TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1 1 Dịch vụ công và dịch vụ vận tải hành khách trong đô thị
Public services have been the subject of extensive research globally, with significant studies including WZ Hirsch's 1973 Urban Economic Analysis, Bryan D Jones and Clifford Kaufman's 1974 model on the distribution of public services, and John I Carruthers and Gudmundur F's exploration of urban sprawl and its impact on public service costs These studies highlight the complexities and challenges associated with the provision and distribution of public services in urban areas.
Dịch vụ công, theo định nghĩa chung từ Ulfarsson (2003) và Ngân hàng Thế giới (2003), là những dịch vụ được thực hiện hoặc ủy quyền bởi chính quyền để phân phối hàng hóa công cộng Các dịch vụ này thường có hai đặc tính chính: tính không loại trừ (non-excludable) và tính không cạnh tranh (non-rival).
Các nghiên cứu trong nước đã chỉ ra rằng định nghĩa về dịch vụ công không chỉ dựa vào loại hình dịch vụ mà còn tập trung vào các chủ thể cung ứng và đối tượng thụ hưởng Theo Nguyễn Ngọc Hiến (2002), dịch vụ công bao gồm nhiều loại dịch vụ nhưng đều hướng đến lợi ích chung của xã hội và Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo cung cấp dịch vụ này Lê Chi Mai (2003) nhấn mạnh rằng bộ máy nhà nước thực hiện hai chức năng: cai trị và phục vụ, trong đó dịch vụ công phản ánh chức năng phục vụ cho tổ chức và công dân Mặc dù các tổ chức kinh tế và tư nhân có thể tham gia cung cấp dịch vụ công, trách nhiệm cuối cùng vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội.
Trong cuốn sách “Quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công” của Đỗ Thị
Dịch vụ công, theo Hải Hà (2007), được định nghĩa là một loại hình dịch vụ đặc biệt, mang tính chất công cộng và do các cơ quan công quyền thực hiện.
Thông qua đấu thầu trực tiếp hoặc ủy quyền, việc sản xuất hàng hóa công phục vụ lợi ích của toàn xã hội được thực hiện Các hoạt động này tuân theo thể chế công và nguyên tắc đạo đức công, nhằm đáp ứng các nhiệm vụ công và mang lại lợi ích cho mọi người dân.
Dịch vụ công không chỉ đơn thuần là các hoạt động công vụ và hành chính công, mà còn bao gồm nhiều loại hình dịch vụ khác nhau Việc phân loại dịch vụ công một cách rộng rãi có thể dẫn đến việc bỏ sót các loại hình dịch vụ quan trọng, không tách biệt được chức năng của bộ máy quản lý nhà nước Điều này ảnh hưởng đến khả năng xác định các yếu tố tác động đến chất lượng dịch vụ, từ đó cản trở việc cải tiến các hoạt động phù hợp với yêu cầu riêng biệt của từng loại hình dịch vụ công (Lê Chi Mai, 2003).
Theo phân loại theo chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành ba loại: thứ nhất, dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp, bao gồm các hoạt động công vụ, hành chính công và dịch vụ công cộng cơ bản; thứ hai, dịch vụ công do tổ chức tư nhân và phi chính phủ cung cấp dưới sự ủy nhiệm và giám sát của nhà nước, bao gồm những dịch vụ mà nhà nước có trách nhiệm cung cấp nhưng không thực hiện trực tiếp; thứ ba, dịch vụ công được thực hiện thông qua sự phối hợp giữa nhà nước, tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân, thường được gọi là hình thức hợp tác công tư (PPP).
Dịch vụ công được phân loại theo tính chất và tác dụng, bao gồm: Dịch vụ công đặc thù do cơ quan Nhà nước thực hiện để đảm bảo chức năng cai trị; Dịch vụ hành chính công cung cấp hàng hóa công cộng cho tổ chức và công dân nhằm duy trì hoạt động xã hội; Dịch vụ sự nghiệp công, trong đó Nhà nước cung cấp phúc lợi công như giáo dục, y tế và an sinh xã hội, có thể thu phí và được thực hiện bởi Nhà nước hoặc các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân; và Dịch vụ công cộng, bao gồm các dịch vụ có thu phí nhưng phi lợi nhuận, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân theo yêu cầu của cơ quan hành pháp.
Nghiên cứu cho thấy vai trò của các bên trong cung ứng tài chính và dịch vụ công có sự khác biệt Dịch vụ xe buýt được xác định là một loại hình dịch vụ công, nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân và chịu sự quản lý của Nhà nước, có thể được cung cấp bởi Nhà nước hoặc bên thứ ba Tại Hà Nội, dịch vụ xe buýt hiện đang được cung cấp thông qua hình thức Nhà nước trợ giá, cho phép các doanh nghiệp đủ năng lực tham gia đấu thầu dưới sự giám sát và kiểm tra của Nhà nước.
1 1 2 Đô thị và dịch vụ vận tải hành khách đô thị
Hiện nay, các đô thị Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển và hiện đại hóa mạnh mẽ, với nhiều chính sách quy hoạch giao thông đường bộ được áp dụng để cải thiện bộ mặt đô thị Các nghiên cứu thực tiễn về phát triển đô thị và vận tải hành khách công cộng đã mang lại hiệu quả tích cực Theo quy định của Nhà nước, đô thị tại Việt Nam bao gồm các thành phố, thị xã, thị trấn có dân số từ 4.000 người trở lên, với trên 65% lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp (Nghị định số 72/2001/NĐCP) Hiện nay, các nhà quản lý cũng đã bổ sung tiêu chí về cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, yêu cầu có quy hoạch chung cho tương lai, bất kể cơ sở hạ tầng có hoàn chỉnh hay chưa.
Theo Thông tư liên tịch số 2/TTLT-BXD-TCCBCP của Bộ Xây dựng, đô thị được định nghĩa là khu vực có mật độ dân cư cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, với cơ sở hạ tầng phù hợp, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đoàn (2009) cho rằng đô thị không chỉ đơn thuần là tập hợp các nhà ở, mà là một thể thống nhất sống động, phản ánh hình thức cư trú của con người trong không gian cụ thể Phạm Ngọc Côn (1999) nhấn mạnh rằng việc xác định phạm vi lãnh thổ và số lượng đô thị, cũng như cơ chế phối hợp giữa các đô thị, là vấn đề cốt lõi trong phát triển vùng đô thị Không gian vùng đô thị được xác định dựa trên ảnh hưởng của đô thị trung tâm đến các đô thị vệ tinh, với ranh giới mang tính tương đối, phụ thuộc vào sức lan tỏa của đô thị trung tâm và trình độ phát triển của các đô thị vệ tinh.
Theo nghiên cứu của Arthur O'Sullivan (2003), đô thị được xem là không gian cư trú của cộng đồng với hoạt động kinh tế phi nông nghiệp Vùng đô thị là tập hợp nhiều đô thị có mối quan hệ tương tác, hỗ trợ và hợp tác để phát triển bền vững Thực chất, vùng đô thị là lãnh thổ liên kết các đô thị nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên, kinh tế và xã hội Trong vùng đô thị, luôn có một đô thị trung tâm, từ đó các đô thị vệ tinh chịu ảnh hưởng nhất định Arthur O'Sullivan (2003) cũng chỉ ra rằng ranh giới vùng đô thị thường được xác định dựa trên phạm vi không gian ảnh hưởng của đô thị trung tâm, với các mối quan hệ chủ yếu giữa đô thị trung tâm và vùng ảnh hưởng.
Quan hệ hành chính - chính trị đề cập đến mối liên hệ giữa các đô thị trung tâm như thủ đô, tỉnh lỵ, huyện lỵ và các vùng lãnh thổ thuộc địa giới hành chính tương ứng Những mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển khu vực, tạo ra sự kết nối giữa các cấp chính quyền và cộng đồng dân cư.
Quan hệ về cơ sở hạ tầng (CSHT) bao gồm các mối quan hệ liên quan đến kết nối mạng lưới giao thông, cung cấp điện, cung cấp nước, dịch vụ bưu chính - viễn thông, hệ thống cấp thoát nước và xử lý chất thải.
Quan hệ sản xuất bao gồm các mối quan hệ đầu vào - đầu ra, gia công - lắp ráp giữa các xí nghiệp trong đô thị, cùng với các mối quan hệ cung ứng dịch vụ như thương mại, y tế, giáo dục và văn hóa.
Quan hệ về lao động - việc làm là những mối quan hệ, trao đổi lao động giữa đô thị trung tâm và vùng xung quanh theo kiểu con lắc
Quan hệ về du lịch - nghỉ dưỡng các mối quan hệ hai chiều giữa đô thị trung tâm và vùng ngoại vi
Về vấn đề đô thị hóa và phát triển đô thị, ta có nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đoàn
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ VẬN TẢI HÀNH KHÁCH CÔNG CỘNG BẰNG XE BUÝT TẠI ĐÔ THỊ
XE BUÝT TẠI ĐÔ THỊ
2 1 Tổng quan về đô thị và dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại đô thị
2 1 1 1 Khái niệm về đô thị
Nghiên cứu về đô thị đã có từ thời cổ đại, với những quan điểm của Plato về quy mô dân số Đến thế kỷ 19, các học giả phương Tây đã bắt đầu phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất và cấu trúc không gian đô thị, ảnh hưởng đến sự phát triển của đô thị Vào những năm 1960, kinh tế học đô thị đã trở thành một ngành khoa học độc lập, với sự phát triển mạnh mẽ qua việc xuất bản nhiều sách giáo khoa và tài liệu chuyên khảo từ các tác giả Mỹ trong thập niên 1980-1990, như David W Rasmussen và Arthur O Sullivan Đô thị không chỉ là nơi tập trung tài nguyên và doanh nghiệp, mà còn là môi trường sống thu hút đông đảo lao động và cư dân Tuy nhiên, với lịch sử lâu dài và nội dung phong phú, việc diễn đạt khái niệm đô thị một cách ngắn gọn và dễ hiểu vẫn là thách thức.
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) có đề cập tới 2 cách tiếp cận trong nỗ lực xây dựng một định nghĩa về “đô thị” như sau
Phương pháp WDR 2009, được đề xuất bởi Chomitz và cộng sự, cùng với sự trình bày của Uchida và Nelson, xác định tất cả các khu định cư dựa trên quy mô dân số tối thiểu và mật độ dân số tối thiểu trong một khoảng thời gian đi lại nhất định bằng đường bộ Phương pháp này đã được áp dụng trong Báo cáo Phát triển Thế giới.
Ngân hàng Thế giới năm 2009
Cách tiếp cận của OECD là một phương pháp phức tạp nhằm xác định các lõi đô thị có mật độ dân cư cao và liên kết chặt chẽ Phương pháp này bao gồm ba bước chính: đầu tiên, xác định các lõi đô thị; thứ hai, nhóm chúng thành các khu chức năng; và cuối cùng, xác định vị trí tiếp cận phương tiện công cộng từ các lõi đô thị đó OECD áp dụng tiêu chí cắt giảm quy mô dân số, với mức tối thiểu là 50.000 người, để phân tích các khu vực đô thị chức năng.
Để xác định các lõi đô thị, cần xem xét số lượng dân cư (khoảng 100.000 người, tùy thuộc vào quốc gia) và mật độ dân số (1.000 – 1.500 người trên mỗi km2) Sau đó, lựa chọn các khu vực phù hợp từ những dữ liệu này.
15 % công nhân đi làm đến các vùng lõi của đô thị
Cục Thống kê New Zealand (2006) xác định ranh giới đô thị dựa trên sáu tiêu chí quan trọng: 1) mối quan hệ kinh tế chặt chẽ; 2) sự tương tác văn hóa và giải trí; 3) dịch vụ cơ bản cho các hoạt động kinh doanh và chuyên nghiệp; 4) mạng lưới giao thông công cộng tích hợp; 5) tỷ lệ người đi làm đáng kể đến và đi từ trung tâm.
Kế hoạch phát triển trong 20 năm tới tại Việt Nam sẽ tập trung vào việc mở rộng lõi trung tâm đô thị, phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch đô thị năm 2015 Đô thị được định nghĩa là khu vực có mật độ dân cư cao, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phi nông nghiệp và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Đô thị mới sẽ được hình thành theo quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia, với mục tiêu đạt các tiêu chí đô thị theo pháp luật.
Khái niệm đô thị bao gồm thành phố với cả nội thành và ngoại thành, cùng với thị xã bao gồm nội thị và ngoại thị Điều này giúp phản ánh quy mô và xu hướng đô thị hóa đang diễn ra tại Việt Nam hiện nay.
Đô thị được định nghĩa là một thực thể thống nhất, bao gồm các yếu tố kinh tế phi nông nghiệp, xã hội và vật chất, được tập trung với mật độ cao trong một khu vực nhất định.
Việc phân loại đô thị trên thế giới và Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt Trên thế giới, đô thị chủ yếu được phân loại dựa vào quy mô dân số, trong khi ở Việt Nam, tiêu chí phân loại đa dạng hơn Theo quy định của Nhà nước, đô thị tại Việt Nam bao gồm các thành phố, thị xã, thị trấn có dân số từ 4.000 người trở lên, với hơn 65% lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp Hiện nay, các nhà quản lý còn bổ sung thêm tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, yêu cầu đô thị phải có quy hoạch chung cho tương lai, dù có thể hoàn chỉnh hoặc chưa hoàn chỉnh, đồng bộ hoặc chưa đồng bộ.
“Trước đây, việc phân loại đô thị được thực hiện theo Nghị định số 72/2001/NĐ-
Vào ngày 05/10/2001, Chính phủ đã ban hành CP, tiếp theo đó, các đô thị tại Việt Nam được phân loại theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 Gần đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 để quy định về phân loại đô thị.
Theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đô thị tại Việt Nam được phân loại thành 6 loại, bao gồm thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và khu vực dự kiến hình thành đô thị trong tương lai, dựa trên các tiêu chí tương ứng.
Mã phân loại đô thị đặc biệt, loại I và loại II được quyết định công nhận bởi Thủ tướng Chính phủ Đối với đô thị loại III và IV, việc công nhận thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, trong khi đô thị loại V do Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh thực hiện công nhận.
Thay vì 6 tiêu chuẩn phân loại đô thị cũ được quy định tại Nghị định số
Nghị quyết mới của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra 5 tiêu chí cơ bản để đánh giá và phân loại đô thị Các tiêu chí này bao gồm: vị trí, chức năng và vai trò của đô thị; cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội; quy mô dân số; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp; và trình độ phát triển cơ sở hạ tầng cùng với kiến trúc, cảnh quan đô thị.
Nghị quyết quy định rằng đô thị đặc biệt phải là Thủ đô hoặc trung tâm cấp quốc gia, quốc tế về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc Đô thị này cần có quy mô dân số từ 6 triệu người trở lên và mật độ dân số đạt từ 3.000 người/km2 Đối với đô thị loại I, mật độ dân số toàn đô thị phải đạt từ 2.000 người/km2, khu vực nội thành đạt từ 10.000 người/km2 Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị cần đạt từ 65%, trong khi khu vực nội thành phải đạt từ 85% Các đô thị loại II, III, IV và V cũng có các tiêu chuẩn cụ thể về quy mô và mật độ dân số chi tiết.
Việc lập đề án phân loại đô thị tại Việt Nam hiện nay do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện cho các đô thị loại đặc biệt và loại I, trong khi Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cho các đô thị loại I, II, III, IV và V Hiện tại, đô thị ở Việt Nam được phân thành 6 loại khác nhau.