Tính cấp thiết của đề tài
Trong mỗi nhà nước và giai cấp chính trị, vấn đề thừa kế được coi là một quyền cơ bản của công dân, được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật dân sự Chế định thừa kế có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân, trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội.
Trong pháp luật dân sự của nước ta cũng có một chế định rất quan trọng Đó là chế định
Quy định "Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc" trong chế định thừa kế là một yếu tố quan trọng, thể hiện tính nhân văn và phù hợp với đạo đức, văn hóa của người Việt.
Quy định này xác định quyền thừa kế của những người thừa kế mà không cần dựa vào nội dung của di chúc Nó cũng là cơ sở pháp lý để các Tòa án xét xử các tranh chấp thừa kế liên quan đến những người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.
Bài viết này nhằm nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Thực trạng hưởng di sản thừa kế trong bối cảnh này sẽ được làm rõ, nhằm nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của người thừa kế Thông qua việc tìm hiểu các quy định pháp lý, bài viết sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề thừa kế và những ảnh hưởng thực tiễn của nó.
• • o o o X • • • o • hướng hoàn thiện” làm đề tài cho bài tiểu luận tốt nghiệp này.
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về khái niệm “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”, với các góc độ và mức độ phân tích khác nhau.
- Luận văn của tác giả Phạm Văn Tuyết trường Đại học luật Hà Nội năm 2016;
+ Bình luận về “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” trong chế định thừa kế của Tiến sĩ.Luật sư Lê Kim Giang năm 2017.
Chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về "Thực trạng hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc và định hướng hoàn thiện", trong khi vấn đề "Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc" vẫn đang gây tranh cãi Do đó, việc nghiên cứu và đóng góp ý kiến về chủ đề này là cần thiết, và em quyết định chọn đề tài này cho Tiểu luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Bài tiểu luận này nghiên cứu lý luận và phân tích các quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 về "Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc" Tác giả đánh giá việc thực hiện quy định này trong thực tế, nhằm chỉ ra những vụ án cụ thể liên quan đến vấn đề "Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc".
Bài viết này nhằm làm rõ lý luận về thực trạng hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến người thừa kế trong các vụ án dân sự về thừa kế Những vấn đề này cần được xem xét kỹ lưỡng để nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong việc phân chia di sản thừa kế.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này thuộc Tiểu luận tốt nghiệp Khoa luật kinh tế Trường Đại học Bình Dương, tập trung vào việc phân tích toàn diện và hệ thống về thực trạng hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Bài viết cũng đề xuất định hướng hoàn thiện theo quy định của pháp luật dân sự.
Nghiên cứu của tiểu luận này mang lại những kết quả quan trọng về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào việc hoàn thiện lý thuyết khoa học liên quan đến "Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc" theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu về “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” theo pháp luật dân sự Việt Nam sẽ hỗ trợ các Thẩm phán có cái nhìn toàn diện và đầy đủ khi đưa ra quyết định liên quan đến vấn đề này Điều này góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc xét xử các vụ án dân sự liên quan đến phân chia di sản thừa kế.
Bố cục tiểu luận
Khái niệm về vấn đề hạn chế quyền của người lập di chúc
1.1.1 Khái niệm về quyền thừa kế
“Quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật 1 ”.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định rằng cá nhân có quyền lập di chúc để quyết định về tài sản của mình, bao gồm việc để lại tài sản cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật Người thừa kế, dù không phải là cá nhân, cũng có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Quyền thừa kế là một phần của pháp luật dân sự, bao gồm các quy phạm pháp luật quy định quy trình chuyển nhượng tài sản từ người đã khuất sang những người còn sống Thừa kế có thể diễn ra theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời xác định rõ phạm vi quyền và nghĩa vụ của người thừa kế, cũng như phương thức bảo vệ quyền lợi của họ.
Quyền thừa kế được hiểu theo nghĩa chủ quan, bao gồm quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản Hiến pháp 2013 đã công nhận quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế, đồng thời khẳng định rằng quyền này được pháp luật bảo hộ, phù hợp với các quy định chung của pháp luật và pháp luật về thừa kế.
Pháp luật thừa kế tại Việt Nam công nhận quyền tự do và tự nguyện của cá nhân trong việc lập di chúc Người lập di chúc có quyền quyết định và chỉ định tài sản của mình cho bất kỳ ai mà họ mong muốn thừa hưởng sau khi qua đời.
Theo nguyên tắc "tự do ý chí", pháp luật dân sự Việt Nam bảo đảm quyền tự do lập di chúc của người để lại di sản, cho phép họ có quyền phế truất quyền thừa kế của người khác.
1 Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp 2010
2 Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2015
Theo Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp 2013, những người được hưởng quyền thừa kế theo pháp luật có quyền hưởng di sản, tuy nhiên, quyền tự do ý chí và tự định đoạt phải tuân thủ quy định của pháp luật Để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế, nhà nước đã áp dụng các hạn chế đối với quyền định đoạt di sản theo di chúc.
1.1.2 Hạn chế quyền định đoạt di sản
Người có di sản có quyền quyết định tài sản của mình sau khi qua đời, nhưng pháp luật yêu cầu cá nhân phải có trách nhiệm với một số đối tượng nhất định, đặc biệt là những người thân trong gia đình Trách nhiệm này bao gồm việc nuôi dưỡng và chăm sóc, và nếu một cá nhân không để lại di chúc cho những người thân thích, pháp luật sẽ hạn chế quyền định đoạt tài sản của họ Theo Bộ luật dân sự năm 2015, quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, nhằm bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế hợp pháp.
1 Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2 Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này i4 4
BLDS 2015 không phải là văn bản duy nhất quy định về "Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc", mà trước đó, thông tư 81/TT-TANDTC ngày 24 tháng 7 năm 1981 cũng đã đề cập đến vấn đề này.
Theo thông tư 81/TT-TANDTC ngày 24 tháng 7 năm 1981, TANDTC quy định rằng khi người có di sản định đoạt vì lợi ích của người khác, các phần di sản theo di chúc sẽ bị cắt giảm để đảm bảo quyền lợi cho cha, mẹ, vợ, con chưa thành niên hoặc những người không có khả năng lao động.
4 Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015
Pháp lệnh thừa kế 1990 đã kế thừa những quy định của thông tư 81 ngày 24 tháng 7 năm
Vào năm 1981, TANDTC đã bổ sung quy định rằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật được tính dựa trên giả định toàn bộ di sản được chia theo pháp luật Đồng thời, Pháp lệnh cũng thay đổi cụm từ “phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc” thành “những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”.
Theo quy định tại Điều 644 của Bộ luật Dân sự 2015, những người thừa kế vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật Điều này áp dụng trong trường hợp họ không được người lập di chúc chỉ định hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó Các quy định này tiếp nối từ Pháp lệnh thừa kế 1990, Bộ luật Dân sự 1995 và 2005.
+ Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
+ Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Pháp luật cho phép cá nhân tặng tài sản cho bất kỳ ai khi còn sống theo ý chí của họ Tuy nhiên, sau khi qua đời, việc để lại tài sản cho cha, mẹ, vợ, chồng và con cái là điều phù hợp với đạo đức người Việt Nam, đặc biệt khi không thực hiện được nghĩa vụ đối với những người thân yêu này.
Dân tộc Việt Nam luôn sống gắn bó và tình cảm qua nhiều thế hệ, dựa trên các quy phạm đạo đức Do đó, pháp luật thừa kế không theo di chúc được xây dựng dựa trên những chuẩn mực đạo đức như uống nước nhớ nguồn và nghĩa vụ của người đã khuất đối với những người còn sống.
Đặc điểm của chủ thể và điều kiện hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của
1.2.1 Chủ thể hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc Đó là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên mà không có khả năng lao động. Điều này phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam là thảo kính với cha mẹ, trong gia đình các con phải kính trọng cha, mẹ ngược lại cha mẹ phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân, vợ chồng phải yêu thương nhau giúp đỡ nhau trong cuộc sống những người này ngoài nghĩa vụ pháp lý còn có nghĩa vụ đạo đức với nhau Do đó pháp luật quy định trong trường hợp họ phải được phần thừa kế bắt buộc từ tài sản của người đã chết.
1.2.2 Điều kiện hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Không phải lúc nào những người thừa kế thứ nhất cũng được nhận di sản theo quy định nếu không có di chúc Họ cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định để có quyền hưởng di sản.
Người lập di chúc có quyền quyết định không cho một hoặc nhiều người thừa kế hưởng di sản, hoặc chỉ cho họ hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba so với phần thừa kế theo quy định của pháp luật.
- Không thuộc trường hợp những người từ chối di sản theo quy định tại Điều 620 BLDS
Năm 2015, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, tuy nhiên việc từ chối này không được nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài chính đối với người khác.
- Và không thuộc trường hợp những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.
Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện, những người này sẽ nhận được phần di sản tối thiểu bằng hai phần ba suất thừa kế của một người thừa kế theo pháp luật.
Điều 644 BLDS 2015 thể hiện sự tôn trọng ý chí của người đã mất trong việc để lại di sản, nhưng đồng thời cũng quy định hạn chế quyền định đoạt di sản nếu người để lại có nghĩa vụ nuôi dưỡng những cá nhân khi họ còn sống.
Pháp luật quy định rằng con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động đều có quyền hưởng di sản từ cha mẹ, bất kể nội dung di chúc, nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em và buộc cha mẹ thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng Đối với con thành niên từ 18 tuổi trở lên không có khả năng lao động, tỷ lệ suy giảm khả năng lao động phải đạt từ 81% trở lên do thương tích, bệnh tật, hoặc do già yếu, kèm theo kết luận giám định của Hội đồng giám định Y khoa hoặc Hội đồng giám định Pháp y tâm thần.
Pháp luật quy định rằng con cái có trách nhiệm nuôi dưỡng và đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ Ngay cả khi người con đã qua đời, di sản để lại cũng phải được sử dụng để thể hiện lòng biết ơn đối với công đức của cha mẹ.
5 Con thành niên không có khả năng lao động của Kim Quỳnh, Tạp chí Tòa án nhân dân 01/3/2018 sinh thành của cha mẹ.
Pháp luật quy định rõ về tình nghĩa vợ chồng, trong đó nhấn mạnh rằng tài sản phải được để lại cho người phối ngẫu khi một trong hai người mất Điều này thể hiện đạo đức và trách nhiệm trong mối quan hệ vợ chồng, không chỉ trong cuộc sống mà còn kéo dài ngay cả sau khi một trong hai người qua đời Bổn phận này tiếp tục được thực hiện, thể hiện sự tôn trọng và tình yêu thương giữa hai người.
Nếu những người có nghĩa vụ để lại di sản không thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối với con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ/chồng hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, pháp luật sẽ quy định rằng những đối tượng này vẫn được hưởng một phần di sản từ khối tài sản mà người để lại di sản đã để lại Phần di sản này không bị ảnh hưởng bởi nội dung của di chúc, theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015.
Cách xác định phần thừa kế di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Khi áp dụng Điều 644 Bộ luật Dân sự, việc xác định "hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật" là yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế Tuy nhiên, đây là một thách thức lớn trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế.
Hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật được tính dựa trên toàn bộ khối di sản thừa kế của người chết để lại, hay chỉ trên phần di sản sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ về tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế? Điều này được quy định theo thứ tự ưu tiên thanh toán tại Điều 658 Bộ luật Dân sự 2015.
Pháp luật quy định người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được hưởng phần di sản này trong những trường hợp sau đây:
Phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là một phần trong tài sản mà người chết để lại Để xác định phần di sản này, cần thanh toán các nghĩa vụ về tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế theo thứ tự ưu tiên tại điều 658 BLDS 2015 Nếu tổng nghĩa vụ tài sản và chi phí lớn hơn hoặc bằng giá trị di sản thừa kế, sẽ không còn di sản để chia, bao gồm cả phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.
Theo Điều 644 Bộ luật Dân sự, người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc sẽ nhận được hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật Điều này nhằm bảo đảm quyền lợi cho những người thừa kế không dựa vào nội dung di chúc, và khối tài sản được sử dụng để tính toán hai phần ba suất này bao gồm cả tài sản được di tặng.
Theo Điều 644 BLDS 2015, người thừa kế bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản sẽ không còn là người thừa kế theo pháp luật Điều này có nghĩa là họ mất quyền thừa kế đã được pháp luật quy định và sẽ không được chia di sản theo quy định pháp luật Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của những người có quan hệ gần gũi, những người thừa kế theo pháp luật vẫn có quyền hưởng hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật, ngay cả khi họ bị truất quyền thừa kế.
Bốn là, như thế nào thì được coi là một suất để tính một suất thừa kế theo pháp luật?
Việc xác định một suất thừa kế để tính toán hai phần ba của nó không phải là điều đơn giản Do đó, khi xác định một suất thừa kế theo pháp luật, cần chú ý đến các trường hợp cụ thể được quy định.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự 2015, cá nhân có quyền hưởng thừa kế, tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, người thừa kế có thể bị tước quyền hưởng di sản do vi phạm nghiêm trọng về đạo đức và pháp luật Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ những người không đủ điều kiện để nhận di sản vì họ đã không còn xứng đáng với quyền lợi này, dù theo di chúc hay quy định pháp luật.
Theo quy định pháp luật, những người không được quyền hưởng di sản bao gồm: a) Những người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc có hành vi ngược đãi nghiêm trọng đối với người để lại di sản; b) Những người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Những người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác nhằm chiếm đoạt di sản; d) Những người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, cũng như giả mạo, sửa chữa, hủy di chúc hoặc che giấu di chúc để hưởng di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2 Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc” 6
Theo Điều 644 BLDS 2015, người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản trong di chúc vẫn được nhận hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật Điều này có nghĩa là họ vẫn được coi là người thừa kế theo pháp luật, bất chấp việc bị loại trừ trong di chúc Vì vậy, họ vẫn được tính là một suất để xác định hai phần ba suất thừa kế của một người thừa kế theo pháp luật.
Người từ chối nhận di sản sẽ không được hưởng di sản, kể cả khi chia theo pháp luật Tuy nhiên, nguyên tắc này cần được xem xét kỹ lưỡng trong từng trường hợp cụ thể.
11 được xác định cụ thể theo các trường hợp sau đây:
Nếu người từ chối nhận di sản chỉ là người thừa kế theo di chúc mà không có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản, thì họ sẽ không được tính là một suất thừa kế theo pháp luật.
Nếu người thừa kế từ chối nhận di sản theo di chúc và cũng là người thừa kế theo luật, họ sẽ không được tính vào suất thừa kế theo luật Tuy nhiên, nếu họ chỉ từ chối di sản theo di chúc mà vẫn chấp nhận thừa kế theo luật, họ vẫn được xem là một suất thừa kế.
Theo Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015, người thừa kế không được hưởng di sản nếu vi phạm quy định, mặc dù người lập di chúc có thể chỉ định họ hưởng di sản theo Khoản 2 cùng điều luật Tuy nhiên, nếu phần di sản theo di chúc nhỏ hơn hai phần ba suất thừa kế, người thừa kế đó sẽ chỉ nhận được phần di sản theo di chúc mà không được hưởng đủ hai phần ba suất thừa kế Nếu người lập di chúc không cho phép họ nhận di sản, thì họ sẽ không được hưởng gì Do đó, kỷ phần bắt buộc của người thừa kế không theo di chúc sẽ được xác định là "hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật".
Để xác định phần di sản thừa kế, cần lấy tổng giá trị di sản thừa kế (sau khi trừ các nghĩa vụ tài sản) chia cho tổng số nhân suất (không bao gồm những người bị tước quyền hưởng di sản, người thừa kế từ chối quyền hưởng theo di chúc hoặc pháp luật, và những người chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản mà không có người thừa kế thế vị) Kết quả sẽ được nhân với hai phần ba Sau khi tính toán, phần di sản mà người thừa kế theo Điều 644 BLDS 2015 được hưởng sẽ được trích từ phần di sản theo di chúc, phần di sản để di tặng, và phần di sản để thờ cúng, tương ứng với phần vượt trội so với suất thừa kế theo luật mà họ nhận được.
7 Khoản 1 Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2015 dùng vào việc thờ cúng như sau:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI
Thực tiễn áp dụng pháp luật về những tranh chấp về hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
2.1.1 Trường hợp thứ nhất xảy ra tranh chấp về di sản và cách giải quyết
Vợ chồng ông Trần T và bà Trịnh Thị Đ đã kết hôn vào năm 1960 và hiện đang sinh sống tại số 48, đường D, phường Tân Đồng, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước Họ có năm người con chung, trong đó có con trai tên Trần Văn.
G, Trần Thị C, Trần Hoàng V, Trần Thị Th và Trần Văn D Anh V có vợ là H và có hai người con chưa thành niên là Q và P Vào tháng 5/2017, anh V chết do tai nạn giao thông Anh V có để lại di chúc cho ông T, bà Đ mỗi người 1/4 di sản còn một nửa di sản chia đều cho các con.
Ngày 02 tháng 8 năm 2017, chị H kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước yêu cầu chia thừa kế di sản của anh V.
Tòa án đã xác định rằng tài sản chung của anh V và chị H bao gồm một ngôi nhà cấp 4, diện tích đất vườn 500 m² và hoa lợi trên đất có giá trị 250.000.000 đồng.
Tòa án đã giải quyết
Di sản của anh V là 125.000.000 đồng (di sản của anh V từ tài sản chung hợp nhất với chị
Anh V đã định đoạt hết tài sản của mình cho ông T, bà Đ mỗi người 1/4 di sản và cho các con của anh là Q và P hưởng chung 1/2 tài sản của anh.
Theo quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015, chị H là vợ của anh V được
Bản án 08/2017/DS-ST ngày 01/11/2017 quy định về việc phân chia di sản thừa kế của anh V, tổng giá trị di sản là 125.000.000 đồng Sau khi trừ đi phần thừa kế 16.666.666 đồng, số di sản còn lại để chia theo di chúc là 108.333.333 đồng Theo di chúc, ông T, bà Đ, Q và P mỗi người sẽ nhận được 1/4 di sản, tương đương với 27.083.333 đồng.
Chị H, vợ của anh V, là người thừa kế di sản của anh V mà không cần phụ thuộc vào nội dung di chúc Trong khi đó, cha, mẹ và các con chưa thành niên của anh V sẽ được hưởng phần di sản theo di chúc đã được lập.
Nếu giữ nguyên nội dung di chúc, quyền lợi của chị H, vợ anh V, sẽ bị xâm phạm, vì chị H được hưởng di sản theo quy định tại Điều 644 BLDS 2015, mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
2.1.2 Trường hợp thứ hai xảy ra tranh chấp về di sản và cách giải quyết
Ông Hồ Tấn C kết hôn với bà Huỳnh Thị D vào năm 1952 và cư trú tại phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước Họ có ba người con: Hồ Tấn V, Hồ Tấn L và Hồ Thị Đ Anh Hồ Tấn L, có vợ là Trần Thị M và hai con chung là Hồ Tấn B và Hồ Thị P, đã qua đời vào tháng 4/2017 Trước khi mất, anh L để lại di chúc chia 1/4 di sản cho chị M và truất quyền thừa kế của ông C và bà D Ngày 04 tháng 4 năm 2018, bà D đã kiện lên Tòa án để yêu cầu chia di sản của anh L.
Tòa án xác định được: Tài sản chung hợp nhất của anh Long và chị M là 960.000.000đ
Tòa án đã giải quyết
Chấp nhận đơn khởi kiện của bà D Anh L chết có để lại di chúc cho chị M 1/4 di sản và truất quyền thừa kế của ông C và bà D.
Di sản của anh L = 960.000.000 đ : 2 = 480.000.000 đồng.
Theo Điều 644 BLDS 2015, ông C và bà D là cha mẹ của anh L và được thừa kế không phụ thuộc vào di chúc Tuy nhiên, do ông C bị kết án vì gây thương tích cho anh L, ông C bị tước quyền hưởng di sản Vì vậy, chỉ còn bà D là người duy nhất được hưởng di sản của anh L.
Bản án 28/2018/DS-ST, ngày 01/06/2018, quy định về việc phân chia di sản thừa kế của anh L không phụ thuộc vào nội dung di chúc Theo bản án, bà D được hưởng số tiền 480.000.000 đồng, được tính theo công thức 4 x 2/3 = 80.000.000 đồng.
Chị M là vợ, được thừa kế 1/4 di sản của anh L, theo đó chị M = 480.000.000đ : 4 120.000.000 đồng.
Phần di sản còn lại của anh L được chia theo pháp luật: 480.000.000 đ - (80.000.000 đ + 120.000.000 đ) = 280.000.000 đồng.
Hàng thừa kế thứ nhất của anh L bao gồm ông C, bà D, chị M và hai con là B và P Mặc dù bà D không được hưởng di sản theo di chúc của anh L, nhưng bà vẫn có quyền nhận di sản theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015.
Còn ông C đã bị tước quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điêu 621 BLDS 2015.
Vì vậy, phần còn lại được chia là chị M, B và P và mỗi người được nhận phần tài sản có giá trị là: 280.000.000 đ : 3 = 93.333.333 đồng 10
Ông C và bà D đều bị anh L tước quyền hưởng di sản Tuy nhiên, bà D vẫn được hưởng di sản theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015, trong khi ông C không có quyền hưởng do bị tước quyền theo Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015.
Khi xác định hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật, chỉ có 4 suất được chia cho bà D, vì ông C đã bị loại khỏi hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 Mặc dù ông C không được quyền hưởng di sản, bà D vẫn được xem là người thừa kế hợp pháp và được tính phần hưởng là hai phần ba di sản Ông C chỉ có quyền hưởng di sản của anh L nếu anh L biết về hành vi xâm phạm sức khỏe của mình và ông C đã bị kết án.
Ông C sẽ không được hưởng di sản theo di chúc của anh L, vì anh L đã lập di chúc để truất quyền thừa kế của ông C.
Nếu giữ nguyên nội dung di chúc, quyền lợi của bà D, mẹ của anh L, sẽ bị xâm phạm, vì bà D là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều 644 BLDS 2015.
Một số vướng mắc về quy phạm pháp luật người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về di sản thừa kế không bị ảnh hưởng bởi nội dung di chúc, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần được giải quyết.
2.2.1 Khối di sản dùng làm căn cứ cho việc tính hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật
Theo Điều 644 BLDS năm 2015, khối di sản dùng để tính hai phần ba suất của người thừa kế theo pháp luật bao gồm cả di sản thờ cúng và di tặng Để xác định hai phần ba suất này, cần giả định rằng nếu không có di chúc, toàn bộ di sản sẽ được chia theo pháp luật Do đó, toàn bộ di sản thừa kế, bao gồm phần di tặng và phần dùng vào việc thờ cúng, sẽ được chia cho tất cả những người thừa kế theo pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Hai là, việc cắt giảm phần di sản chia thừa kế, di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng để
24 đảm bảo quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được thực hiện theo thứ tự như thế nào?
Di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc và không được coi là khoản nợ của người để lại di sản Điều này có nghĩa là di sản thừa kế không phải được thanh toán theo thứ tự ưu tiên như quy định tại Điều 658 BLDS năm 2015 Để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế, nếu người lập di chúc không cho hoặc chỉ cho họ hưởng ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, thì di sản chia thừa kế, di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ bị cắt giảm đồng thời và theo tỷ lệ.
2.2.2 Người không có quyền hưởng di sản có được coi là nhân suất cho việc tính hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật Đó là người không có quyền hưởng di sản theo quy định của BLDS
Người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe, ngược đãi, hành hạ, hoặc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản sẽ không được hưởng di sản Ngoài ra, những người có hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản trong việc lập di chúc, cũng như giả mạo, sửa chữa hoặc hủy di chúc nhằm chiếm đoạt di sản trái với ý chí của người để lại di sản cũng sẽ bị tước quyền thừa kế.
Vậy những người này có được coi là nhân suất khi xác định một suất theo luật hay không?
2.2.3 Người từ chối nhận di sản di sản có được coi là nhân suất cho việc tính hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật Đây có thể là những người thừa kế theo pháp luật cũng có thể là những người thừa kế theo di chúc Họ có quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc (nếu người lập di chúc
13 Khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015
Về việc người từ chối hưởng di sản, cần xem xét hai trường hợp để xác định liệu họ có được coi là nhân suất trong việc tính toán hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật hay không.
Nếu người từ chối là người thừa kế theo di chúc mà không thuộc diện thừa kế theo pháp luật, không có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản, thì họ không được xem là nhân sự trong việc xác định suất thừa kế theo luật Điều này có nghĩa là, nếu di sản được chia theo quy định pháp luật, những người này sẽ không nhận được phần di sản nào.
Khi người thừa kế từ chối nhận di sản theo di chúc nhưng vẫn giữ quyền thừa kế theo luật, họ vẫn được xem là nhân suất để xác định suất thừa kế theo luật Ngược lại, nếu họ từ chối nhận di sản theo pháp luật, họ sẽ không còn là người thừa kế theo luật và không được tính là nhân suất trong việc xác định suất thừa kế Trong trường hợp người thừa kế chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản, nếu họ có con hoặc cháu, những người này sẽ được thừa kế thế vị theo Điều 652 BLDS 2015 và vẫn được coi là nhân suất khi xác định suất thừa kế theo pháp luật.
Khi một người thừa kế theo pháp luật qua đời trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản mà không có con hoặc cháu để thừa kế thế vị, thì di sản sẽ không được chia cho những người này theo quy định của pháp luật Do đó, họ không được tính là nhân suất trong việc xác định suất của người thừa kế theo pháp luật.