TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Theo Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã được kiểm soát dưới 3%, tuy nhiên nợ xấu có xu hướng gia tăng về quy mô Đến ngày 31/12/2016, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ xấu do VAMC quản lý và nợ tiềm ẩn có khả năng lên đến 8,86% tổng dư nợ Nguyên nhân chủ yếu là do việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết.
Việc xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại đã có những tiến triển tích cực, tuy nhiên, pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm vẫn còn nhiều hạn chế Ngoài ra, VAMC gặp khó khăn do thiếu nguồn lực và cơ chế hoạt động đặc thù Vì vậy, các ngân hàng cần sớm triển khai các giải pháp quyết liệt để đảm bảo an toàn hệ thống và đạt được các chỉ tiêu kinh doanh đã đề ra.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ các ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu Cụ thể, vào năm 2012, NHNN đã cho phép các ngân hàng cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời, với điều kiện là những doanh nghiệp này có khả năng phục hồi Đến năm 2013, NHNN đã trình Chính phủ thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) để mua nợ xấu từ các ngân hàng thương mại, nhằm hỗ trợ cả doanh nghiệp lẫn các ngân hàng trong việc cải thiện tình hình tài chính.
Tính đến tháng 3/2017, đã có 2 ngân hàng mua lại nợ xấu từ Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), với nhiều ngân hàng khác dự kiến cũng sẽ thực hiện điều này trong năm 2017 Vietcombank đã mua lại hơn 4.300 tỷ đồng nợ xấu từ VAMC, trở thành ngân hàng đầu tiên sạch nợ tại đây, vượt kế hoạch 3 năm Ngân hàng VIB cũng đã công bố báo cáo tài chính năm 2016, cho thấy họ đã mua lại 1.336 tỷ đồng nợ xấu từ VAMC, giúp giảm 30% dư nợ tại VAMC của ngân hàng này.
Ngoài hai ngân hàng lớn, nhiều ngân hàng thương mại khác cũng đang tích cực xử lý nợ xấu Cụ thể, Sacombank đã thu hồi hơn 3.000 tỷ đồng nợ xấu, giảm tổng nợ đã bán cho VAMC từ 17.000 tỷ đồng xuống còn 14.000 tỷ đồng vào cuối năm 2016 Trong khi đó, Oceanbank cũng có kế hoạch làm sạch danh mục nợ xấu bán cho VAMC trong năm 2017 và mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu về mức 1%.
Năm nay, các ngân hàng phải xử lý nợ xấu một cách chủ động và mạnh mẽ do nhiều lý do Một trong những nguyên nhân chính là tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã giảm, giúp các ngân hàng ghi nhận lợi nhuận tốt hơn trong năm 2016 và có kế hoạch lợi nhuận cao hơn cho năm 2017, từ đó đủ khả năng trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho nợ xấu Thị trường bất động sản cũng đang ấm lên, đặc biệt là phân khúc đất nền tại các khu vực nội thành và các tỉnh xung quanh Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, tạo cơ hội tốt cho việc xử lý tài sản đảm bảo Điều này cho phép các ngân hàng quay trở lại mua nợ xấu đã bán cho VAMC, đánh dấu một tín hiệu tích cực trong quá trình xử lý nợ của hệ thống ngân hàng.
Tính đến giữa tháng 3/2017, VAMC đã mua 25.631 khoản nợ xấu từ 42 tổ chức tín dụng tại Việt Nam, với tổng dư nợ gốc 282.124 tỷ đồng và giá mua nợ 245.672 tỷ đồng, thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt Tuy nhiên, VAMC chỉ thu hồi được 50.165 tỷ đồng, tương đương 17,6% tổng dư nợ gốc, thông qua các hình thức bán nợ và tài sản bảo đảm Dự kiến trong 4 năm tới, VAMC sẽ xử lý thêm 150.000 tỷ đồng nợ xấu.
Việc chậm thu hồi nợ xấu từ VAMC chủ yếu do các nguyên nhân như quyền thu giữ tài sản đảm bảo bị bỏ qua trong Bộ luật dân sự 2015, VAMC không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất theo Luật đất đai 2013, và không có quyền xử lý tài sản bảo đảm Thêm vào đó, tài sản bảo đảm thường bị kê biên bởi bên phải thi hành án, gây khó khăn cho VAMC trong việc thu hồi nợ Do đó, kết quả thu hồi nợ từ VAMC khá khiêm tốn so với kỳ vọng của các ngân hàng Mặc dù đã bán nợ cho VAMC, các ngân hàng vẫn phải trích lập dự phòng 20% mệnh giá trái phiếu trong vòng 5 năm, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt Vì vậy, việc các ngân hàng tự xử lý nợ xấu được coi là giải pháp tối ưu hiện nay.
Dựa trên những lý do đã nêu, tôi quyết định chọn đề tài “Xử lý nợ xấu qua VAMC tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” cho luận văn của mình.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu đề tài nhằm một số mục đích sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu qua VAMC
- Phân tích và đánh giá thực trạng nợ xấu và xử lý nợ xấu tại VAMC từ khi thành lập (Tháng 7/2013) đến hết năm 2016
- Đe xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xứ lý nợ xấu tại VAMC
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện thông qua việc tiếp cận với các cơ sở lý luận về ngân hàng và việc xử lý nợ xấu qua VAMC
• Phương pháp thu thập dữ liệu:
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính hợp nhất của các ngân hàng qua các năm, cùng với các nghiên cứu khoa học về nợ xấu và phương pháp xử lý nợ xấu, đặc biệt là qua VAMC Nguồn thông tin này còn được bổ sung từ các phương tiện truyền thông như báo chí, internet, cũng như các báo cáo tổng kết và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Phương pháp thống kê so sánh giúp phân tích hiệu quả xử lý nợ xấu qua VAMC bằng cách so sánh các chỉ số thực hiện và kết quả đạt được qua các năm Qua đó, chúng ta có thể nhận diện rõ ràng sự tăng giảm trong hoạt động này, từ đó đưa ra những đánh giá chính xác về hiệu quả công tác xử lý nợ xấu.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích kinh tế: Dựa trên cơ sở số liệu thứ cấp thu thập được từ các tài liệu của ngân hàng
Áp dụng phương pháp thống kê để tổng hợp dữ liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh tổng thể, đồng thời tập trung vào việc xử lý nợ xấu thông qua VAMC.
• Phương pháp xử lý dữ liệu
Sau khi thu thập tài liệu thứ cấp, cần tiến hành xử lý để loại bỏ những nguồn thông tin không đáng tin cậy và tính toán lại các số liệu cần thiết, nhằm phục vụ hiệu quả cho quá trình nghiên cứu.
Dữ liệu sau khi tổng hợp sẽ được xử lý bằng phần mềm Excel trong bộ ứng dụng Microsoft Office 2010, tạo nền tảng cho việc so sánh, phân tích và đưa ra các kết luận cần thiết.
Dựa trên kết quả khảo sát và nghiên cứu, cùng với các đánh giá từ các chuyên gia, bài viết phân tích thực trạng xử lý nợ xấu qua VAMC và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này.
BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục, bảng biểu và sơ đồ, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ xấu và xứ lý nợ xấu
Chương 2: Thực trạng nợ xấu và xử lý nợ xấu qua VAMC
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu quaVAMC
Tỷ lệ trích lập dự phòng
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NỢ XẤU
Tín dụng là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quản trị rủi ro để tối ưu hóa lợi nhuận trong lĩnh vực ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng có thể hiểu đơn giản là tình trạng ngân hàng không thu hồi được toàn bộ gốc và lãi của khoản vay khi đến hạn Khi một khoản vay có nguy cơ không thu hồi được nợ gốc và lãi, nó được gọi là khoản nợ xấu.
Nợ xấu là rủi ro tín dụng mà tổ chức tài chính phải đối mặt trong quá trình cho vay, và hiện tượng này tồn tại không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới Tăng trưởng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng không nhất thiết phản ánh hiệu quả hoạt động kém của ngân hàng, mà thường xuất phát từ việc khách hàng vay không có khả năng thanh toán nợ.
Nợ xấu, hay nợ khó đòi, là các khoản nợ dưới chuẩn đã quá hạn và có khả năng thu hồi vốn thấp, thường xảy ra khi con nợ liên tục thua lỗ, tuyên bố phá sản hoặc tẩu tán tài sản Các khoản nợ này thường là nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên ba tháng, và được phân loại dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán vào các nhóm nợ phù hợp.
Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quy định về phân loại tài sản có, mức trích và phương pháp trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được làm rõ, nhằm tăng cường quản lý rủi ro và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền.
“Nợ xấu (NPL) là nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5” và “Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5”.
1.1.2 Phương pháp xác định nhóm nợ
Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013, các tổ chức tín dụng được phép phân loại nợ theo phương pháp định lượng theo quy định tại điều 10 Đồng thời, nếu được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, các tổ chức này cũng có thể thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo phương pháp định tính theo quy định tại điều 11.
• Phương pháp định lượng (điều 10)
Bảng 1 1: Phân loại nợ, cam kết ngoại bảng và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo phương pháp định lượng
Nợ đủ tiêu chuẩn là khoản nợ có khả năng thu hồi toàn bộ gốc và lãi đã quá hạn, đồng thời đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi còn lại đúng hạn.
- Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều này;
Các cam kết ngoại bảng của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá khả năng của khách hàng trong việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo cam kết.
- Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
- Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này;
5% không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ theo cam kết
- Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Nợ gia hạn nợ lần đầu;
- Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật, điều này ảnh hưởng đến khả năng vay vốn từ tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng, hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác Điều này xảy ra khi tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản bảo đảm là cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng đó.
Nợ không có bảo đảm hoặc được cấp với điều kiện ưu đãi, cùng với giá trị vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, chỉ được cấp cho khách hàng không thuộc đối tượng bị hạn chế tín dụng theo quy định pháp luật.
Nợ cấp cho các công ty con và công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát thường có giá trị vượt quá các tỷ lệ giới hạn theo quy định của pháp luật.
+ Nợ có giá trị vượt quá các giới hạn cấp tín dụng, trừ
20% đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
Nợ vi phạm quy định nội bộ về cấp tín dụng và quản lý tiền vay, cũng như chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, là vấn đề nghiêm trọng cần được giải quyết Việc tuân thủ các quy định này không chỉ giúp bảo vệ lợi ích của tổ chức mà còn đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính.
- Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra;
- Nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
- Các cam kết ngoại bảng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này.
- Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới
90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
- Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
- Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
- Các cam kết ngoại bảng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này.
Nợ có khả năng mất vốn
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
- Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
- Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
Nợ của khách hàng được xác định là các tổ chức tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước công bố đang trong tình trạng kiểm soát đặc biệt Điều này cũng áp dụng cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản.
- Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này.
- Các cam kết ngoại bảng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này.
Các khoản nợ mà tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn được coi là nợ có chất lượng tốt.