trình sắp xếp các khoản nợ thành từng nhóm dựa trên các tiêu chí nhất định, với hai phương pháp phổ biến hiện nay là định tính và định lượng Theo thông tư 09/2014/TT-NHNN, quy định về phân loại tài sản có, mức trích và phương pháp trích lập dự phòng rủi ro, việc phân loại nợ trong hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quy định rõ ràng.
Phân loại nợ theo phương pháp định lượng: a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày mà tổ chức tín dụng đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi sẽ được xem xét khả năng thu hồi gốc và lãi đúng hạn còn lại.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1. b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện hồ sơ đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, đặc biệt là đối với doanh nghiệp và tổ chức Việc này đảm bảo khách hàng có khả năng thanh toán đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2. c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3. d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4. e) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.
Thời gian quá hạn của nợ chỉ là một tiêu chí phân loại nợ, và các ngân hàng thương mại (NHTM) có quyền chủ động phân loại nợ theo khả năng trả nợ Phân loại nợ theo phương pháp định lượng rõ ràng và có thể áp dụng đồng nhất, nhưng tiêu chí này đôi khi không phản ánh đầy đủ mức độ rủi ro Do đó, phương pháp phân loại nợ định tính được áp dụng dựa trên xếp hạng tín dụng nội bộ của từng NHTM, được phê duyệt bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Phân loại nợ theo phương pháp định tính
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được các tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn Các khoản nợ này được các tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro, trong đó rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro cơ bản nhất Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, dẫn đến việc khoản nợ trở thành nợ quá hạn Khi nợ quá hạn đạt đến một mức độ nhất định, nó sẽ được phân loại là nợ xấu Theo thông tư 09/2014/TT-NHNN sửa đổi từ thông tư 02/2014/TT-NHNN, nợ xấu được định nghĩa là những khoản nợ thuộc nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5.
Nợ từ nhóm 3 trở xuống bao gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc trả gốc trên
90 ngày, đồng thời mỗi NHTM cũng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng mà hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Như vậy, đối với Việt Nam nợ xấu căn cứ trên hai yếu tố: i Nợ quá hạn trên 90 ngày. ii Khả năng trả nợ không đảm bảo.
Theo định nghĩa của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc, nợ xấu được xác định khi khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày, hoặc khi lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được cộng vào gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận Ngoài ra, các khoản phải thanh toán quá hạn dưới 90 ngày cũng có thể được coi là nợ xấu nếu có lý do rõ ràng để nghi ngờ khả năng thanh toán đầy đủ của khoản vay.
1.2.2 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hoạt động tín dụng
1.2.2.1 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng
Khách hàng cá nhân: Các nguyên nhân làm nguồn thu giảm đều gây ra khó khăn cho việc trả nợ của khách hàng.
• Khách hàng bị thất nghiệp do sự cố bất ngờ làm nguồn thu giảm.
• Do không dự tính được các khoản chi phí phát sinh bất thường trong tương lai.
• Khách hàng có những sự cố bất ngờ như đột ngột qua đời, bệnh tật.
• Khách hàng có hành vi cố ý lừa gạt, chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.
• Thu nhập của khách hàng không ổn định.
Ban lãnh đạo gặp nhiều yếu kém trong khả năng lãnh đạo và năng lực điều hành, dẫn đến việc định hướng kinh doanh và chính sách không phù hợp trong từng giai đoạn.
Doanh nghiệp đang đối mặt với tình hình tài chính yếu kém, với nhiều rủi ro tiềm ẩn Cơ cấu nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao, trong khi nguồn thu không đủ để bù đắp chi phí, khiến doanh nghiệp rơi vào thế bị động trong việc thanh toán nợ đến hạn với ngân hàng.
• Kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng chưa tốt, không theo kịp thị trường, không dự báo trước được những biến động cung cầu trong tương lai
Khách hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro, thường phải đối mặt với những biến động không thể dự đoán, dẫn đến khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng bị ảnh hưởng.
• Sự không minh bạch trong cung cấp thông tin khi cung cấp hồ sơ cũng như trong quá trình sử dụng vốn.
• Doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn, khoản phải thu tăng cao nhưng không có biện pháp thu hồi.
• Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, chủ tâm lừa đảo, cố ý gian lận trong việc chi trả các khoản nợ.
1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía Ngân hàng
Thứ nhất, do vấn đề lựa chọn đối nghịch của ngân hàng
Ngân hàng đưa ra quyết định cho vay dựa vào hồ sơ xin vay và thông tin tín dụng từ bên ngoài, nhưng thường gặp khó khăn trong việc phát hiện những thông tin mà khách hàng có thể che giấu Điều này dẫn đến việc cho vay nhầm đối tượng, đặc biệt là những khách hàng có danh mục đầu tư rủi ro cao Khi những khách hàng này gặp khó khăn tài chính, khả năng thu hồi khoản vay của ngân hàng trở nên khó khăn hơn.
Vấn đề này xảy ra là do:
Chính sách tín dụng lỏng lẻo và quy trình quản lý không chặt chẽ của ngân hàng, cùng với việc thiếu sự phân tách trách nhiệm rõ ràng, đã dẫn đến việc các chuyên viên tín dụng nới lỏng tiêu chuẩn cho vay Điều này, kết hợp với áp lực chỉ tiêu, đã làm gia tăng nhanh chóng các khoản nợ xấu.
Những nội dung cơ bản về phòng ngừa và xử lý nợ xấu
1.3.1 Các biện pháp phòng ngừa nợ xấu a Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp ngân hàng phân tích và đánh giá khách hàng để đưa ra quyết định cho vay Việc thu thập và phân tích thông tin, cũng như đánh giá thái độ trả nợ của khách hàng, là cần thiết để hạn chế nợ xấu gia tăng Do đó, xây dựng chính sách và quy trình tín dụng hợp lý, khoa học là yếu tố then chốt trong quản lý rủi ro tín dụng.
Chính sách tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, do đó cần thiết lập một chính sách đồng bộ và thống nhất trong một khoảng thời gian cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế Việc tránh đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau trong thời gian ngắn là cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả Hơn nữa, xây dựng quy trình tín dụng hợp lý và khoa học theo từng giai đoạn phát triển sẽ giúp hoạt động tín dụng diễn ra trôi chảy Cuối cùng, việc thực hiện quy trình tín dụng chặt chẽ và tuân thủ đúng các quy định về đảm bảo tín dụng là điều không thể thiếu.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy cần phân định rõ trách nhiệm trong phán quyết tín dụng và hạn mức phán quyết cho cán bộ tín dụng cũng như các chức danh quản lý Các cán bộ tín dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định trong chính sách và sổ tay tín dụng Đồng thời, ngân hàng cần tăng cường kiểm tra và kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng, giám sát chặt chẽ các khoản vay đã được tài trợ, phát hiện sớm các khoản vay có dấu hiệu rủi ro và kịp thời chấn chỉnh sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ Ngoài ra, việc xây dựng giới hạn tín dụng cho các nhóm đối tượng khách hàng khác nhau cũng rất quan trọng.
Mỗi nhóm khách hàng có mức độ rủi ro riêng, vì vậy việc thiết lập giới hạn tín dụng phù hợp cho từng nhóm là rất quan trọng.
Tổng mức dư nợ cấp tín dụng cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài Đối với tổng mức dư nợ cấp tín dụng cho một khách hàng cùng với người có liên quan, giới hạn này không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Tổng mức dư nợ cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đầu tư và kinh doanh cổ phiếu không được vượt quá 5% vốn điều lệ hoặc vốn được cấp Đồng thời, các ngân hàng cần thực hiện đúng quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro Phân loại nợ phải được thực hiện ngay khi khoản tín dụng phát sinh và được đánh giá lại định kỳ theo quy định Việc trích lập dự phòng cho mỗi khoản vay cần tuân theo nguyên tắc trích lập dự phòng cụ thể và trích lập dự phòng chung.
Số tiền dự phòng cụ thể phải trích đối với từng khách hàng được tính theo công thức sau: n
R: Tổng số tiền dự phòng cụ thể phải trích của từng khách hàng. n
∑R ι : là tổng số tiền dự phòng cụ thể của từng khách hàng từ số dư nợ thứ 1 đến
Ri là số tiền dự phòng cần thiết mà mỗi khách hàng phải trích ra cho số dư nợ gốc của khoản nợ thứ i Số tiền này được xác định theo một công thức cụ thể.
A i : Số dư nợ gốc thứ i.
Giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm cho khoản nợ thứ i được ký hiệu là C i, bao gồm cả tài sản cho thuê tài chính Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể cho nhóm tài sản này được quy định tại khoản 2 của Điều này.
Trường hợp Ci > Ai thì Ri được tính bằng 0.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như sau: a) Nhóm 1: 0%. b) Nhóm 2: 5%. c) Nhóm 3: 20%. d) Nhóm 4: 50%. đ) Nhóm 5: 100%.
Số tiền dự phòng chung phải trích là 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 Đồng thời, cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên môn cao là yếu tố then chốt giúp nâng cao hiệu quả phân tích và thẩm định tín dụng, từ đó đưa ra quyết định cho vay chính xác và chất lượng Các cán bộ tín dụng cần được đào tạo hệ thống, am hiểu sâu về chuyên môn, thị trường và các quy định pháp luật liên quan Đặc biệt, việc trau dồi đạo đức nghề nghiệp và liêm khiết trong công việc cũng cần được chú trọng để đảm bảo uy tín và chất lượng dịch vụ tín dụng.
1.3.2 Các biện pháp xử lý nợ xấu a Tăng mức trích lập dự phòng
Các ngân hàng đang chủ động tăng mức trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thậm chí thua lỗ để nhanh chóng bù đắp tổn thất và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp Hành động này cũng có thể dẫn đến việc giảm quỹ lương nhưng lại nâng cao khả năng tài chính nội tại của ngân hàng Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng doanh nghiệp, sau khi phân tích tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá rằng khách hàng có khả năng phát triển để thanh toán nợ, ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp tái cơ cấu doanh nghiệp.
Đề xuất xử lý nợ xấu thông qua giải pháp cấu trúc lại chỉ áp dụng cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và 4, cũng như đối với khách hàng vẫn duy trì mối quan hệ với ngân hàng Ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp cơ cấu lại nợ, trong đó điều chỉnh kỳ hạn nợ là phương pháp phổ biến, thường được thực hiện bằng cách hoãn hoặc giảm số tiền gốc phải thanh toán trong kỳ hạn trả nợ.
Gia hạn nợ là giải pháp giúp khách hàng giảm bớt áp lực trong việc trả nợ, hỗ trợ họ trong quá trình kinh doanh Ngân hàng có thể xem xét việc cấp thêm tín dụng để giúp khách hàng vượt qua khó khăn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hồi các khoản nợ trước đó.
Giảm hoặc miễn một phần nợ vay có thể được áp dụng tùy thuộc vào thiện chí trả nợ của khách hàng và các quy định của Nhà nước cũng như từng Ngân hàng Việc này đồng nghĩa với việc Ngân hàng chấp nhận hy sinh một phần doanh thu để thu hồi vốn đã cho vay Ngoài ra, chuyển nợ quá hạn và nợ xấu thành cổ phần cũng là một giải pháp khả thi.
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm
1.4.1 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới
1.4.1.1 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc
Sau 10 năm phát triển liên tục với tăng trưởng GDP thực tế vào khoảng 8%/năm, dòng chảy thương mại tăng 12%/năm, Trung Quốc đã thực sự trở thành một con rồng châu Á Tuy nhiên, hệ thống tài chính của nước này chưa phát triển tương xứng với nhiều yếu kém tồn tại nhiều năm trời trong ngành Ngân hàng, với tổng giá trị cho vay nợ chiếm 150% GDP, trong đó có tới 40% là các khoản vay không hiệu quả.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với hệ thống ngân hàng của Trung Quốc, thúc đẩy quốc gia này quyết tâm xử lý các khoản nợ xấu Quá trình xử lý nợ xấu tại Trung Quốc có thể được chia thành ba giai đoạn chính.
Trung Quốc đã bắt đầu tái cấu trúc hệ thống tài chính từ giữa những năm 1990, tách biệt cho vay chính sách và cho vay thương mại thông qua việc thành lập ba ngân hàng chính sách chuyên trách xử lý các khoản vay này Đồng thời, các ngân hàng thương mại tại Trung Quốc cũng áp dụng phương pháp phân loại nợ thành năm nhóm theo tiêu chuẩn của BIS.
4 nhóm như trước đây, thực hiện phê duyệt tín dụng một cách độc lập với ít can thiệp hành chính từ phía cơ quan Nhà nước.
Trong giai đoạn 1999 - 2003, đã có bốn công ty quản lý tài sản (AMC) được thành lập với sự tài trợ của Nhà nước, mỗi công ty đảm nhận một vai trò cụ thể trong việc quản lý và xử lý tài sản.
Bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn chiếm tới 70% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhằm giải quyết các khoản nợ xấu tồn đọng trước năm 1996 Các khoản nợ xấu đã được chuyển giao với giá trị sổ sách từ bốn ngân hàng này cho bốn công ty quản lý tài sản (AMC) trong giai đoạn 1999 - 2000 Trách nhiệm của bốn AMC là xử lý hoàn toàn các khoản nợ xấu trong vòng 10 năm.
Trung Quốc đang tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước thông qua việc thu hút nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và niêm yết công khai, nhằm nâng cao tính minh bạch và quản trị của bốn ngân hàng lớn Tính đến cuối năm 2004, bốn công ty quản lý tài sản (AMC) đã thu hồi 675 tỷ NDT, tương đương 40% giá trị nợ xấu chuyển giao từ năm 1999 Tuy nhiên, tỷ lệ thu hồi tiền mặt của các AMC chỉ đạt khoảng 20%, thấp hơn so với 49% của Thái Lan và 20-30% của Nhật Bản, chủ yếu do chất lượng tài sản kém, quy định mua lại nợ xấu theo giá trị sổ sách và sự thiếu minh bạch trong hoạt động của các AMC.
Kết quả xử lý nợ xấu đã cải thiện chất lượng tài sản tại 4 ngân hàng thương mại nhà nước và giúp họ niêm yết công khai sau khi tái cơ cấu vốn Tuy nhiên, các khoản nợ xấu vẫn tồn tại trong hệ thống tài chính Trung Quốc, chỉ chuyển giao giữa các tổ chức mà không giảm thiểu được các nguy cơ tiềm ẩn đối với hệ thống tài chính này.
1.4.1.2 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Hàn Quốc
Trong giai đoạn từ 1980 đến đầu những năm 1990, Hàn Quốc ghi nhận sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng với GDP trung bình tăng 9% mỗi năm Tuy nhiên, sự tăng trưởng này dẫn đến đầu tư quá mức, khiến 20 trong số 30 tập đoàn lớn nhất có tỷ lệ chi phí vốn đầu tư vượt quá lợi nhuận vào năm 1996 Dù lợi nhuận thấp, doanh nghiệp vẫn tiếp tục vay vốn do ảnh hưởng của chính phủ trong việc cấp phát tín dụng Ngành ngân hàng đối mặt với rủi ro lớn khi quá trình tự do hóa chưa được hỗ trợ bởi khung pháp lý hoàn chỉnh, dẫn đến việc các ngân hàng nước ngoài vay ngắn hạn bằng ngoại tệ để tài trợ cho các khoản vay dài hạn bằng nội tệ, gây ra bất cân xứng trong hệ thống Tình hình nợ xấu gia tăng, từ 7,4% năm 1997 lên 8,3% năm 1998, và tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu của các tập đoàn lớn vượt 500% Trước tình hình này, Chính phủ Hàn Quốc đã can thiệp nhanh chóng và toàn diện để ổn định thị trường, với chương trình xử lý nợ xấu đạt được thành công trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu và duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, hình thành quỹ công chúng và công ty quản lý tài sản Hàn Quốc - Korean Assent Management Corporation (KAMCO)
KAMCO phân loại tài sản mua thành hai nhóm chính: tài sản thông thường và tài sản đặc biệt Tài sản thông thường bao gồm các khoản nợ xấu với khả năng thanh toán không chắc chắn Trong khi đó, tài sản đặc biệt liên quan đến các khoản nợ xấu của các công ty đang trong quá trình tái tổ chức, với điều kiện được cơ cấu lại lãi suất thấp hơn và thời gian trả nợ kéo dài Cả hai loại tài sản này đều được chia thành các khoản vay có đảm bảo và không có đảm bảo.
Sau khi mua lại, KAMCO sẽ tập hợp các khoản nợ xấu và tiến hành bán chúng cho các nhà đầu tư thông qua đấu giá quốc tế hoặc phát hành chứng khoán đảm bảo bằng tài sản từ các khoản nợ này Ngoài ra, KAMCO có khả năng tịch thu tài sản thế chấp để thu hồi nợ Trong một số trường hợp, KAMCO giữ lại các khoản nợ xấu để tái cơ cấu, cung cấp tài chính, hoặc chuyển đổi nợ thành vốn chủ sở hữu nếu họ nhận thấy tiềm năng phục hồi của công ty đó.
KAMCO đã gia tăng việc mua lại nợ xấu qua các năm, với tỷ lệ nợ xấu còn lại so với tổng nợ xấu giảm từ 88,6% năm 1997 xuống còn 24% năm 2001 Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của KAMCO trong việc mua và xử lý nợ xấu Đến năm 2001, quá trình xử lý nợ xấu tại Hàn Quốc đã gần như hoàn tất.
Thành lập các cơ quan luật pháp mới nhằm hỗ trợ quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp và ngành tài chính theo nguyên tắc thị trường, chẳng hạn như công ty tái cơ cấu doanh nghiệp, là một bước quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Công ty tái cơ cấu doanh nghiệp (CRC) chuyên thực hiện tái cơ cấu cho các doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính, tương tự như quỹ thu mua chứng khoán Mục tiêu của CRC là phục hồi các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ bằng cách nắm quyền quản lý thông qua việc mua lại cổ phiếu và/hoặc nợ xấu từ các tổ chức tài chính như KAMCO hoặc KDIC.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp hỗ trợ
Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai chính sách ưu đãi thuế nhằm hỗ trợ các chủ thể trên thị trường nợ xấu Theo đó, các ngân hàng được yêu cầu tăng cường dự phòng mất vốn cho các khoản nợ xấu thông qua việc áp dụng nguyên tắc phân loại tài sản nghiêm ngặt hơn Để thúc đẩy khả năng bán các khoản nợ xấu, chính phủ cũng đã ban hành các luật thuế đặc biệt.
Giảm thuế 50% trên thặng dư vốn từ việc chuyển đổi tài sản sở hữu của các tổ chức tài chính như KAMCO và KDIC giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế và khuyến khích các nhà đầu tư.
- Tính vào chi phí: Khi TCTD có số nợ xấu nhiều hơn mức dự phòng mất vốn,