Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đi làm thêm của sinh viên trường Đại học Thương mại Hiện nay, vấn đề việc làm luôn là vấn đề nóng hổi, được không chỉ báo giới, các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp quan tâm mà nó đã ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường và đang không ngừng tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm để có được một công việc thích hợp mà có thể nuôi sống bản thân sau khi ra trường. Xét về năng lực hành vi, sinh viên là một phần quan trọng trong độ tuổi lao động với thể lực và trí lực rất dồi dào. Xét về mục đích, sinh viên đi học là mong muốn có kiến thức để có thể lao động vào làm việc sau khi tốt nghiệp. Thực tế, đông đảo sinh viên nói chung đã nhận thức được rằng có rất nhiều cách thức để tiếp nhận tri thức khác nhau và một trong những cách thức tiếp cận trực tiếp với thực tiễn và đang ngày càng phổ biến đối với thế hệ sinh viên Việt Nam đó là đi làm thêm. Hiện nay, hình ảnh các sinh viên Việt Nam vừa đi học vừa đi làm thêm đã trở nên không còn xa lạ với bất kì ai, thậm chí có những sinh viên đã bắt đầu đi làm thêm từ rất sớm, ngay từ năm nhất, năm hai. Các công việc làm thêm chủ yếu mang tính chất thời vụ, có thể đi làm ngoài giờ như gia sư, phát tờ rơi, bán hàng, phục vụ...Những công việc này thường giản đơn, không đòi hỏi tay nghề cao, không qua đào tạo bài bản nhưng thông qua đó sinh viên có thể học hỏi được kỹ năng, kinh nghiệm, tay nghề cũng như gia tăng mức thu nhập cũng như cọ xát thực tế, tạo các mối quan hệ, chứng tỏ được khả năng và bản lĩnh của mình. Không những vậy, sinh viên có thể tìm kiếm một môi trường phù hợp để áp dụng kiến thức đã học vào thực tế, trải nghiệm kỹ năng xử lý các tình huống phát sinh, từ đó giúp gia tăng cơ hội nghề nghiệp của mình sau khi ra trường. Việc làm thêm hiện nay đã trở thành một xu thế đối với sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Thương mại nói riêng. Đặc biệt, khi sống trong xã hội cạnh tranh như hiện tại, kiến thức xã hội và kiến thức thực tế ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tìm kiếm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp giữa nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Các nguồn tài liệu tham khảo
T Tên tài liệu Tác giả Khái niệm liên quan
Mô hình giả thuyết nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
1 Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của sinh viên
- Trường Đại học An Giang
G (Giảng viên Khoa Kinh tế - Trường Đại học An
Giang) TRẦN THỊ DIỄM THÚY (Giảng viên Khoa Sư phạm - Trường Đại học An
Công việc làm thêm hay công việc bán thời gian (part
- time work) được định nghĩa là việc làm mà trong đó số giờ làm việc ít hơn bình thườn g (Thur man
- Kinh nghiệ m kỹ năng sống
- Phươn g pháp nghiên cứu định lượng
- Phươn g pháp thống kê mô tả mẫu
Có 109 người tham gia khảo sát cho biết họ đang làm hoặc đã từng làm thêm tại các cơ sở kinh doanh trong tỉnh trong thời gian theo học, chiếm tỷ lệ 40,8%.
- 158 đáp viên không tham gia làm thêm tương đương 59,2% + 39,4% sinh viên muốn tập trung thời gian cho việc học
+ 20,2% các bạn mặc dù muốn đi làm thêm nhưng gia đình không ủng hộ + 17,4% các bạn cảm thấy không đảm bảo sức khỏe
+ Còn lại 11,9% và 11% sinh viên không muốn đi làm thêm do không có thời gian hoặc không gặp áp lực về kinh tế.
2 Nhu cầu làm thêm của sinh viên trường
- Tác động đã đưa ra những kết quả như: Đại học Ngoại
Hà Nội thực trạng và giải pháp
Hà Nội chuy ên môn nghiệ p vụ
- Tận dụng thời gian nhàn rỗi
- Muố n tự khẳn g định mình
- Tìm cơ hội việc làm khi ra trườn g vấn
+ Công việc được lựa chọn nhiều nhất là gia sư chiếm 65.1%, phát tờ rơi chiếm 21%, Maketting chiếm 19.1%
+ Thời gian làm việc chủ yếu là ngòi giờ học 61.4%; các ngày nghỉ 19.5%; còn lại là tranh thủ không cố định
+ Mục đích sử dụng tiền làm thêm là để học thêm chiếm 53.3%; nuôi sống bản thân 13.6%
+ Các nguồn cung cấp thông tin chủ yếu là qua trung tâm giới thiệu việc làm 28.7%; qua bạn bè 26.5%
3 Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới tới khả năng có việc làm của sinh viên đại học Ngoại
Lê Phương Lan Chu Thị Mai Phương Nguyễn
- Điểm đầu vào, điểm tốt nghiệ p,
- Phươn g pháp mô tả thống kê
- Tổng sinh viên có 60% sinh viên có việc
- 40% sinh viên chưa có việc làm trong đó chỉ có
Thương sau khi tốt nghiệp Thị
Khánh Trinh điểm tiếng anh
- Tha m gia hoạt động ngoại khóa
- Làm thêm trước khi tốt nghiệ p
- Xếp loại bằng tốt nghiệ p ước lượng việc theo đúng chuyên ngành đào tạo
4 Tiều luận khảo sát thực trạng làm thêm của sinh viên đại học
Lê Văn Thắng Trần Long Anh Trịnh Văn Nguyên Phạm Cao Phong Hoàng Mạnh Đạt Ngọc Đào Quang Dũng
- Ảnh hưởn g của làm thêm đến kết quả học tập
- Các kênh tìm kiếm việc làm
- Phươn g pháp phi thực nghiệm
- Phươn g pháp xử lý thông tin( ex el, so sánh tính tỉ trọng, các phép toán học cơ bản)
Theo khảo sát, có tới 68% sinh viên có nhu cầu làm thêm, trong đó 30% đang làm việc, 10% mong muốn tìm việc trong tương lai, và 28% sinh viên muốn làm thêm nhưng không tìm thấy cơ hội việc làm phù hợp.
- 46% sinh viên cho rằng làm thêm có ảnh hưởng đến kết quả, 54% cho rằng không ảnh hưởng đến kết quả
- 47% sinh viên lựa chọn làm gia sư
- Các kênh tìm kiếm: 44% từ bạn bè, thông qua nhà h được ưa chuộ ng trong sinh viên
- Nhữn g vấn đề trục trong quá trình làm thêm phân tích: mô tả và so sánh trường là 8%
- 8.3% sinh viên gặp vấn đề như lừa đảo không nhân lương
- Thời gian làm việc là trên 8h
6 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của học sinh sinh viên tỉnh
Cà Mau sau khi tốt nghiệp
Thạc sĩ Nguyễn Quang Thuận
- Nhân tố đào tạo ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến kết quả việc làm của HS, SV sau khi tốt nghiệp ra trường.
- Tạo điều kiện cho người được tuyển dụng tham gia bồi dưỡng và tự học để hỗ trợ
Môi trường kinh tế xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, từ đó cải thiện chất lượng đội ngũ nhân lực tại doanh nghiệp Để đạt được điều này, cần có chính sách phù hợp nhằm tạo ra môi trường thực tập cho học sinh, sinh viên trong quá trình học tập tại trường.
Nhân tố môi trường kinh tế - xã hội địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến cơ hội việc làm của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp Các hoạt động thông tin về việc làm được truyền thông rộng rãi giúp nâng cao nhận thức và kết nối giữa nhà tuyển dụng và ứng viên Hơn nữa, việc các nhà tuyển dụng mở rộng đầu tư sản xuất sẽ tạo ra nhu cầu tuyển dụng, từ đó tăng cường khả năng tìm kiếm việc làm cho các tân cử nhân.
Implications, challenges and opportunities for higher education
- Phát triển mối quan hệ
- Phươn g pháp nghiên cứu định tính
- Quan tâm đến thu nhập 60%
- Phát triển kỹ năng thực hành 9%
- Phát triển mối quan hệ nghề nghiệp 8%
- Phát triển kỹ năng cá nhân 7% triển kỹ năng cá nhân
8 Part-Time Job and Students’
Muluk - Thời gian làm việc trung bình
- Tiêu thời gian giải trí
- Thời gian làm việc trung bình là 20- 30h/ tuần
- Thu nhập đáp ứng được nhu cầu giáo dục như học phí, phí sinh hoạt,…
Nadia Yusra binti Mohd Nazri
- Tích lũy kiến thức, kỹ năng mềm
Làm việc bán thời gian có tác động tích cực đến sinh viên, giúp giảm tình trạng lười học và ham chơi, đồng thời tăng thu nhập cho họ Việc này không chỉ giúp sinh viên trang trải chi phí sinh hoạt mà còn hỗ trợ họ đạt được mục tiêu học tập và phát triển bản thân tại Malaysia.
+ Có được sự tích cực và kĩ năng giao tiếp về cả thể chất và tinh thần
- Tác động tiêu cực đến kết quả học tập, khó có thể cân bằng được giữa đi học và làm thêm…
10 The impact of part-time work on the academic performance of international students in
- Nhữn g công việc liên quan đến chuy ên ngàn h
- 80% sinh viên có việc làm trong thời gian đi học
- Giờ làm việc của sinh viên chưa tốt nghiệp có tỉ lệ nghịch với động lực thái độ học tập.
11 Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm của sinh đại học
Vương Quốc Duy Trương Thị Thúy Hằng Nguyễn Hồng Diễm
Lê Long Hậu Nguyễn Văn Thép Ong Quốc Cường
Hợp đồng làm thêm (part- time job) là một dạng lao động được thực hiện vài giờ trên tuần ít hơn so
- Kinh nghiệ m- kỹ năng sống
- Phươn g pháp thu nhập dữ liệu
- Phươn g pháp phân tích số liệu
- Công việc làm thêm chủ yếu là nhân viên phục vụ 40.2%; gia sư 15%; nhân viên bán hàng 13.4%
- Những nguyên nhân không đi làm thêm: không muốn ảnh hưởng đến kết quả học tập 30.1%; gia đình phản đối 28.3%
- Thu nhập một tháng: dưới 1 triệu chiếm 57.2%; 1-3 triệu 38.3%
Phần lớn sinh viên Đại học Cần Thơ làm thêm trong thời gian học, với tỷ lệ 50.3% sinh viên có hợp đồng làm việc toàn thời gian Nhiều sinh viên tham gia công việc bán thời gian với nhiều mục đích khác nhau, nhưng hầu hết đều nhận định rằng việc làm thêm là rất quan trọng.
12 Vấn đề làm thêm đối với sinh viên hiện nay
- Sự tích lũy kinh nghiệ m
- Sử dụng thời gian có ích
- Muố n khẳn g định bản thân
- Thực hành lý thuyế t đã học
- Tạo cho mình một quy tắc
- Phươn g pháp phân tích; so sánh tổng hợp dữ liệu sơ cấp thứ cấp
- 49% cho rằng thu nhập có yếu tố rất quan trọng, 37% cho rằng là quan trọng.
- 58% yếu tố có kinh nghiệm khi đi làm thêm.
- 60%, 95%, 92% lần lượt cho rằng khẳng định bản thân, được thực hành lý thuyết đã học, cần tạo cho mình một quy tắc không quan trọng.
- Thời gian làm 1-2 buổi/ tuần chiếm 27.48%; công việc có thời gian không cố định chiếm18.71%. gian làm thêm
Cơ sở lý luận
2.2.1 Các khái niệm liên quan đến đề tài.
(*)Nhân tố : là yếu tố chủ yếu gây ra, tạo ra cái gì đó; là sự vật, sự việc, hiện tượng.
Ảnh hưởng là tác động từ con người, sự kiện hoặc hiện tượng, có khả năng gây ra những biến đổi dần dần trong tư tưởng, hành vi hoặc quá trình phát triển của một cá nhân hoặc sự vật nào đó.
Quyết định là hành động dứt khoát thực hiện một việc cụ thể, lựa chọn một trong nhiều khả năng sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng.
Sinh viên là những người đăng ký vào các trường hoặc cơ sở giáo dục để tham gia các lớp học nhằm đạt được trình độ thành thạo trong môn học, theo sự hướng dẫn của giảng viên Họ cũng dành thời gian bên ngoài lớp học để thực hiện các hoạt động cần thiết cho việc chuẩn bị bài học và gửi bằng chứng về sự tiến bộ của mình Trong một nghĩa rộng hơn, sinh viên có thể là bất kỳ ai tham gia các khóa học trí tuệ chuyên sâu để làm chủ các kiến thức quan trọng, đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Việc làm thêm, hay còn gọi là việc làm part-time, đề cập đến các công việc không chính thức, không cố định và không ổn định bên cạnh công việc chính Thời gian làm việc thường dao động từ 3 đến 5 giờ mỗi ngày hoặc ít hơn, tùy thuộc vào tính chất của từng công việc.
2.2.2 Một số vấn đề khác liên quan tới đề tài
Nghiên cứu của Hielke (2004) chỉ ra rằng có ba nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định làm việc bán thời gian của người lao động tại các nước EU Các yếu tố này bao gồm chu kỳ kinh doanh, tổ chức thị trường lao động và hệ thống pháp luật, cùng với các yếu tố cấu trúc khác.
Nghiên cứu của Hielke chỉ ra rằng chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến sự biến động tỷ lệ việc làm bán thời gian trong cấu trúc lao động, đóng vai trò quan trọng trong việc điều chuyển lực lượng lao động linh hoạt theo từng giai đoạn Trong thời kỳ suy thoái, số lượng nhân viên làm việc theo ca gia tăng, khi các nhà tuyển dụng cung cấp việc làm bán thời gian để điều chỉnh số giờ làm việc, nhằm tránh sa thải và thất nghiệp dài hạn Do đó, chủ doanh nghiệp có thể giảm giờ làm của nhân viên hiện tại hoặc thuê thêm lao động bán thời gian để tiết kiệm chi phí trong giai đoạn khó khăn của chu kỳ kinh doanh.
Chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến tỷ lệ việc làm bán thời gian, khi nhà tuyển dụng có thể sử dụng công việc bán thời gian để đánh giá ứng viên cho vị trí toàn thời gian Đồng thời, trong thời kỳ suy thoái, họ cũng có thể cung cấp hợp đồng toàn thời gian cho nhân viên bán thời gian nhằm giảm thiểu rủi ro không cần thiết.
Trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, người lao động ngày càng chấp nhận công việc bán thời gian như một sự thay thế cho công việc toàn thời gian Tuy nhiên, khả năng tham gia vào thị trường lao động bán thời gian của những người có tay nghề thấp và phụ nữ có xu hướng giảm.
Tổ chức thị trường lao động và thể chế luật pháp
Các yếu tố thị trường lao động và thể chế luật pháp có ảnh hưởng lâu dài đến tỷ lệ lao động bán thời gian Các quy định pháp luật và thỏa ước lao động tập thể tác động đến việc phát triển việc làm bán thời gian qua ba cơ chế chính: đầu tiên, một số quy định về thời gian làm việc hạn chế khả năng của nhà tuyển dụng trong việc sử dụng lao động bán thời gian; thứ hai, các quy định về tiền lương, bảo trợ xã hội và thuế so sánh giữa việc làm bán thời gian và toàn thời gian ảnh hưởng đến nguồn cung lao động cho công việc bán thời gian; và cuối cùng, các quy định liên quan đến việc chuyển đổi từ toàn thời gian sang bán thời gian giúp người lao động cân bằng giữa cuộc sống và sự nghiệp, trong khi công việc bán thời gian ngày càng cho thấy ưu thế về linh hoạt và tiết kiệm chi phí cho nhà tuyển dụng.
Yếu tố cấu trúc khác
Việc làm bán thời gian đang trở thành một phương thức quan trọng giúp phụ nữ tham gia vào thị trường lao động, với tỷ lệ phụ nữ tăng lên tương ứng với sự gia tăng việc làm bán thời gian ở nhiều quốc gia Theo nghiên cứu của Fagan và cộng sự (1998), trong các gia đình có nam giới là trụ cột, phụ nữ thường được khuyến khích làm việc bán thời gian nhiều hơn so với nam giới.
Nghiên cứu về nhu cầu việc làm bán thời gian đã được thực hiện rộng rãi cả trong và ngoài nước Valletta (2013) đã chỉ ra rằng, trong giai đoạn từ 1976 đến 2013, sự gia tăng lao động bán thời gian thường xảy ra trong các thời kỳ suy thoái kinh tế Khi nền kinh tế suy giảm, chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến tỷ lệ lao động bán thời gian, dẫn đến nhu cầu lao động giảm, số giờ làm việc cũng giảm theo, và điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Nghiên cứu của Arne (1995) chỉ ra rằng việc làm bán thời gian mang lại lợi ích cho cả người sử dụng lao động và nhân viên, nhưng chính sách thu nhập và phúc lợi xã hội thường chỉ ưu ái lao động toàn thời gian, dẫn đến giảm hiệu quả công việc và lòng trung thành của người lao động bán thời gian Trong khi đó, nghiên cứu của Susan (2015) cho thấy tỷ lệ lao động bán thời gian tại Nhật Bản đã tăng lên 80% từ năm 1982 đến năm 1992, chiếm hơn 16% việc làm được trả lương năm 1992 nhờ vào các ưu đãi thuế và phúc lợi từ chính phủ dành cho lao động bán thời gian và người phối ngẫu của họ.
Một nghiên cứu thực nghiệm của Nguyễn Quốc Duy và cộng sự (2015) trên 400 sinh viên Trường Đại học Cần Thơ chỉ ra rằng thu nhập, năm học và kinh nghiệm sống có tác động tích cực và đáng kể đến quyết định làm thêm của sinh viên tại trường này.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Long (2009) về nhu cầu làm thêm của 480 sinh viên Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy 33,1% sinh viên tham gia làm thêm để rèn luyện chuyên môn, 31,3% vì lý do thu nhập, 12,5% muốn thử sức, 12,1% tận dụng thời gian rảnh, 7,7% để tự khẳng định bản thân, và 8,4% còn lại nhằm mở rộng giao tiếp và tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp.
Nghiên cứu của Lê Phương Lan & ctg (2015) chỉ ra rằng sinh viên Đại học Ngoại Thương có việc làm sau tốt nghiệp cao hơn nếu họ đã có kinh nghiệm làm thêm trong thời gian học Điều này cho thấy rằng việc tích lũy kinh nghiệm làm việc không chỉ giúp sinh viên nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm mà còn là động lực quan trọng để họ tham gia vào các công việc bán thời gian trong quá trình học tập.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đơn vị nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Thương Mại
Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm của sinh viên trường Đại họcThương mại.
Công cụ thu thập thông tin
Sử dụng mắt và các giác quan khác, máy tính, điện thoại
Quy trình thu thập thông tin
Xác định chuẩn dữ liệu:
Dữ liệu cần thu nhập: Các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đi làm thêm của sinh viên trường Đại học Thương Mại.
Xác định nguồn thu thập dữ liệu:
Nhóm nghiên cứu sẽ thu thập dữ liệu thông qua việc lập phiếu khảo sát online cho nghiên cứu định lượng Để đảm bảo số lượng và chất lượng thông tin thu thập, nhóm quyết định gửi phiếu khảo sát đến sinh viên các khóa để khuyến khích họ tham gia.
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phương pháp phỏng vấn, trong đó nhóm nghiên cứu đã lập bảng hỏi và tiến hành phỏng vấn trực tiếp 20 sinh viên của Đại học Thương Mại Kết quả phỏng vấn được ghi chép và thu âm để phục vụ cho quá trình phân tích sau này.
Nghiên cứu định lượng được tiến hành bằng phương pháp khảo sát thông qua phiếu khảo sát Với thời gian hạn chế và quy mô nhỏ, nhóm nghiên cứu đã quyết định thực hiện điều tra trên 113 sinh viên của Trường Đại học Thương Mại.
Chủ yếu dùng google form và các phiếu điều tra dùng cho khảo sát.
Tiến hành thu thập dữ liệu :
Các thành viên trong nhóm được phân công gửi phiếu khảo sát tới các sinh viên Thương Mại nhờ điền phiếu điều tra khảo sát.
Làm sạch dữ liệu: Để tăng độ chuẩn xác của thông tin thu được bước này nhằm tăng độ chuẩn xác cùa thông tin thu thập được.
Tổng hợp kết quả, số liệu thu thập.
Nhập và xử lý dữ liệu.
Sử dụng phần mềm SPSS để nhập và phân tích dữ liệu.
- Đưa ra kết luận về nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đi làm thêm của sinh viên trường Đại học Thương mại.
3.6 Xử lý và phân tích dữ liệu.
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả:
- Nhập dữ liệu vào phần mềm SPSS
- Dùng phần mềm SPSS để tổng hợp và phân tích số liệu, đưa ra những biểu đồ thể hiện kết quả thu được.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả nghiên cứu định lượng
4.1.1 Thống kê mô tả mẫu
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát và thu thập được 113 phiếu hợp lệ để phân tích thống kê, qua đó cung cấp thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của sinh viên Đại học Thương mại.
Biểu đồ về giới tính
Trong 113 sinh viên được khảo sát, có 64 bạn nữ chiếm 56,6% và 49 bạn nam chiếm 43,4%.
Biểu đồ về độ tuổi hiện tại
Trong 113 bạn sinh viên được khảo sát, có 18 bạn trong độ tuổi 18, chiếm 15,9%; 61 bạn trong độ tuổi 19, chiếm 54%; 26 bạn trong độ tuổi 20, chiếm 23% và 8 bạn hơn 20 tuổi, chiếm 7,1%.
Biểu đồ về việc đã/ đang/ chưa đi làm thêm của sinh viên
Trong số 113 sinh viên được khảo sát, có 42 sinh viên hiện đang làm thêm, chiếm 37,2% Trong khi đó, 27 sinh viên đã từng làm thêm nhưng hiện không còn, chiếm 23,9% Có 25 sinh viên chưa từng làm thêm nhưng có kế hoạch trong tương lai, chiếm 22,1% Cuối cùng, 19 sinh viên không làm thêm và cũng không có dự định làm trong thời gian tới, chiếm 16,8%.
Biểu đồ về lý do sinh viên không, chưa có dự định đi làm thêm
Về những bạn sinh viên đang/ đã/ có dự định đi làm thêm, ta có các biểu đồ sau:
Biểu đồ về thời điểm sinh viên đi làm thêm
Gần 48% sinh viên Đại học Thương Mại bắt đầu đi làm thêm từ năm nhất, trong khi 39,1% bắt đầu từ năm hai Chỉ có 8,7% sinh viên làm thêm vào năm ba và 4,3% vào năm bốn Điều này cho thấy sinh viên năm nhất có nhiều thời gian rảnh rỗi, dẫn đến việc họ tham gia vào công việc làm thêm khá đông.
Biểu đồ về sự tác động của gia đình
Theo một khảo sát, 89,9% phụ huynh ủng hộ việc sinh viên đi làm thêm, trong khi chỉ 10,1% ngăn cản điều này Việc cho con đi làm thêm sớm giúp sinh viên tự tin hơn, cải thiện khả năng sắp xếp thời gian một cách khoa học và hợp lý, cũng như mở rộng các mối quan hệ xã hội.
Biểu đồ về các vấn đề thường gặp khi đi làm thêm
Việc lựa chọn ca làm và sắp xếp thời gian giữa công việc và các hoạt động khác là một thách thức phổ biến mà sinh viên gặp phải khi tìm kiếm việc làm thêm.
Biểu đồ về công việc sinh viên làm
Sinh viên thường rất năng động và chăm chỉ trong việc khám phá nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau, từ gia sư, nhân viên phục vụ cho đến việc tự kinh doanh.
Biểu đồ về mối quan hệ của công việc làm thêm và ngành học
58% sinh viên chọn công việc làm thêm không liên quan tới ngành học; 42% chọn công việc liên quan tới ngành học
Biểu đồ về thời gian làm trung bình trong 1 tuần
Biểu đồ về lý do chọn công việc:
Có 58 sinh viên chọn đi làm thêm do có nhiều thời gian rảnh, 54 bạn đi làm để kiếm thêm thu nhập và các lý do khác như mở rộng mối quan hệ, rèn luyện chuyên môn,…
Biểu đồ về mức chi tiêu hàng tháng
Theo khảo sát, 60,9% sinh viên chi tiêu từ 2-3 triệu đồng mỗi tháng, trong khi 20,3% sinh viên có mức chi tiêu từ 1-2 triệu đồng Chỉ có 11,6% sinh viên có thu nhập từ 3-4 triệu đồng mỗi tháng, và 7,2% sinh viên chi tiêu trên 4 triệu đồng.
Biểu đồ về mức thu nhập từ công việc trong 1 tháng
Biểu đồ về độ yêu thích với công việc làm thêm hiện tại
56,5% sinh viên yêu thích và cảm thấy phù hợp với công việc làm thêm hiện tại; 43,5% sinh viên không yêu thích công việc hiện tại.
4.1.2 Kết quả xử lý SPSS
4.1.2.1 Phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha
Ảnh hưởng của thời gian đến quyết định đi làm thêm.
1 Công việc chiếm nhiều thời gian trong ngày TG1
2 Đủ thời gian cho học tập, nghỉ ngơi và giải trí TG2
Công việc giúp giảm bớt thời gian quá nhàn rỗi của bản thân TG3
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Kết luận: Cronbach’s Alpha của thang đo là 0.702 > 0.6 và không có biến nào có hệ số tương quan biến tổng dưới 0.3.
Ảnh hưởng từ bản thân đến quyết định đi làm thêm.
Ngoại hình phù hợp với công việc hiện tại BT1
2 Chỗ ở thuận tiện cho việc đi làm thêm BT2
Có phương tiện di chuyển thuận lợi BT3
4 Năng lực đáp ứng được công việc BT4
Mức lương từ công việc đủ đáp ứng được chi tiêu cá nhân BT5
Công việc giúp tích lũy được nhiều kinh nghiệm, phát triển kĩ năng mềm BT6
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Kết luận: Cronbach’s Alpha của thang đo là 0.826 > 0.6 và không có biến nào có hệ số tương quan biến tổng dưới 0.3
Biến BT1 có hệ số Cronbach’s Alpha If Item Deleted là 0.834, lớn hơn hệ số hiện tại nên biến BT1 sẽ bị loại bỏ
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Môi trường ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm.
STT Tên biến Kí hiệu
1 Đồng nghiệp là những người năng động, nhiệt tình MT1
2 Làm việc trong không gian sang tạo MT2
3 Giúp mở rộng các mối quan hệ mới MT3
4 Có các chế độ đãi ngộ hợp lý với nhân viên MT4
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Kết luận: Thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha là 0.791, vượt mức 0.6, và không có biến nào có hệ số tương quan biến tổng dưới 0.3 Biến MT4 có hệ số Cronbach’s Alpha If Item Deleted là 0.809, cao hơn hệ số hiện tại, do đó biến MT4 sẽ bị loại bỏ.
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Ảnh hưởng từ tác động phía gia đình tới quyết định đi làm thêm.
STT Tên biến Kí hiệu
1 Gia đình động viên, ủng hộ nên đi làm thêm GD1
2 Giảm bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình GD2
Gia đình muốn bạn đi làm thêm liên quan đến chuyên ngành học GD3
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Kết luận: Cronbach’s Alpha của thang đo là 0.628 > 0.6 và không có biến nào có hệ số tương quan biến tổng dưới 0.3.
Về quyết định đi làm thêm của sinh viên
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Kết luận: Cronbach’s Alpha của thang đo là 0.628 > 0.6 và không có biến nào có hệ số tương quan biến tổng dưới 0.3.
4.1.2.2 Phân tích nhân tố khám phá EFA cho biến độc lập.
Bảng 1: Kiểm định KMO và Bartlett
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy ,786
Bartlett's Test of Sphericity Approx Chi-Square 719,080 df 91
Sig ,000 Giá trị KMO = 0.786 > 0.5, chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là hoan toàn phù hợp
Kiểm định Bartlett: sig Bartlett’s test = 0.000 < 0.05 chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nhau
Bảng 2: Eigenvalues và tổng phương sai trích
Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Phân tích nhân tố theo phương pháp Principal Components với phép quay Varimax đã chỉ ra rằng 14 biến quan sát ban đầu được phân loại thành 4 nhóm khác nhau Kết quả này cho thấy giá trị tổng phương sai trích có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định cấu trúc của các biến.
Bốn nhân tố này giải thích 67.811% biến thiên của dữ liệu, vượt qua ngưỡng 50%, cho thấy chúng đạt yêu cầu Hệ số Eigenvalues của các nhân tố đều cao, lớn hơn 1, khẳng định tầm quan trọng của chúng trong phân tích.
4 có Eigen values thấp nhất là 1.042>1.
Bảng 3: Ma trận nhân tố
Các hệ số Factor Loading đều lớn hơn 0.5, cho thấy các nhân tố đảm bảo giá trị hội tụ trong phân tích EFA Mô hình nghiên cứu được chia thành 4 nhóm: ảnh hưởng từ bản thân đến quyết định đi làm thêm, môi trường tác động đến quyết định đi làm thêm, ảnh hưởng của thời gian tới quyết định đi làm thêm, và ảnh hưởng từ gia đình tới quyết định đi làm thêm.
4.1.2.3 Phân tích nhân tố khám phá EFA cho biến phụ thuộc.
Bảng 1: Kiểm định KMO và Bartlett
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling
Giá trị KMO = 0.570 > 0.5, chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là hoan toan phù hợp
Kiểm định Bartlett: sig Bartlett’s test = 0.000 < 0.05 chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nhau trong nhân tố
Bảng 2: Eigenvalues và tổng phương sai trích
Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Phân tích nhân tố được thực hiện theo phương pháp Principal Components với phép quay Varimax, cho thấy ba biến quan sát ban đầu được nhóm thành một nhóm Kết quả này cho thấy giá trị tổng phương sai trích đáng chú ý.
= 65.416% > 50%: đạt yêu cầu Khi đó có thể nói rằng 1 nhân tố này giải thích 65.416% biến thiên của dữ liệu Giá trị hệ số Eigenvalues của nhân tố = 1.962 > 1
Bảng 3: Ma trận nhân tố
Extraction Method: Principal Component Analysis. a 1 components extracted.
Các hệ số tải Factor Loading đều vượt quá 0.5, và không có biến nào đồng thời tải lên hai nhân tố với hệ số gần nhau, cho thấy nhân tố đảm bảo giá trị hội tụ trong phân tích EFA.
STT Tên nhân tố Nhân tố Các biến quan sát Loại
1 Ảnh hưởng từ bản thân đến quyết định đi làm thêm
BT BT3,BT5,BT2,BT4,TG1,BT6 Độc lập
2 Môi trường ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm
MT MT1,MT3,MT2 Độc lập
3 Ảnh hưởng của thời gian đến quyết định đi làm thêm
TG TG2,TG3,GD1 Độc lập
4 Ảnh hưởng của gia đinh tới quyết định đi làm thêm
GD GD2,GD3 Độc lập
5 Quyết định đi làm thêm của sinh viên
QD QD1,QD2,QD3 Phụ thuộc
Kết quả nghiên cứu định tính
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn 20 sinh viên năm hai tại Đại học Thương Mại, bao gồm 14 nữ và 6 nam Kết quả cho thấy, 14 sinh viên đang hoặc đã có công việc làm thêm, 3 sinh viên chưa đi làm nhưng có kế hoạch tìm việc trong thời gian tới, trong khi 3 sinh viên còn lại không có ý định làm thêm.
Trong một khảo sát về thời gian làm việc, 11 sinh viên chọn làm ca tối, 2 sinh viên chọn làm theo ca linh hoạt và 1 sinh viên làm ca sáng Lý do chính cho việc lựa chọn ca tối là do lịch học dày đặc, không có thời gian cho ca ban ngày, hoặc để tận dụng thời gian rảnh rỗi Các sinh viên này hiện đang học năm hai, trong đó 5 bạn đã bắt đầu làm thêm từ năm nhất và 9 bạn bắt đầu từ năm hai Họ cho biết thời gian đầu, các môn học không nhiều và chưa phải học chuyên ngành, nên muốn thử nghiệm các công việc làm thêm khi có nhiều thời gian rảnh.
Trong số 14 sinh viên đang hoặc đã đi làm thêm, có 12 bạn sở hữu phương tiện di chuyển cá nhân như xe đạp, xe đạp điện và xe máy, trong khi chỉ có 2 bạn sử dụng phương tiện công cộng như xe bus Tất cả các bạn đều nhất trí rằng việc có phương tiện cá nhân mang lại sự thuận tiện hơn trong việc đi làm thêm, giúp họ chủ động hơn về thời gian Điều này đặc biệt quan trọng đối với những công việc yêu cầu di chuyển nhiều như shipper hoặc giao hàng, nơi mà xe máy là phương tiện cần thiết.
Trong một khảo sát với 20 sinh viên, chỉ có 3 bạn được gia đình ngăn cấm không cho đi làm thêm, với lý do gia đình muốn các bạn tập trung hoàn toàn vào việc học Trong khi đó, 17 sinh viên còn lại cho biết gia đình họ không có ý kiến gì về việc làm thêm.
Nhiều nhân viên ca tối cảm thấy mệt mỏi khi phải học vào ca 1 hôm sau, đặc biệt là những người làm công việc phục vụ bàn, vì tính chất công việc yêu cầu di chuyển nhiều và mang vác nặng Nếu sức khỏe không tốt, họ sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì công việc lâu dài.
14 bạn đang hoặc đã làm thêm chia sẻ rằng họ trở nên năng động hơn, cải thiện kỹ năng giao tiếp và mở rộng mối quan hệ với đồng nghiệp cũng như bạn bè Họ cũng học được nhiều kỹ năng quan trọng trong việc xử lý tình huống.
Nhiều người đang tìm cách tăng thu nhập để giảm bớt gánh nặng tài chính cho gia đình, đồng thời tích lũy và tiết kiệm cho tương lai.
Đối với 6 bạn chưa tham gia làm thêm, việc này mang lại lợi ích rõ rệt như có nhiều thời gian rảnh để tập trung vào học tập và giải trí Họ cũng không phải lo lắng về những rủi ro như bị lừa đảo hay bị bóc lột sức lao động khi đi làm thêm.
1 Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu đề xuất mô hình lý thuyết các yếu tố tác động đến quyết định đi làm thêm đến trường của sinh viên ĐHTM.
Bài viết tổng kết lý thuyết về ý định thực hiện hành vi, tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của sinh viên ĐHTM Nghiên cứu này xem xét các yếu tố như động lực cá nhân, ảnh hưởng từ môi trường xung quanh và nhu cầu tài chính, nhằm hiểu rõ hơn về lý do sinh viên lựa chọn làm thêm trong quá trình học tập Thông qua việc phân tích các yếu tố này, bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về hành vi của sinh viên trong bối cảnh hiện nay.
Kết quả kiểm định chỉ ra rằng, hiện tại mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của sinh viên ĐHTM bao gồm nhiều yếu tố, được đo lường thông qua các biến khác nhau.
Kết quả đo lường giá trị thực trạng cho thấy các yếu tố tác động mạnh đến quyết định đi làm thêm của sinh viên ĐHTM.
Nghiên cứu cho thấy phần lớn sinh viên Đại học Thương Mại tham gia làm thêm trong thời gian học, với nhiều mục đích như nâng cao kỹ năng mềm, trải nghiệm công việc, rèn luyện tính tự lập và kiếm thêm thu nhập Đặc biệt, đa số sinh viên đều nhận thức được tầm quan trọng của việc làm thêm Các yếu tố tác động tích cực đến quyết định làm thêm bao gồm yếu tố chủ quan, thu nhập, chi tiêu, thời gian rảnh, môi trường làm việc và ảnh hưởng từ gia đình.
Trong xã hội hiện nay, vấn đề việc làm đang trở thành một chủ đề nóng, thu hút sự quan tâm của báo giới, cơ quan ban ngành và doanh nghiệp Nhiều sinh viên, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đã nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để đạt được mục tiêu trong tương lai Việc làm thêm không còn là hiện tượng nhỏ lẻ mà đã trở thành xu thế phổ biến, gắn liền với đời sống học tập của sinh viên Ngoài việc kiếm thêm thu nhập, sinh viên còn mong muốn tích lũy kinh nghiệm thực tế và học hỏi nhiều hơn từ môi trường làm việc.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Xã hội và doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến thế hệ trẻ, đồng thời tăng cường quản lý và phối hợp với các trường học Mục tiêu là tạo ra nhiều cơ hội học hỏi cho sinh viên, giúp họ phát huy tối đa nguồn lực dồi dào của mình.
Việc làm thêm mang lại nhiều lợi ích cho sinh viên, bao gồm việc giúp họ hình thành tư duy chủ động, định hướng nghề nghiệp đúng đắn và áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn Tuy nhiên, sinh viên cũng cần nhận thức rõ những hạn chế của việc làm thêm, như ảnh hưởng đến thời gian học tập và sức khỏe Do đó, việc cân nhắc giữa công việc và học tập là rất quan trọng để đạt được sự phát triển toàn diện.
Từ kết quả nghiên cứu, một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả đi làm thêm của sinh viên như sau:
Nhà trường cần thiết lập một trung tâm hỗ trợ và tư vấn việc làm bán thời gian cho sinh viên, giúp họ tìm kiếm việc làm trong khuôn viên trường một cách an toàn và đáng tin cậy Việc này không chỉ giúp sinh viên yên tâm về công việc mà còn bảo vệ họ khỏi nguy cơ bị lợi dụng hay lừa gạt Đồng thời, nhà trường cũng nên quản lý, kiểm tra và theo dõi chặt chẽ tình hình làm thêm của sinh viên để đảm bảo quyền lợi và an toàn cho họ.