CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TRẢ LƯƠNG QUA THẺ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tổng quan về thẻ thanh toán của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thẻ thanh toán
1.1.1.1 Khái niệm thẻ thanh toán
Lịch sử thẻ ngân hàng bắt đầu từ việc các đại lý bán lẻ cung cấp tín dụng cho khách hàng, cho phép họ mua hàng trước và trả tiền sau Nhiều đại lý nhỏ không đủ khả năng cung cấp tín dụng, dẫn đến sự can thiệp của các tổ chức tài chính Dưới đây là những cột mốc quan trọng trong sự ra đời và phát triển của thẻ thanh toán.
Vào năm 1946, thẻ ngân hàng đầu tiên mang tên Charg-It được giới thiệu bởi ngân hàng John Biggins tại Mỹ, đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống tín dụng cho phép khách hàng thực hiện giao dịch nội địa bằng các "phiếu" do ngân hàng phát hành Hệ thống này đã tạo nền tảng cho sự ra đời của thẻ tín dụng ngân hàng đầu tiên tại Franklin National, New York vào năm 1951.
- Vào năm 1960, ngân hàng Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ ngân hàng riêng của mình Từ đó, thẻ Bank America ra đời.
- Để liên kết cạnh tranh với tổ chức của Bank of America, vào năm
1964, 14 ngân hàng Mỹ liên kết thành tổ chức Interbank (Interbank Card
- Vào năm 1967, bốn ngân hàng California đổi tên từ California Bankcard Association thành Western States BankCard Association (WSBA).
Sản phẩm thẻ của tổ chức WSBA là Master Charge Tổ chức WSBA cũng cấp phép cho tổ chức Interbank sử dụng tên và thương hiệu của MasterCharge.
- Vào cuối thập niên 1960, nhiều tổ chức tài chính đã trở thành thành viên của hội MasterCharge và đủ sức cạnh tranh với Bank Americad.
- Vào năm 1968, Interbank mở rộng thành viên ra khỏi phạm vi nước
Mỹ, liên kết với các tổ chức tài chính Châu Âu hình thành thẻ Eurocard.
- Thành viên đầu tiên của Nhật tham gia vào tổ chức Interbank vào năm
1968 Năm 1977, Bank America trở thành Visa International.
- Năm 1979, Master Charge đổi tên thành MasterCard Ngoài ra, có các sản phẩm thẻ khác được hình thành như: American Express vào năm 1958,
Diners Club vào năm 1950, JCB vào năm 1961.
Vào những năm 1990, thẻ tín dụng bắt đầu xuất hiện tại Lào, cho phép người dùng thanh toán hàng hóa và dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thẻ Đồng thời, thẻ cũng là phương tiện giúp chủ thẻ thực hiện giao dịch với ngân hàng mà không cần gặp trực tiếp nhân viên ngân hàng.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Lào, thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành cho khách hàng theo hợp đồng Thẻ thanh toán đại diện cho phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt hiện đại, ngày càng được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.
1.1.1.2 Đặc điểm kỹ thuật của thẻ thanh toán
Thẻ chi trả được làm bằng nhựa cứng (rigid plastic) có hình chữ nhật, có kích thước tiêu chuẩn 96 mm × 54 mm × 0,76mm.
Trên thẻ có một số thông tin sau:
Mặt trước của thẻ bao gồm các thông tin quan trọng như tên thẻ, tên ngân hàng, biểu tượng, số thẻ (bao gồm 13 hoặc 16 số), ngày bắt đầu và ngày hết hạn hiệu lực, cũng như tên chủ thẻ, tất cả đều được in nổi.
Mặt sau của thẻ tín dụng có băng từ tính và băng trắng chứa chữ ký của chủ thẻ Băng từ tính lưu trữ thông tin quan trọng như số thẻ, tên chủ thẻ, thời hạn hiệu lực, lịch sử ngân hàng, mã số bí mật, mức rút tiền tối đa và số dư Một số thẻ đặc biệt còn có bộ nhớ chip để lưu trữ thông tin mà không tính lãi khi mua sắm tại các cơ sở chấp nhận thẻ Thẻ tín dụng cho phép chủ thẻ tiêu dùng trước mà không cần thanh toán ngay, chỉ phải thanh toán sau một thời gian nhất định, do đó còn được gọi là thẻ ghi nợ hoãn hiệu hay thẻ chậm trả.
Thẻ ghi Nợ là loại thẻ gắn liền với tài khoản tiền gửi, cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch mua sắm và dịch vụ, với giá trị được khấu trừ ngay lập tức từ tài khoản Ngoài ra, thẻ ghi Nợ cũng thường được sử dụng để rút tiền mặt tại các máy ATM.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng, mà phụ thuộc vào số dư hiện có trong tài khoản của chủ thẻ Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản.
+ Thẻ Online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay vào tài khoản của chủ thẻ
+ Thẻ Offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ ngay sau vài ngày.
Thẻ rút tiền mặt là loại thẻ cho phép người dùng rút tiền tại các máy ATM hoặc ngân hàng Để sử dụng thẻ này, chủ thẻ cần ký quỹ tiền gửi vào tài khoản ngân hàng hoặc được cấp tín dụng thấu chi Hiện nay, có hai loại thẻ rút tiền mặt trên thị trường.
+ Loại 1: chỉ rút tiền mặt tại những máy tự động của ngân hàng (ATM)+ Loại 2: được sử dụng để rút tiền không chỉ ở NHPH mà còn được sử
Thẻ khắc chữ nổi, hay còn gọi là Embossing Card, là sản phẩm đầu tiên được sản xuất dựa trên công nghệ khắc chữ nổi Tuy nhiên, hiện nay loại thẻ này đã không còn được sử dụng phổ biến do kỹ thuật sản xuất quá thô sơ và dễ bị giả mạo.
Thẻ băng từ (Magnetic stripe) là loại thẻ dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin ở mặt sau, đã được sử dụng phổ biến trên toàn cầu trong hơn 20 năm Để nâng cao tính bảo mật, các tổ chức phát hành thẻ đã áp dụng kỹ thuật in chìm nhiều lớp biểu tượng, halogran, cùng với việc in ảnh và chữ ký của khách hàng Tuy nhiên, thẻ băng từ cũng có một số nhược điểm như thông tin không được mã hóa, chỉ chứa dữ liệu cố định, không gian lưu trữ hạn chế và không áp dụng được các kỹ thuật bảo mật tiên tiến.
Thẻ thông minh (Smart Card) là thế hệ thẻ thanh toán mới nhất, tích hợp công nghệ thông tin hiện đại với chip điện tử Thẻ này thường có chip điện tử thay thế cho dải băng từ, và trong một số trường hợp, thẻ thông minh còn có cả chip điện tử lẫn băng từ Nhờ vào kỹ thuật xử lý thông tin, thẻ được trang bị chip bộ nhớ và chip xử lý dữ liệu, mang lại hiệu quả cao trong giao dịch.
Các bộ nhớ lưu trữ tất cả thông tin cần thiết cho thẻ trong mỗi lần sử dụng, trong khi chip xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xóa bỏ hoặc điều chỉnh thông tin này.
Chủ thẻ có thể thanh toán hàng hóa và dịch vụ qua mạng lưới đại lý chấp nhận thẻ trong và ngoài nước, hoặc rút tiền mặt tại các ngân hàng và máy ATM trên toàn cầu Với thẻ thanh toán, việc rút tiền không còn bị giới hạn bởi giờ làm việc của ngân hàng, vì chủ thẻ có thể rút tiền tại nhiều máy ATM công cộng Họ cũng có thể kiểm tra số dư tài khoản thông qua các thiết bị điện tử, giúp lập kế hoạch chi tiêu hợp lý Đối với thẻ tín dụng, ngân hàng cung cấp hạn mức tín dụng cho phép khách hàng thực hiện giao dịch trước và thanh toán sau mà không bị tính lãi trong thời gian ngắn Thẻ ghi nợ còn cho phép khách hàng có mức thấu chi nhất định trên tài khoản tiền gửi.
Khi sử dụng thẻ, chủ thẻ sẽ được hưởng nhiều dịch vụ tiện ích từ NHPHT, bao gồm dịch vụ khách hàng 24/24, dịch vụ hỗ trợ toàn cầu "World Assist" và dịch vụ bảo hiểm du lịch.
Thực trạng mở rộng dịch vụ trả lương qua thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào chi nhánh Savannakhet
thương Lào chi nhánh Savannakhet
Trong những năm gần đây, việc trả lương tự động qua thẻ ngân hàng đã trở thành một dịch vụ ngân hàng tiện lợi được nhiều tổ chức và doanh nghiệp lựa chọn Đặc biệt, Nhà nước CHDCND Lào đã triển khai nhiều cơ chế chính sách khuyến khích việc trả lương qua thẻ ngân hàng nhằm giảm thiểu chi tiêu bằng tiền mặt trong nền kinh tế.
Bảng 2.1: Tình hình khách hàng sử dụng dịch vụ trả lương qua thẻ tại
BCEL chi nhánh Savannakhet từ 2017 - 2019
BCEL Chi nhánh Nong, Savannakhet 11 3%
(Nguồn: BCEL chi nhánh Savannakhet)
Thủ tướng Chính phủ Thoong-lun Xi-xu-lít đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND các tỉnh, thành phố triển khai việc trả lương qua tài khoản cho cán bộ, công nhân viên từ ngân sách Nhà nước Việc này đã tạo điều kiện thuận lợi cho BCEL chi nhánh Savannakhet, một ngân hàng thương mại có mạng lưới rộng lớn tại Lào, phát triển dịch vụ trả lương qua tài khoản Với mối quan hệ truyền thống với các tổ chức Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước, chi nhánh đã nhanh chóng thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ này Đồng thời, chi nhánh cũng đã đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất như máy ATM và máy POS, cùng với các chiến lược marketing hiệu quả, dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ trả lương qua thẻ.
Năm 2017, BCEL chi nhánh Savannakhet đã ghi nhận 225 tổ chức và doanh nghiệp thực hiện trả lương qua thẻ, tăng 38 khách hàng so với năm trước, tương đương với mức tăng 38%.
Năm 2018, số lượng đơn vị sử dụng dịch vụ trả lương của Chi nhánh tăng mạnh mẽ với 77 đơn vị, tương ứng với 36%, đạt mức 302 khách hàng.
Năm 2019, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này vẫn tiếp tục tăng mạnh mẽ với 119 đơn vị, tương ứng với 39%.
Tính đến cuối năm 2019, đã có 421 đơn vị trả lương qua tài khoản thông qua hệ thống ngân hàng BCEL chi nhánh Savannakhet.
Mặc dù số lượng đơn vị sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản tại BCEL chi nhánh Savannakhet ngày càng tăng, nhưng khi phân tích cụ thể, tỷ lệ khách hàng giữa các chi nhánh lại không đồng đều.
Bảng 2.2 cho thấy tình hình sử dụng dịch vụ trả lương qua thẻ tại các chi nhánh của ngân hàng BCEL ở Savannakhet, đặc biệt là chi nhánh Kaysone Phomvihane Chi nhánh này có lượng khách hàng lớn nhất với 273 đơn vị, chiếm 65% tổng số khách hàng, nhờ vào vị trí là trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh Savannakhet, nơi tập trung nhiều tổ chức, trường học và doanh nghiệp.
Số lượng tài khoản thẻ 10,512 12825 16031
Tăng trưởng tài khoản thẻ tại các chi nhánh ở thành phố lớn như 20, 22, 25 diễn ra mạnh mẽ, trong khi các chi nhánh huyện miền núi có số lượng đơn vị trả lương qua thẻ thấp hơn do mật độ dân số thưa thớt và điều kiện kinh tế xã hội không thuận lợi Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại đây chưa mặn mà với dịch vụ trả lương qua thẻ, chủ yếu khách hàng sử dụng dịch vụ là các cơ quan Nhà nước như trường học, cơ quan thuế, KBNN và các cơ quan hành chính, thực hiện trả lương theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Trong những năm qua, cơ cấu khách hàng sử dụng dịch vụ trả lương qua thẻ của Chi nhánh cho thấy khối cơ quan hành chính, sự nghiệp chiếm tỷ lệ lớn với 225 đơn vị, tương đương 53% tổng số khách hàng Điều này phản ánh thế mạnh của ngân hàng trong việc phát triển đối tượng khách hàng này BCEL, với kinh nghiệm lâu năm và mạng lưới rộng khắp các huyện, đã khẳng định vị thế của mình trong lĩnh vực này.
Chi nhánh có khả năng tiếp cận dễ dàng với nhóm khách hàng chủ yếu là học sinh, giáo viên và các cơ quan như thuế, hành chính Điều này giúp tăng cường mối quan hệ và tạo cơ hội phát triển dịch vụ cho các đối tượng này.
Hình 2.5: Cơ cấu đơn vị trả lương qua thẻ tại BCEL chi nhánh
Savannakhet (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của BCEL chi nhánh Savannakhet)
Số lượng khách hàng là tổ chức kinh tế đạt 196 đơn vị, chiếm 47% tổng số khách hàng Đáng chú ý, nhóm khách hàng này chủ yếu tập trung tại các thành phố và thị xã Hơn nữa, các tổ chức kinh tế thường sử dụng dịch vụ thanh toán lương qua thẻ chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước cùng với các doanh nghiệp lớn và vừa.
2.2.2 Số lượng tài khoản và số dư tài khoản trả lương qua các năm
Sự gia tăng đơn vị sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản đã dẫn đến sự tăng trưởng tương ứng của số lượng tài khoản trả lương qua thẻ tại Chi nhánh trong những năm gần đây.
Năm 2017, số lượng tài khoản trả lương qua thẻ là 10.512 tài khoản, tăng thêm 20% so với năm 2016. ĐVT: chiếc
Hình 2.6: Tăng trưởng tài khoản trả lương tại BCEL chi nhánh
Savannakhet (Nguồn: BCEL chi nhánh Savannakhet)
Năm 2018, số lượng tài khoản trả lương qua thẻ đã tăng 2.313 tài khoản, tương ứng với mức tăng 22%, đưa tổng số tài khoản trả lương qua thẻ lên 12.825 tài khoản vào cuối năm.
Năm 2019, số lượng tài khoản tiếp tục tăng thêm với tốc độ cao hơn là
Tính đến ngày 31/12/2019, có 421 đơn vị đã thực hiện trả lương qua tài khoản, với tổng số thẻ đạt 16.031, tương ứng 25% tổng số thẻ đã phát hành, tức khoảng 3.206 tài khoản.
Hình 2.7: Tăng trưởng số dư tài khoản trả lương tại BCEL chi nhánh
Savannakhet (Nguồn: BCEL chi nhánh Savannakhet)
Từ năm 2017 đến 2019, số dư tài khoản thẻ trả lương tự động tại BCEL chi nhánh Savannakhet đã tăng trưởng liên tục, mặc dù tốc độ tăng không đồng đều Cụ thể, năm 2017, số dư đạt 7.654 triệu LAK, và năm 2018, con số này tăng mạnh 26,32% nhờ vào sự gia tăng lượng khách hàng và mức thu nhập của người lao động Đến năm 2019, số dư tài khoản thẻ tiếp tục tăng 20,46%, đạt 11.644 triệu LAK, nhưng tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so với năm trước.
2.2.3 Thu phí dịch vụ từ trả lương qua tài khoản
Thông thường khi đăng ký trả lương qua tài khoản của BCEL chi nhánh Savannakhet thì các đơn vị trả lương đều yêu cầu nhân viên đăng ký tài
Tên ngân hàng Mức ph í/giao dịch trả lương/tài khoản (LAK)
Ngân hàng ngoại thương Lào 13.000
Ngân hàng phát triển Lào 11.000
Ngân hàng phát triển nông nghiệp Lào 12.000
Ngân hàng Liên Doanh Lào - Việt 12.000
Ngân hàng MaruHan Nhật Bản đã triển khai 13.000 tài khoản và sử dụng thẻ của hệ thống BCEL để thực hiện giao dịch trả lương, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian Việc này đảm bảo rằng 100% thẻ nhận lương qua tài khoản của Chi nhánh đều nằm trong hệ thống BCEL, giảm thiểu chi phí giao dịch cho các tài khoản ngoài hệ thống.
Mức phí giao dịch trả lương qua tài khoản tại BCEL chi nhánh Savannakhet được áp dụng theo hợp đồng thỏa thuận giữa đơn vị trả lương và chi nhánh là 13.000 LAK mỗi giao dịch Thời gian qua, mức phí giao dịch này đã được duy trì ổn định qua các năm.
Hình 2.8: Phí thu từ dịch vụ trả lương qua thẻ của BCEL chi nhánh
Savannakhet (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của BCEL chi nhánh Savannakhet)
Đánh giá mở rộng dịch vụ trả lương qua thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào chi nhánh Savannakhet
thương Lào chi nhánh Savannakhet
2.4.1 Những kết quả đạt được
Trong thời gian qua, Chi nhánh đã mở rộng mạng lưới hoạt động, với sự hiện diện của các chi nhánh và phòng giao dịch tại hầu hết các địa phương trong tỉnh Savannakhet.
Chi nhánh đã nỗ lực vượt qua cạnh tranh trên thị trường, giúp duy trì và phát triển các dịch vụ Những thành tựu đạt được đã góp phần quan trọng vào việc tăng doanh thu cho ngân hàng.
Vào thứ ba, Chi nhánh ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể trong số lượng khách hàng, kéo theo sự gia tăng trong số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ trả lương qua thẻ Kết quả là, Chi nhánh đã đạt được những thành tựu nhất định từ dịch vụ này, với phí thu được từ dịch vụ trả lương qua thẻ ngày càng tăng qua các năm.
Thứ năm, Chi nhánh nằm trong top 5 ngân hàng đứng đầu thị trường về dịch vụ trả lương qua thẻ ngân hàng trên địa bàn tỉnh Savannakhet.
Thứ nhất, kết quả hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh chưa xứng với quy mô và vị thế của Chi nhánh.
Mức phí dịch vụ cho mỗi lần giao dịch trả lương qua thẻ hiện đang cao hơn so với mặt bằng chung trên thị trường và các ngân hàng khác.
Trong quá trình giao dịch, khách hàng thường gặp phải lỗi đường truyền, dẫn đến việc giao dịch bị gián đoạn Hệ quả là nhiều người phải chờ từ 1 đến 2 ngày mới nhận được lương qua thẻ, thậm chí một số đơn vị còn nhận lương gần cuối tháng, gây ra sự không hài lòng cho khách hàng.
Mặc dù BCEL chi nhánh Savannakhet nằm trong top 5 ngân hàng hàng đầu về dịch vụ trả lương qua thẻ, nhưng thị phần của chi nhánh chỉ đứng thứ 4, cho thấy sự hạn chế trong việc phát triển dịch vụ này Điều này đáng chú ý bởi vì nhân lực và vật lực của chi nhánh không thua kém so với các ngân hàng khác.
Theo khảo sát vào thứ năm, phần lớn khách hàng tại chi nhánh BCEL Savannakhet chưa hài lòng với chất lượng dịch vụ trả lương qua thẻ.
2.4.3 Nguyên nhân của hạn chế
Tâm lý và thói quen sử dụng tiền mặt vẫn còn phổ biến trong xã hội, mặc dù đã có sự thay đổi trong thời gian qua Nhiều đơn vị vẫn chưa áp dụng việc trả lương qua thẻ, đặc biệt ở Savannakhet, nơi kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ như các vùng khác ở Lào.
Mặc dù đã áp dụng công nghệ vào Chi nhánh, nhưng sự phát triển khoa học công nghệ tại Lào vẫn còn hạn chế, dẫn đến một số sai sót chưa được khắc phục Điều này thường gây ra lỗi trong đường truyền thông tin và gián đoạn trong các giao dịch.
Thứ ba, sự cạnh tranh trên thị trường gay gắt cũng khó khăn cho việc mở rộng dịch vụ trả lương qua thẻ của Chi nhánh.
Chi nhánh gặp nhiều hạn chế trong khả năng đầu tư cơ sở hạ tầng cho dịch vụ trả lương qua tài khoản, bao gồm vốn đầu tư vào máy ATM, chất lượng đường truyền kém, chi phí tiếp quỹ và nhân lực cao, cùng với số lượng điểm POS còn ít Bên cạnh đó, việc chăm sóc khách hàng sử dụng dịch vụ ATM chưa được chú trọng, dẫn đến việc xử lý các vướng mắc của khách hàng không kịp thời.
Công tác thông tin và tuyên truyền về việc thực hiện Chỉ thị của chính phủ chưa được triển khai đầy đủ và đồng bộ đến các cấp, ngành và địa phương Điều này dẫn đến việc lượng sử dụng tiền mặt vẫn chưa giảm đáng kể, trong khi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt vẫn chưa được phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng.
Tính đồng bộ trong việc phối hợp giữa các chi nhánh, người hưởng lương, tập đoàn bán lẻ và các đơn vị cung ứng dịch vụ để triển khai các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt vẫn còn thấp.
Hoạt động marketing của Chi nhánh vẫn chưa hiệu quả, chưa tận dụng tối đa tiềm năng khách hàng trong tỉnh, đặc biệt là các trường học vùng cao và cán bộ giáo viên Đây là nhóm khách hàng tiềm năng mà Chi nhánh cần chú trọng hơn trong chiến lược phát triển dịch vụ.
Thứ năm, Chi nhánh quá nghiêng về tăng số lượng phát hành thẻ.
Việc tổ chức hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng còn thiếu sót, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút tiền lương và giao dịch tại các điểm ngân hàng Quy trình giải quyết khiếu nại của khách hàng diễn ra chậm chạp, phải trải qua nhiều thủ tục phức tạp Hiện tại, nhiều máy ATM chỉ hỗ trợ một số chức năng cơ bản như rút tiền, tra cứu và in sao kê, trong khi các dịch vụ chuyển khoản và tiện ích khác vẫn chưa được triển khai, làm giảm tính tiện dụng của thẻ ATM.
Vào thứ Sáu, công tác thông tin và tuyên truyền về việc kết nối giữa Banknetvn và Smartlink chưa được thực hiện đầy đủ và kịp thời Điều này dẫn đến việc khách hàng không nhận được thông báo cần thiết, gây khó khăn trong việc rút tiền linh hoạt từ các máy ATM của ngân hàng khác trong liên minh.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TRẢ LƯƠNG QUA THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG LÀO
3.1 Định hướng phát triển của Ngân hàng ngoại thương Lào - chi nhánh
3.1.1 Định hướng phát triển chung