TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM THEO TIÊU CHUẨN BASEL II
Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II tại một số
Tại các ngân hàng thương mại toàn cầu, đặc biệt là các nước thành viên Basel, Basel II đã được triển khai chính thức từ năm 2007 Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại ở các nước phát triển đã tuân thủ các quy định của Basel II và đang dần tiếp cận Basel III Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc áp dụng các tiêu chuẩn này có thể cung cấp những bài học quý giá cho các quốc gia khác.
Nhật Bản, thành viên của nhóm G10, đã thành công trong việc áp dụng Basel II Vào đầu năm 2006, Cơ quan giám sát ngân hàng Nhật Bản (FSA) đã ban hành Pháp lệnh quy định vốn mới và hướng dẫn giám sát, nhằm hướng dẫn các ngân hàng thực hiện các yêu cầu trong các trụ cột 1, 2 và 3 của Basel II.
Kể từ năm 2007, các ngân hàng Nhật Bản đã tự nguyện áp dụng các nguyên tắc của Basel II và phương pháp đánh giá nội bộ IRB Theo báo cáo của FSA, 70% ngân hàng Nhật Bản đã thiết lập hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ đạt tiêu chuẩn quốc tế, với tỷ lệ CAR lớn hơn 8%, trong khi các ngân hàng theo tiêu chuẩn trong nước có CAR lớn hơn 4% Để thực hiện các nguyên tắc của Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng, các ngân hàng Nhật Bản đã phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho hoạt động giám sát từ xa, giám sát tại chỗ của FSA và hoạt động báo cáo theo quy định của FSA về vốn mới và giám sát theo Basel II.
Việc thực hiện Basel II tại Nhật Bản diễn ra thuận lợi nhờ vào kinh nghiệm từ Basel I, hệ thống pháp lý giám sát hoàn thiện và sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ FSA Các ngân hàng Nhật Bản đã nỗ lực nâng cao chất lượng hệ số vốn, thực hiện triệt để các nguyên tắc và áp dụng phương pháp đánh giá nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng (RRTD) Kết quả là, các ngân hàng đã kiểm soát tốt RRTD và thành công trong việc áp dụng Basel II, trước khi chuyển sang thực hiện Basel III từ năm 2010.
Trái ngược với các quốc gia G10, Trung Quốc đã quyết định áp dụng chuẩn mực Basel 1.5, khi Cơ quan giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC) chỉ thực hiện các yêu cầu của Basel I và áp dụng quản trị rủi ro theo Basel II từ năm 2008 Ban đầu, CBRC đã chọn 5 ngân hàng để nghiên cứu tác động định lượng của Basel II, và từ năm 2010, yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại lớn có hoạt động quốc tế phải áp dụng Basel II, với khả năng gia hạn tối đa 3 năm cho những ngân hàng chưa thể thực hiện CBRC cũng cho phép các ngân hàng thực hiện từng bước các tiêu chuẩn Basel II, bắt đầu từ các phương pháp đơn giản như phương pháp chuẩn Cuối năm 2008, CBRC đã ban hành các thông báo liên quan đến việc thực hiện Basel II, bao gồm đo lường vốn, trích lập DPRR, xếp hạng nội bộ tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
CBRC áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ để đánh giá rủi ro tín dụng (RRTD), và nhiều ngân hàng cổ phần tại Trung Quốc đã phát triển hệ thống dữ liệu tương đối đầy đủ cùng với hệ thống xếp hạng tín dụng toàn diện Tuy nhiên, vẫn còn một khoảng cách lớn giữa các ngân hàng thương mại Trung Quốc và ngân hàng nước ngoài trong việc áp dụng phương pháp IRB Bộ phận cung cấp thông tin của các ngân hàng Trung Quốc chưa đáp ứng đủ thông tin cần thiết để tính toán tài sản có rủi ro, dẫn đến việc không phản ánh chính xác mức độ RRTD của ngân hàng.
Các ngân hàng Trung Quốc tuân thủ nghiêm ngặt quy định của CBRC về giới hạn cấp tín dụng và tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu theo phương pháp chuẩn hóa Họ cũng xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ và XHTDNB toàn diện Để phục vụ cho công tác quản trị rủi ro tín dụng, các ngân hàng này liên tục phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ nhằm đảm bảo phân tích dữ liệu đầy đủ và cung cấp báo cáo kịp thời.
Trụ cột 2: Cơ quan Quản lý Ngân hàng Trung Quốc (CBRC) đã nỗ lực đáng kể trong công tác giám sát Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), CBRC hoàn toàn tuân thủ 16 trong số 25 nguyên tắc giám sát cơ bản và tuân thủ phần lớn 9 nguyên tắc còn lại.
Trụ cột 3 của hệ thống ngân hàng là công khai thông tin theo nguyên tắc thị trường, với số lượng ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán ngày càng tăng Tuy nhiên, các ngân hàng chưa niêm yết vẫn gặp khó khăn trong việc cung cấp thông tin đầy đủ cho thị trường, đặc biệt là thông tin tài chính quan trọng Thêm vào đó, sự không nhất quán trong các tiêu chuẩn thống kê do CBRC áp dụng khiến cho việc so sánh giữa các ngân hàng chỉ có thể thực hiện trong cùng một mức tầng Mặc dù đã nỗ lực thực hiện Basel II và áp dụng thành công Hiệp ước vốn Basel II vào năm 2011, các ngân hàng Trung Quốc vẫn đối mặt với thách thức trong việc tính toán rủi ro do thiếu tổ chức xếp hạng tín dụng trong nước và dữ liệu thông tin Những khó khăn này cũng phản ánh những thách thức mà các ngân hàng ở các nước đang phát triển gặp phải, dẫn đến chi phí cao trong việc áp dụng Basel II.
Ngân hàng ANZ, với hơn 180 năm hoạt động, hiện đang sở hữu mức vốn hóa thị trường lớn thứ ba tại Australia, chỉ sau ngân hàng Commonwealth và Westpac ANZ cũng là tập đoàn ngân hàng lớn nhất tại New Zealand và nằm trong top 50 ngân hàng lớn nhất thế giới.
Trước khi triển khai Basel II vào năm 2005, ANZ đã tiến hành một cuộc tự đánh giá toàn diện về hệ thống quản trị rủi ro Kết quả của cuộc đánh giá này cho thấy hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng cần được cải thiện để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
ANZ đã đạt được mức độ hoàn thiện tương đối theo chuẩn mực Basel II, tuy nhiên ngân hàng cần tiếp tục cải thiện một số vấn đề quan trọng Đầu tiên, cần nâng cấp và hoàn thiện kho dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu liên quan đến tình trạng không trả được nợ của khách hàng và tổn thất theo chu kỳ kinh doanh như yêu cầu của Basel II Thứ hai, ngân hàng cần nâng cấp hệ thống quản trị rủi ro tín dụng (RRTD) Cuối cùng, việc hoàn thiện hệ thống xếp hạng, kiểm tra và đánh giá RRTD theo chuẩn Basel II cũng rất cần thiết ANZ đã được cấp phép thực hiện Basel II bởi APRA - Cơ quan Quản lý Prudential Australia từ ngày 1/1/2008.
* Giai đoạn triển khai theo Basel II:
Hệ thống xếp hạng tín dụng của ANZ dựa trên tiêu chuẩn của tổ chức đánh giá tín nhiệm Standard & Poor và tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Basel II ANZ coi xác suất không trả được nợ là một tiêu chí quan trọng để đánh giá độ tin cậy của người vay trong quá trình xếp hạng khách hàng.
ANZ lựa chọn phương thức quản trị rủi ro hiện đại, sử dụng phương pháp định lượng trong đánh giá rủi ro trong từng giai đoạn.
ANZ thực hiện quản lý vốn theo phương pháp chủ động, xác định khẩu vị rủi ro hàng năm dựa trên chiến lược rủi ro đã được phê duyệt cho kỳ 3 năm.
Để xác định mức vốn phù hợp cho RRTD trong kỳ kế hoạch, ANZ thực hiện kiểm tra sức chịu đựng rủi ro bằng cách xây dựng các kịch bản kinh tế khác nhau Quá trình này giúp đảm bảo đủ vốn cho RRTD, cả trước và sau khi áp dụng các kỹ thuật giảm thiểu rủi ro Kết quả là xác định được mức vốn tăng thêm cần thiết để bù đắp cho các tổn thất có thể xảy ra trong các giai đoạn suy thoái kinh tế.
Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng và mức độ đáp ứng chuẩn Basel II tại ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam
2.2.1 Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam a, Rủi ro tín dụng
PVcombank được thành lập từ sự hợp nhất giữa PVFC và WTB, đã phải đối mặt với việc xử lý nợ xấu tồn đọng từ hai tổ chức này Đến cuối năm 2012, tỷ lệ nợ xấu của PVFC là 4,85%, với tổng nợ xấu lên đến 8.500 tỷ đồng, trong đó một nửa là nợ có khả năng mất vốn, chủ yếu đến từ các khoản nợ lớn của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) và Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), cả hai đều không có khả năng hoàn trả Hơn nữa, WTB cũng gặp nhiều vấn đề với các khoản cho vay, bao gồm dư nợ tín dụng dưới hình thức uỷ thác đầu tư và đặt cọc môi giới, đồng thời thiếu tài sản đảm bảo và trích lập dự phòng không đầy đủ.
Sau 3 năm kể từ khi sáp nhập, với sự hỗ trợ từ NHNN và sự chỉ đạo, hỗ trợ từ phía cổ đông lớn nhất là PVN, PVcombank đã giải quyết, thu hồi được 3.000 tỷ đồng nợ xấu, trong đó Vinashin là 224 tỷ đồng, Vinalines là 1.208 tỷ đồng Ngân hàng cẩn trọng hơn trong phát triển tín dụng gắn với TSBĐ, hạn chế rủi ro.
Bước sang giai đoạn thực hiện Đề án tái cơ cấu giai đoạn 2016-2020 gắn với xử lý nợ xấu, đến hết năm 2018, tình hình RRTD tại PVcombank như sau:
Hình 2.1 Chất lượng nợ cho vay của PVcombank các năm 2017-2018
Nợ cổ khả năng mất vốn 678.046 643.715
Chl tiét tđng/giâm dự phòng rù! ro tin dụng:
Dự phòng chung Triệu VND '
Dự phòng cự thê Triệu VND
Dự phóng rủi ro ưich lập trong năm (77.735) (128.644)
Sú dụng dự phòng rủi ro tin dụng ừong năm - -J _103.726
Dự phòng rủi ro trích lập ữong nâm _(58.445) _(14,302)
( Nguồn Thuyết minh BCTC của PVcombank năm 2018 )
Trong giai đoạn 2015-2018, tỷ lệ nợ xấu của PVcombank luôn duy trì dưới mức quy định 2% của NHNN, nhưng đã có dấu hiệu gia tăng, với tỷ lệ nợ xấu đạt 1,81% vào cuối năm 2018 Cụ thể, dư nợ xấu tính đến ngày 31/12/2018 là 1.724.508 triệu đồng, tăng 67,8% so với năm trước đó.
Tính đến năm 2017, nợ dưới tiêu chuẩn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ xấu với 42,9% và ghi nhận mức tăng mạnh 464,3% Đồng thời, nợ nghi ngờ cũng tăng 21,27%, trong khi nợ có khả năng mất vốn tăng 5,3% so với đầu năm.
Theo báo cáo của Đại hội đồng cổ đông năm 2018, PVcombank đã xử lý 30 khoản nợ xấu, tương ứng gần 6.000 tỷ đồng, và thu hồi được 2.800 tỷ đồng tính đến cuối năm 2018 Ngân hàng cũng đang nắm giữ 3.460 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt phát hành bởi VAMC, với tổng số nợ thu hồi đạt 327,04 tỷ đồng PVcombank tiếp tục gia hạn các trái phiếu VAMC để tối ưu hóa việc xử lý nợ xấu.
Trong 10 năm qua, NHNN đã trình cho vay tái cấp vốn liên quan đến trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành Đối với nợ xấu chuyển sang khoản mục trái phiếu đầu tư, cần phải trích lập dự phòng 20% mỗi năm trong 5 năm Do đó, tỷ lệ nợ xấu hiện tại không phản ánh chính xác thực trạng, vì PVcombank chỉ không còn rủi ro từ các khoản nợ này khi đã xử lý xong số nợ đã bán cho VAMC.
Dư nợ xấu tăng nhanh khiến chi phí dự phòng RRTD phải trích thêm tăng lên:
Năm 2018, dư nợ xấu của PVcombank tăng cao, dẫn đến việc ngân hàng này phải trích thêm dự phòng với mức tăng 183,7% so với năm trước Cụ thể, dự phòng tăng 799,48%, trong đó PVcombank đã sử dụng 103.726 triệu đồng cho dự phòng cụ thể, chiếm hơn 80% tổng số dự phòng đã trích lập trong năm, nhằm xử lý các khoản cho vay không thu hồi được.
Hình 2.2 Tăng/ giảm dự phòng RRTD tại PVcombank năm 2018
( Nguồn BCTC của PVcombank năm 2018 )
Trong giai đoạn tái cơ cấu, PVcombank cần chú ý đến việc phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro Ngân hàng được NHNN cho phép giữ nguyên nhóm nợ của Vinashin và Vinalines, cùng với các bên liên quan của WTB Theo Đề án tái cơ cấu bổ sung, PVcombank cũng duy trì nhóm nợ đủ tiêu chuẩn cho các khách hàng dãn thu hồi nợ, với lộ trình thoái lãi từ 2018 đến 2026 Đặc biệt, một số khoản nợ dù được CIC đánh giá cần chuyển nhóm nhưng khách hàng vẫn thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và đầy đủ.
Ngân hàng đã không cần trích lập thêm các khoản dự phòng và không phải thoái thu lãi dự thu tại thời điểm 31/12/2018 Đồng thời, mô hình tổ chức bộ máy quản trị rủi ro tín dụng cũng được xem xét và cải tiến để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro.
Công tác quản trị rủi ro tại PVcombank được thực hiện tập trung tại Hội sở, nơi đảm nhiệm các hoạt động quản lý rủi ro tín dụng Các chi nhánh của ngân hàng chuyên môn hóa vào việc kinh doanh sản phẩm và chăm sóc khách hàng, trong khi các nghiệp vụ khác sẽ được triển khai tại Hội sở.
Hình 2.3 Mô hình quản trị RRTD tại PVcombank
( Nguồn Báo cáo thường niên của PVcombank năm 2018 )
* Triển khai quản trị RRTD ở các cấp
Hội đồng quản trị (HĐQT) chịu trách nhiệm cao nhất về chất lượng và hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng (RRTD) HĐQT thực hiện việc phê duyệt chiến lược và chính sách liên quan đến RRTD, cũng như các hệ thống phân quyền và những nội dung chưa được phân cấp hạn mức phê duyệt.
Uỷ ban Quản lý rủi ro có nhiệm vụ tư vấn cho Hội đồng Quản trị (HĐQT) và ban hành các quy định quản lý rủi ro tín dụng (RRTD) dựa trên chiến lược đã được HĐQT phê duyệt Đồng thời, Ủy ban cũng thực hiện đánh giá tổng thể về hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro hiện tại và đề xuất các thay đổi cần thiết để cải thiện.
BĐH có trách nhiệm xây dựng và trình HĐQT phê duyệt các chính sách, quy trình quản lý rủi ro, cùng với các giới hạn rủi ro phù hợp với khẩu vị rủi ro của PVcombank Định kỳ hoặc khi cần thiết, BĐH sẽ rà soát và sửa đổi các quy trình này, đồng thời đảm bảo đủ nhân lực và tài chính cho mọi bộ phận liên quan Hệ thống quản lý thông tin và báo cáo về danh mục cấp tín dụng và rủi ro tín dụng cần được xây dựng và vận hành hiệu quả, nhằm cung cấp thông tin kịp thời và đầy đủ phục vụ cho việc phân tích và kiểm soát các rủi ro, đặc biệt là những rủi ro trọng yếu, cho HĐQT và Ban Kiểm soát.
Hội đồng sản phẩm tại PVcombank có nhiệm vụ xem xét và phê duyệt các sản phẩm tín dụng dựa trên nhóm khách hàng và ngành nghề, đảm bảo phù hợp với chiến lược và chính sách rủi ro của ngân hàng Đồng thời, hội đồng cũng đánh giá danh mục sản phẩm do các khối đề xuất để điều chỉnh hoặc ngừng triển khai những sản phẩm không hiệu quả.
- Cấp Khối, Phòng, Bộ phận
Khối QTRR đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và khung quản trị rủi ro Đơn vị này cũng cung cấp phương pháp và công cụ quản trị rủi ro cho Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành Ngoài ra, Khối QTRR còn đảm nhiệm vai trò thư ký cho Ủy ban Quản lý Rủi ro, đồng thời thực hiện giám sát và đánh giá các báo cáo liên quan đến rủi ro.