Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng Hợp tác xã
Khái niệm và mục tiêu hoạt động
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện các hoạt động ngân hàng, bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân Các loại hình ngân hàng được phân loại theo tính chất và mục tiêu hoạt động, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách và ngân hàng hợp tác xã.
Theo Luật các TCTD năm 2010, ngân hàng hợp tác xã được định nghĩa là ngân hàng của các quỹ tín dụng nhân dân, nhằm liên kết hệ thống và hỗ trợ tài chính cho các quỹ này Ngược lại, ngân hàng thương mại thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và kinh doanh khác với mục tiêu lợi nhuận.
Tính chất và mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) và Ngân hàng Thương mại (NHTM) hoàn toàn khác nhau NHHTX không đặt lợi nhuận làm mục tiêu chủ yếu, trong khi NHTM hoạt động với mục tiêu lợi nhuận.
Hoạt động của Ngân hàng Hợp tác xã
Ngân hàng Hợp tác xã khác biệt rõ rệt so với Ngân hàng Thương mại ở hoạt động chủ yếu của mình, đó là điều hòa vốn và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho các thành viên, cụ thể là các quỹ tín dụng nhân dân.
Theo Điều 117, mục 5 của Luật các TCTD 2010, các quỹ tín dụng nhân dân có thể mở tài khoản tiền gửi cho các thành viên, nhận tiền gửi và cho vay điều hòa vốn theo quy chế đã được Hội đồng quản trị ngân hàng hợp tác xã thông qua Ngoài ra, các quỹ này cần xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu của thành viên và phục vụ lợi ích cộng đồng Cuối cùng, họ cũng phải thực hiện các hoạt động ngân hàng khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, “Ngân hàng hợp tác xã đuợc thực hiện một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác” (Điều 117, mục 5, Luật các TCTD 2010) Theo đó,
Hoạt động ngân hàng bao gồm việc kinh doanh và cung ứng các dịch vụ tài chính thường xuyên, trong đó có nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Theo Khoản 12, Điều 4, Luật các TCTD 2010, ngân hàng Hợp tác xã được phép cấp tín dụng cho khách hàng không phải là quỹ tín dụng nhân dân thành viên, miễn là đáp ứng nhu cầu điều hòa vốn của các quỹ này Tuy nhiên, hoạt động cho vay không phải là lĩnh vực chính của ngân hàng Hợp tác xã, do đó, các sản phẩm tín dụng mà họ cung cấp chưa đa dạng và phức tạp như các ngân hàng thương mại.
Thực vậy, hoạt động của NHTM khá đa dạng, quy định tại Điều 98, mục 2 Luật các TCTD 2010:
“1 Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác.
2 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài.
3 Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây: a) Cho vay; b) Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; c) Bảo lãnh ngân hàng; d) Phát hành thẻ tín dụng; đ) Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; e) Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
4 Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
5 Cung ứng các phương tiện thanh toán.
6 Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây: a) Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; b) Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận”.
Nghiệp vụ cấp tín dụng của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) và Ngân hàng Thương mại (NHTM) thể hiện sự khác biệt rõ rệt NHHTX chỉ cung cấp các dịch vụ tín dụng đơn giản, chủ yếu là cho vay và bảo lãnh ngân hàng, mà không đa dạng như NHTM Do đó, nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn tại NHHTX có thể được xem là cho vay trung và dài hạn.
Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung- dài hạn
Khái niệm tín dụng trung- dài hạn
> Khái niệm về tín dụng
Theo nguồn gốc từ La tinh cổ xưa, "tín dụng" xuất phát từ từ "credese", mang nghĩa "tín nhiệm" hoặc "tin tưởng" Qua nhiều thế kỷ, thuật ngữ này vẫn giữ gần như nguyên vẹn ý nghĩa ban đầu là "cho vay" hoặc "tín dụng", dựa trên niềm tin rằng người vay sẽ hoàn trả số tiền cùng với lãi suất theo các điều khoản đã thỏa thuận Niềm tin này phụ thuộc vào hai nguyên tắc cơ bản: các chủ nợ tin tưởng vào thời hạn vay và khả năng hoàn trả các khoản tiền tạm ứng.
Tín dụng hiện nay được hiểu qua nhiều quan điểm khác nhau Theo John Lock (2010), tín dụng không phải là tiền, mà là sự kỳ vọng về tiền, không bị giới hạn bởi thời gian Điều này cho thấy rằng trong quan hệ vay mượn, cả người cho vay và người đi vay đều kỳ vọng nhận được nhiều hơn những gì họ có Quan hệ tín dụng thể hiện sự vận động của tiền tệ, với T là số tiền ban đầu và T’ là số tiền sau khi cho vay; nếu sử dụng hiệu quả, T’ sẽ lớn hơn T Jonothan Golin (2010) định nghĩa tín dụng là niềm tin hoặc kỳ vọng thực tế, khi người cho vay sẵn sàng cho vay và sẽ được hoàn trả theo thỏa thuận, trong khi rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra sự không hoàn trả.
Mác đã mô tả tín dụng như một quá trình tạm thời, trong đó tiền chỉ chuyển từ người sở hữu sang nhà tư bản hoạt động mà không bị tiêu hao Ông nhấn mạnh rằng tiền không chỉ đơn thuần được chi ra hay bán đi, mà thực chất là cho vay với điều kiện nó sẽ trở lại tay người sở hữu sau một thời gian nhất định Để đảm bảo điều này, tiền phải giữ nguyên giá trị và gia tăng trong quá trình lưu thông.
Tín dụng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) và bên đi vay, bao gồm các tổ chức kinh tế và cá nhân, trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn Trong hoạt động ngân hàng, tín dụng đóng vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản và mang lại lợi nhuận cao, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, được Quốc hội Việt Nam ban hành vào ngày 29/6/2010, quy định hoạt động cấp tín dụng thông qua các nghiệp vụ như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các hình thức cấp tín dụng khác Nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào hoạt động cho vay, trong khi các hoạt động tín dụng khác như bảo lãnh, chiết khấu và thuê mua tài chính sẽ không được phân tích sâu.
> Khái niệm về tín dụng trung- dài hạn
Trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng trung- dài hạn là loại tín dụng có thời gian hoàn vốn từ trên 01 năm đến tối đa 05 năm, thường được sử dụng để đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh và dịch vụ Tín dụng trung hạn thường phục vụ cho việc mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật và xây dựng các công trình nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh Ngược lại, tín dụng dài hạn có thời gian trên 05 năm, chủ yếu được dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các xí nghiệp mới Tín dụng trung và dài hạn giúp hình thành vốn cố định, mua sắm máy móc, xây dựng cơ sở vật chất, từ đó nâng cao công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm, góp phần mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị trường.
Nguồn tiền để TCTD cấp tín dụng trung- dài hạn hình thành từ 5 nguồn:
Nguồn tự có của ngân hàng bao gồm vốn điều lệ, vốn được cấp, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ và quỹ dự phòng tài chính Các nguồn này còn được xác định sau khi trừ đi giá trị nguyên giá của các khoản mua, đầu tư tài sản cố định, góp vốn, mua cổ phần theo quy định pháp luật, cùng với thặng dư vốn cổ phần và lợi nhuận không chia còn lại sau khi mua cổ phiếu quỹ.
• Nguồn huy động trung dài hạn: là những nguồn huy động từ tiền gửi của tổ
Nguồn huy động ngắn hạn để cho vay trung- dài hạn bao gồm tiền gửi từ tổ chức và cá nhân (không bao gồm tiền gửi ký quỹ và tiền gửi vốn chuyên dùng), cùng với nguồn từ việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi có thời hạn còn lại dưới 1 năm.
Vay nợ trung-dài hạn từ nước ngoài là một nguồn vốn lớn với lãi suất hợp lý, tuy nhiên, cần đảm bảo tỷ lệ an toàn hoạt động ngân hàng Nguồn tiền này chỉ được phép sử dụng cho các khoản vay trung-dài hạn.
Nguồn tài trợ ủy thác là khoản vốn được các tổ chức quốc tế chuyển giao cho ngân hàng, cho phép ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay theo thỏa thuận đã ký kết giữa hai bên.
Ngân hàng thực hiện cho vay hoặc đầu tư theo chỉ định từ nước ngoài, và nhận được một tỷ lệ phần trăm cũng như chênh lệch lãi suất từ các khoản vay này.
Đặc điểm của tín dụng trung- dài hạn
Khoản tín dụng trung và dài hạn thường có độ rủi ro cao do yêu cầu vốn lớn, thời gian đầu tư dài và khả năng thu hồi vốn chậm Các rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải bao gồm rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất trong bối cảnh lạm phát, và rủi ro tín dụng phụ thuộc vào kết quả dự án đầu tư Những yếu tố vi mô và vĩ mô như chính sách, thị trường, thiên tai và chiến tranh có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của dự án Ngân hàng thường áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn để bù đắp chi phí huy động vốn và rủi ro, với lãi suất có thể cố định hoặc biến đổi theo thị trường như LIBOR hay SIBOR.
> Vốn đầu tư lớn, thời gian dài, thu hồi vốn chậm
Tín dụng trung dài hạn chủ yếu tài trợ cho bất động sản, công cụ lao động và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đòi hỏi khối lượng vốn lớn và thời gian đầu tư dài Các khoản tín dụng này thường được hoàn trả dựa vào khấu hao và lợi nhuận từ dự án đầu tư Trong khi đó, ngân hàng phải đầu tư vốn trong suốt quá trình xây dựng dự án và chỉ thu hồi vốn khi dự án đi vào hoạt động, dẫn đến thời gian thu hồi vốn chậm.
Phân loại tín dụng trung- dài hạn
Tín dụng theo dự án đầu tư là hình thức cấp tín dụng dựa trên việc đánh giá hiệu quả và khả thi của dự án Ngân hàng không chỉ thực hiện cho vay mà còn phải thẩm định các yếu tố như chi phí sản xuất, giá thành thị trường và quy trình công nghệ Việc cấp tín dụng ràng buộc ngân hàng với người vay trong thời gian dài từ 3 đến 7 năm, do đó cần nghiên cứu kỹ lưỡng và xem xét các rủi ro có thể xảy ra Hình thức cho vay này bao gồm hai loại.
- Tín dụng hợp vốn (Cho vay đồng tài trợ)
Cho vay đồng tài trợ là hình thức cho vay do một nhóm tổ chức tín dụng thực hiện cho các dự án lớn, với một tổ chức tín dụng làm đầu mối Hình thức này được áp dụng khi các dự án đầu tư yêu cầu vốn lớn mà ngân hàng đơn lẻ không thể đáp ứng Ngân hàng thường có giới hạn về mức đầu tư so với tổng nguồn vốn, nhằm đảm bảo an toàn tài sản Dù có thể đáp ứng toàn bộ vốn cho một số dự án, nhưng do rủi ro cao, ngân hàng không muốn gánh vác một mình Do đó, cho vay đồng tài trợ giúp ngân hàng phân tán rủi ro và tối ưu hóa nguồn vốn cho các dự án dài hạn, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.
Tín dụng trực tiếp, hay cho vay trực tiếp theo dự án, là hình thức tín dụng trung-dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng thương mại không chỉ cho vay mà còn chịu trách nhiệm quản lý và thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư của khách hàng, bao gồm quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ và tiêu chuẩn thiết bị Việc cấp tín dụng ràng buộc ngân hàng với người vay trong một khoảng thời gian nhất định, do đó cần nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra Lựa chọn dự án tốt là yếu tố quyết định thành công của hình thức tín dụng này.
> Tín dụng thuê mua- dịch vụ thuê mua
Hoạt động chính của tổ chức tín dụng (TCTD) là cung cấp tín dụng để khách hàng mua tài sản Khi khách hàng không đủ điều kiện vay, ngân hàng thương mại sẽ mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho thuê lại Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản để sử dụng theo hợp đồng Nếu hợp đồng kèm theo cam kết của người thuê về việc mua lại tài sản sau khi kết thúc thời gian thuê, thì đó được gọi là thuê tài chính Ngược lại, nếu không có cam kết này, thì được xem là thuê hoạt động hoặc thuê đơn giản.
Tài sản cho thuê bao gồm động sản và bất động sản như nhà cửa, máy móc, thiết bị văn phòng Tín dụng thuê mua có nhiều hình thức như thuê mua ba bên, hai bên, tái thuê mua và thuê mua hợp tác Đối với ngân hàng, việc cho thuê giúp đa dạng hóa sử dụng vốn, mở rộng khách hàng, tăng sản phẩm ngân hàng và giảm rủi ro Ngân hàng vẫn giữ quyền sở hữu pháp lý đối với thiết bị cho thuê, cho phép nhanh chóng thu hồi nếu người thuê vi phạm hợp đồng Đối với người đi thuê, họ không cần bỏ ra số tiền lớn để mua thiết bị mà vẫn có thể sử dụng công nghệ tiên tiến, hạn chế tình trạng lỗi thời Mô hình tín dụng thuê mua đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp thiếu vốn tiếp cận máy móc hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
> Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm
Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm là cam kết của ngân hàng, đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi họ không hoàn thành cam kết Hình thức bảo lãnh này áp dụng cho việc nhập khẩu máy móc và thiết bị, với thời hạn tối thiểu là một năm, nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà xuất khẩu trong trường hợp khách hàng không trả nợ đúng hạn.
Hình thức trả nợ dần được áp dụng khi chủ đầu tư không đủ khả năng thanh toán một lần Chủ đầu tư ký hợp đồng với bên xuất khẩu để trả nợ theo giá trị thiết bị hàng năm, dưới sự bảo lãnh của ngân hàng Phương thức này mang lại lợi ích cho chủ đầu tư vì họ không cần chi một khoản tiền lớn ngay lập tức, mà có thể trả dần khi máy móc bắt đầu sinh lời Tuy nhiên, nếu chủ đầu tư không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng bảo lãnh sẽ phải thanh toán thay, trở thành chủ nợ chính của nhà đầu tư.
Vai trò của tín dụng trung- dài hạn
1.2.4.1 Đối với nền kinh tế
Tín dụng trung- dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện Nó không chỉ ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển kinh tế mà còn kích thích sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò là công cụ thiết yếu cho mọi hoạt động kinh tế xã hội Trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mọi chu kỳ đều khởi đầu và kết thúc bằng tiền, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái mở rộng sản xuất.
Tín dụng trung-dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn và tăng tỷ trọng ngành sản xuất vật chất, từ đó tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững Đầu tư cho vay trung-dài hạn không chỉ góp phần phát triển khoa học công nghệ mà còn tạo ra việc làm và ổn định cho các doanh nghiệp Đây cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, với đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là hai lĩnh vực hợp tác phổ biến Ngân hàng giữ vai trò hỗ trợ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.2.4.2 Đối với hoạt động ngân hàng
Tín dụng trung- dài hạn đóng góp đáng kể vào lợi nhuận của ngân hàng, với vai trò là trung gian tài chính quan trọng, ngân hàng khơi nguồn vốn từ các nguồn tiền nhàn rỗi và cho vay ở những nơi có cơ hội sinh lời Qua đó, ngân hàng không chỉ thu hút vốn mà còn phân phối dưới hình thức cho vay để tạo ra lợi nhuận Ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa trên ba nghiệp vụ chính, trong đó nghiệp vụ nợ là một phần thiết yếu.
(huy động tạo nguồn vốn), nghiệp vụ có (cho vay đối với nền Kinh tế) và nghiệp vụ trung gian.
Tín dụng trung và dài hạn không chỉ nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng mà còn là hoạt động chiến lược quan trọng trong hoạt động của các tổ chức tài chính.
Các khoản tín dụng trung và dài hạn quy mô lớn với lãi suất cao không chỉ mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng mà còn thu hút khách hàng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng trong tương lai sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh.
Tín dụng trung- dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp ngân hàng thực hiện chức năng xã hội và thúc đẩy nền kinh tế Ngân hàng không chỉ là người cho vay mà còn là người đi vay, từ đó thể hiện vai trò tài trợ lớn cho nền kinh tế Thông qua các hoạt động tín dụng, ngân hàng góp phần mở rộng vốn đầu tư và gia tăng sản phẩm xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
1.2.4.3 Đối với các doanh nghiệp
Tín dụng trung- dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong các ngành khoa học ứng dụng Máy móc và thiết bị hiện đại là yếu tố then chốt trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn do chi phí đầu tư ban đầu lớn, trong khi vốn tự có lại có hạn.
Tín dụng trung và dài hạn đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, góp phần tạo ra những tác động tích cực trong bối cảnh hiện nay.
Doanh nghiệp liên tục đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng hàng hóa, từ đó cải thiện vị thế trên thị trường và tăng cường hiệu quả hoạt động.
- Thứ hai, tín dụng trung-dài hạn giúp hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh
Tín dụng trung-dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Để tiếp cận nguồn vốn này, doanh nghiệp cần xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi và đảm bảo hoạt động hiệu quả, từ đó tạo ra lợi nhuận để thực hiện các điều khoản hợp đồng tín dụng, đảm bảo hoàn trả gốc và lãi đúng hạn Ngân hàng cũng thực hiện kiểm soát chặt chẽ trong quá trình cho vay, yêu cầu doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả, nhằm đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng để duy trì khả năng thanh toán và lợi nhuận trong kinh doanh.
Tín dụng trung- dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp tập trung vốn sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong việc tận dụng cơ hội kinh doanh Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện các dự án đầu tư do thiếu nguồn vốn cần thiết, đặc biệt là những dự án yêu cầu đầu tư lớn và thời gian dài Ngoài ra, việc vay vốn trung dài hạn từ ngân hàng cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, cần xem xét từ ba góc độ khác nhau.
> Trên góc độ kinh tế xã hội
Hiệu quả tín dụng trung và dài hạn được đánh giá qua khả năng đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội, bao gồm: (i) tạo ra việc làm cho người lao động; (ii) góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia; (iii) tăng cường xuất khẩu và ảnh hưởng đến thu-chi ngoại tệ; (iv) điều tiết thu nhập và tiết kiệm ngoại tệ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế và tác động đến cung cầu hàng hóa.
Hiệu quả tín dụng trung-dài hạn của ngân hàng được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu, từ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
> Trên góc độ doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhận vốn trung-dài hạn từ ngân hàng để tài trợ cho các dự án đầu tư và mua sắm thiết bị Để khoản tín dụng này hiệu quả, không chỉ cần đủ vốn mà còn phải được cung cấp đúng thời điểm, giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội trong môi trường cạnh tranh Ngân hàng cần đảm bảo thu hồi vốn đúng lúc, phù hợp với chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp và xem xét các yếu tố môi trường tác động Ngoài việc cung cấp vốn, ngân hàng còn hỗ trợ doanh nghiệp thông qua tư vấn đầu tư, góp phần vào sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.