Có thể xem trí thức là tài nguyên qúy giá nhất trong mọi tài nguyên của mỗi quốc gia. Điều này không chỉ đúng khi loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thức ba – văn minh trí thức mà nó còn đúng cho mọi thời đại. Thực tế đã chứng minh trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, tầm quan trọng của nhân tài đối với việc hưng thịnh của quốc gia đã được khẳng định và đề cao qua từng thời kỳ lịch sử, Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, đã ghi trong bài ký đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm 1442 rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi thấp xuống. Vì vậy các đấng thánh đế, minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng …Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất”66. Tầng lớp trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng tạo nên nền văn hóa của dân tộc mình nói riêng và nền văn minh nhân loại nói chung.Trải qua hàng nghìn năm lịch sử nhân sĩ, trí thức Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng và có những đóng góp xứng đáng cho đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều thế hệ trí thức Việt Nam trở thành những nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà quân sự, nhà sáng chế, nhà khoa học, nhà cải cách, nhà lý luận, nhà văn, nhà thơ,....vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam thực sự to lớn. Đặc biệt họ là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa vừa là đại diện cho tiến bộ văn hóa dân tộc, vì vậy họ luôn được người đương thời và hậu thế kính trọng biết ơn. Kế tục truyền thống của dân tộc, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với trọng trách lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, rất nhiều trí thức đã đi vào con đường đấu tranh cách mạng cùng với công nhân, nông dân và cả dân tộc làm nên cuộc cách mạng chấn động năm châu – CMT81945. Không dừng lại ở đó, trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với những đóng góp quan trọng, cơ bản và mang tính quyết định trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, quân sự, y tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao,... lực lượng trí thức đã trở thành một bộ phận không thể tách rời khỏi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Những đóng góp của họ là vô cùng lớn lao, góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang cho cả dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng Việt Nam đã sớm nhận ra điều này và luôn coi trọng đội ngũ trí thức là động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân tộc. “...Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”. Không chỉ trong thời chiến mà ngay cả thời bình, lực lượng trí thức cũng khẳng định được vai trò quan trọng của mình. Tại Đại hội VII (1991) Đảng nhận định vai trò của trí thức: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò của giới trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của trí thức càng quan trọng hơn. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công nông không được nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức hóa thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đề tài, một mặt góp phần tìm hiểu và đánh giá những đóng góp của trí thức cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa đến thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến này; Làm cơ sở cho những nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo; Đồng thời, hình thành luận cứ để Đảng và Nhà nước có những nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay. Hơn nữa, luận văn mong muốn góp phần giáo dục truyền thống, tinh thần đấu tranh cách mạng của cha ông cho thế hệ trẻ, về lòng tự hào đối với truyền thống đấu tranh của đồng bào và nhân sĩ trí thức.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau CMT8-1945, Việt Nam trở thành một nước độc lập, nhưng chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với nhiều khó khăn Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu vấn đề cấp bách, trong đó chống giặc đói và giặc dốt là hai nhiệm vụ hàng đầu Lời kêu gọi của Bác đã khơi dậy lòng tự tôn dân tộc và trách nhiệm của mỗi người dân, khiến nhiều trí thức cách mạng tình nguyện tham gia dạy học, nâng cao dân trí Vai trò của trí thức được khẳng định qua Thư gửi văn hóa và trí thức Nam bộ ngày 25/5/1947, trong đó Bác nhấn mạnh ngòi bút của họ là vũ khí sắc bén trong công cuộc kháng chiến Từ đó, vấn đề trí thức ngày càng được đề cập nhiều hơn trong các văn kiện và công trình nghiên cứu.
Năm 1958, Đảng Lao động Việt Nam đã xuất bản cuốn "Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức", trong đó đề cập đến các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí thức cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Đảng, đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng Gần hai mươi năm sau, vào năm 1976, nhà xuất bản Sự Thật đã cho ra mắt cuốn sách "Về vấn đề trí thức và cách mạng", tập hợp và bổ sung các quan điểm về trí thức Năm 1960, Đảng Xã hội Việt Nam cũng đã xuất bản tác phẩm "Ký ức và cảm nghĩ", phản ánh những suy tư và tư tưởng của trí thức Việt Nam trong quá trình kháng chiến chống Pháp.
Nhiều tác phẩm đã viết về trí thức cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, phản ánh cuộc đời, sự nghiệp và vai trò quan trọng của họ trong cuộc chiến gian nan này Tiêu biểu là "Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng" của Phạm Tất Dong (1995), "Một số vấn đề trí thức Việt Nam, Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức" của Nguyễn Văn Khánh (2001), và "Người trí thức quê hương" của Hàm Châu (2000) Các tác phẩm này khẳng định đóng góp to lớn của trí thức cách mạng trong cuộc kháng chiến Ngoài ra, còn có những sách viết về trí thức ở các vùng miền cụ thể, đặc biệt là Nam Bộ, như "Trí thức Sài Gòn – Gia Định 1945 – 1975" của Hồ Hữu Nhựt (2001).
Sơn Điệp với cuốn sách Trí thức Nam bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945-
Năm 1954, các tác phẩm được xuất bản vào năm 2003 đã nêu bật sự hình thành và vai trò quan trọng của trí thức Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, không chỉ ở miền Nam mà còn trên toàn quốc.
Trong giai đoạn 1945-1954, nhiều tác giả đã chú trọng viết về những nhà trí thức tiêu biểu, thể hiện qua số lượng tác phẩm phong phú được phát hành Đặc biệt, Tôn Thất là một trong những nhân vật nổi bật trong thời kỳ này, góp phần làm sáng tỏ vai trò và ảnh hưởng của trí thức đối với xã hội Những tác phẩm này không chỉ phản ánh tư tưởng và quan điểm của các nhà trí thức mà còn khắc họa bối cảnh lịch sử đầy biến động của đất nước.
Tùng, Hồ Đắc Di và Đặng Văn Ngữ là ba nhân vật nổi bật trong lịch sử Việt Nam, với các tác phẩm "Tùng - cuộc đời và sự nghiệp" xuất bản năm 1997, "Hồ Đắc Di - cuộc đời và sự nghiệp" xuất bản năm 1999, và "Đặng Văn Ngữ - cuộc đời và sự nghiệp" cũng được xuất bản trong cùng thời gian Những tác phẩm này không chỉ ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật mà còn phản ánh những đóng góp quan trọng của họ cho xã hội.
2000; Tố Hữu người cộng sản kiên trung, nhà văn hóa tài năng, xuất bản năm 2004;
Trong cuốn sách "Những người trong Hoàng tộc nhà Nguyễn đi theo cụ Hồ" của Nguyễn Văn Khoan, xuất bản năm 2010, hai tác phẩm nổi bật là "Bác Hồ với nhân sĩ trí thức" của Trần Đương (2005) và "Những tấm gương ham đọc sách và tự học thời đại Hồ Chí Minh" của Vũ Dương Thúy Nga (2016) đã tập hợp và làm nổi bật những đóng góp của các trí thức lớn trong giai đoạn kháng chiến và kiến quốc Những tác phẩm này không chỉ ghi nhận vai trò quan trọng của tầng lớp trí thức trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà còn khẳng định sự ảnh hưởng của họ trong việc xây dựng đất nước.
Trí thức đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, điều này đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có tác giả Nguyễn Huy Thống Sự đóng góp của trí thức không chỉ giúp thúc đẩy tiến bộ công nghệ mà còn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Vũ Cao Đàm và Nguyễn Trọng Chuẩn là đồng chủ biên của cuốn sách "Chủ nghĩa xã hội và trí thức", được xuất bản vào năm 1994 Trong khi đó, Phạm Tất Dong là chủ biên của cuốn "Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa", cũng đã được xuất bản trong cùng thời gian.
Năm 2001, Nguyễn Thanh Tuấn đã đề cập đến một số vấn đề về trí thức Việt Nam trong tác phẩm xuất bản năm 1998 Nhiều tạp chí chuyên ngành như Nghiên cứu Lịch sử, Xưa và Nay, và Cộng sản đã đăng tải nhiều bài viết bàn về vai trò của trí thức trong kháng chiến Điển hình là các bài viết của Nguyễn Đình Tứ và Phạm Tất Dong về trí thức và công tác trí thức của Đảng (Tạp chí Cộng sản, số 6, 1996), Hà Học Trạc về vai trò của giới trí thức trong sự nghiệp đổi mới (Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 1, 1994), và Phan Thanh Khôi về trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Tạp chí Cộng sản, số 9, 1995) Mặc dù các bài viết thể hiện những quan điểm khác nhau, nhưng đều thống nhất trong việc đánh giá vai trò và những đóng góp của trí thức qua từng giai đoạn lịch sử.
Mặc dù có một số công trình nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng số lượng này vẫn còn khiêm tốn và chưa có nghiên cứu nào toàn diện, hệ thống về vấn đề này Do đó, chúng tôi quyết định kế thừa các bài nghiên cứu trước đây và đề xuất thực hiện đề tài “Vai trò của trí thức cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp”.
1945 đến năm 1954”, theo một hướng tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu, tập trung vào vai trò của trí thức cách mạng Việt Nam.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống về tầng lớp trí thức cách mạng Việt Nam trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự cho thấy những đóng góp quan trọng của họ vào thắng lợi chung của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp Trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, tầng lớp trí thức vẫn tiếp tục giữ vai trò lịch sử quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Đi sâu tìm hiểu về những hoạt động của tầng lớp trí thức cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp
Trí thức cách mạng Việt Nam đã đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) qua nhiều lĩnh vực Trong quân sự, họ đã tham gia xây dựng lực lượng và chiến lược chống giặc ngoại xâm Về kinh tế, trí thức đã hỗ trợ phát triển nền kinh tế kháng chiến, đảm bảo nguồn lực cho cuộc đấu tranh Trong giáo dục và y tế, họ đã góp phần nâng cao nhận thức và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Ngoài ra, trên mặt trận ngoại giao, trí thức đã vận động sự ủng hộ quốc tế cho cuộc kháng chiến, khẳng định vai trò quan trọng của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau bao gồm:
- Tài liệu lưu trữ tại các Trung tâm lưu trữ quốc gia, các trường Đại học, các Bảo tàng
Để hiểu rõ về chính sách của Đảng đối với trí thức, cần nghiên cứu các văn kiện của Trung ương Đảng, Chính phủ, toàn tập Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng bộ địa phương.
- Hồi ký của các đồng chí lãnh đạo, các nhà trí thức đã từng tham gia hoạt động trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc 1945 - 1954
- Công trình, bài nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đã xuất bản, công bố trên các sách, báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành
Đề tài nghiên cứu áp dụng phương pháp luận Mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức Trong quá trình nghiên cứu, hai phương pháp chính được sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, Để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu này tập trung vào vai trò quan trọng của trí thức cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cung cấp cái nhìn toàn diện và có hệ thống về những đóng góp của họ trong việc đấu tranh giành độc lập và tự do cho đất nước.
Những tư liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề trí thức nói chung, trí thức cách mạng Việt Nam nói riêng
Kết quả của luận văn sẽ là nền tảng cho việc giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ, thông qua việc giới thiệu những tấm gương trí thức cách mạng Điều này giúp Đảng và Nhà nước nhận thức rõ vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức trong lịch sử chiến tranh cũng như trong bối cảnh hiện nay, từ đó đề xuất các chính sách nhằm phát huy vai trò của họ trong tương lai.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương:
Tầng lớp trí thức cách mạng Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư tưởng và phong trào đấu tranh Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến 1954, trí thức cách mạng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng lực lượng, phát triển chiến lược kháng chiến và nâng cao tinh thần yêu nước của nhân dân Họ là những người tiên phong trong việc vận động quần chúng, truyền bá lý tưởng cách mạng, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Chương 3: Vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
KHÁI QUÁT TẦNG LỚP TRÍ THỨC CÁCH MẠNG VIỆT
Khái niệm trí thức và trí thức cách mạng Việt Nam
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, trí thức là một vấn đề quan trọng và phức tạp, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu Thuật ngữ trí thức (intelligentia) trong tiếng La tinh chỉ những người có hiểu biết và tri thức, bao gồm những người lao động trí óc V.I Lênin đã nhấn mạnh rằng tầng lớp trí thức không chỉ là những nhà văn hóa học mà còn là tất cả những người có văn hóa.
Tầng lớp trí thức, hay còn gọi là intelligentsia, lần đầu tiên xuất hiện ở Nga vào nửa đầu thế kỷ 19, được định nghĩa là những người có học vấn và kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và văn hóa, đồng thời thực hiện công việc lao động trí óc Theo đại từ điển bách khoa Xô Viết, trí thức được coi là tầng lớp xã hội của người lao động trí óc, chủ yếu là những người tham gia vào lao động phức tạp và sáng tạo, góp phần vào sự phát triển văn hóa phổ biến.
Theo Liên đoàn quốc tế, lao động tri thức là những người hoạt động chủ yếu dựa vào nỗ lực tinh thần, sáng kiến và nhân cách, hơn là nỗ lực thể chất Trí thức bao gồm những người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học, khoa học, cũng như các nghề tự do và những lao động trí thức được trả lương như kỹ sư, công chức và sinh viên Ở Việt Nam, khái niệm trí thức thường được hiểu đơn giản là những người lao động trí óc, nhằm phân biệt với công nhân và nông dân Một quan niệm khác cho rằng bất kỳ ai có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đều được coi là trí thức.
GS Nguyễn Như Ý định nghĩa "trí thức" là người chuyên làm việc và lao động trí óc, trong đó "trí" thể hiện sự hiểu biết và "thức" là biết Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng người trí thức cần có cả tài và đức Để được coi là trí thức, một người phải đáp ứng ba tiêu chí: thứ nhất, có học vấn cao (không chỉ dựa vào bằng cấp); thứ hai, nhân cách tiêu biểu và làm gương tốt cho xã hội; và thứ ba, có khí tiết bảo vệ chân lý và lẽ phải Thiếu một trong ba đặc điểm này, người đó sẽ không được xem là trí thức.
Trong Nghị Quyết số 27-NQTW (6/8/2008) của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khái niệm "trí thức" được định nghĩa là những người lao động trí óc có trình độ học vấn cao trong lĩnh vực chuyên môn, sở hữu năng lực tư duy độc lập và sáng tạo Họ không chỉ truyền bá và làm giàu tri thức mà còn tạo ra các sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội Định nghĩa này tổng hợp những đặc trưng và tiêu chí cơ bản nhất để nhận diện và đánh giá vai trò của trí thức trong xã hội hiện nay.
Theo thống kê toàn cầu, hiện có hơn 60 định nghĩa về "trí thức", mỗi định nghĩa phản ánh các lập trường và tiêu chí khác nhau Tuy nhiên, các khái niệm này thường xoay quanh hai vấn đề cơ bản.
- Là người lao động trí óc có chuyên môn cao
- Là người có trình độ học vấn cao
Tầng lớp trí thức được định nghĩa là một tập hợp mở và đa dạng, khác biệt với các nhóm xã hội khác như nông dân, công nhân hay thương nhân Ai cũng có thể thuộc về tầng lớp trí thức nếu họ có hiểu biết sâu rộng và tham gia vào lao động trí óc Tuy nhiên, bộ phận cốt lõi của tầng lớp này bao gồm các nhà nghiên cứu, giảng viên đại học, bác sĩ, dược sĩ cao cấp, cũng như các nghệ sĩ như nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo và các nhà quản lý, công chức trong bộ máy nhà nước.
1.1.2 Trí thức cách mạng Việt Nam
Cách mạng là quá trình loại bỏ cái cũ để thay thế bằng cái mới, thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong một khoảng thời gian ngắn Các cuộc cách mạng có thể tạo ra sự biến đổi trong các thể chế chính trị - xã hội, cũng như trong nền kinh tế và văn hóa Lịch sử đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng diễn ra trong các lĩnh vực như xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế và công nghiệp.
Cách mạng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi quyền lực mà còn là bước tiến về văn hóa, với sự tham gia quan trọng của tầng lớp trí thức Cách mạng 1789 ở Pháp, được hình thành từ nền tảng văn hóa của thế kỷ ánh sáng, là một ví dụ tiêu biểu cho sự kết hợp giữa trí tuệ và hành động cách mạng Do đó, trí thức luôn đóng vai trò thiết yếu trong bất kỳ cuộc cách mạng nào, góp phần nâng cao giá trị và ý nghĩa của sự thay đổi.
Trí thức và cách mạng đóng vai trò quan trọng trong lý luận và thực tiễn, được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh Nguyễn Ái Quốc, một trí thức cách mạng tiêu biểu của Việt Nam, đã tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chân lý cách mạng từ cách mạng tháng Mười Nga vào bối cảnh xã hội Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa đoàn kết yêu nước Sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã thu hút đông đảo các tầng lớp trí thức, đặc biệt là thanh niên trí thức, tham gia một cách hăng hái Họ đã hòa nhịp cùng cuộc cách mạng như một ngày hội lớn, mang theo tinh thần lãng mạn và nhiệt huyết, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Trí thức cách mạng Việt Nam là khái niệm phản ánh tầng lớp trí thức trong xã hội, liên quan đến giai đoạn đấu tranh cách mạng và công cuộc giải phóng dân tộc Khái niệm này xuất phát từ sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn trong bối cảnh lịch sử của đất nước.
Hồ Chủ Tịch nhấn mạnh rằng trí thức cần phải có sự hiểu biết toàn diện về lý thuyết và thực hành, trong đó lý luận phải được áp dụng vào thực tiễn và thực hành phải dựa trên lý luận Ông so sánh lý luận với viên đạn và thực hành với mục tiêu, nhấn mạnh rằng không có lý luận rõ ràng sẽ dẫn đến sự lộn xộn trong hành động Từ đó, Người định nghĩa trí thức cách mạng là những người "vừa hồng vừa chuyên", tức là có tài năng và đạo đức, trong đó đạo đức là nền tảng và tài năng là điều quan trọng Trong giai đoạn 1945-1954, trí thức cách mạng Việt Nam đã đóng góp lớn vào nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do cho dân tộc.
Sự hình thành và phát triển tầng lớp trí thức ở Việt Nam
* Thời kì nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
Người trí thức Việt Nam là biểu tượng cho tư tưởng, văn hóa, tài năng và trí tuệ của dân tộc Sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước đã nâng cao hiểu biết của người dân về tự nhiên, xã hội và bản thân Kiến thức phong phú này không chỉ thuộc về một tầng lớp riêng biệt mà là thành quả của cộng đồng người Việt Nam qua nhiều thời kỳ đấu tranh với thiên nhiên và chống lại xâm lược, áp bức.
Từ thời kỳ Hùng Vương và Âu Lạc, xã hội Việt Nam đã thể hiện sự phong phú của trí tuệ qua những thành tựu như công cụ sản xuất bằng đá và kim loại, đồ trang sức, đồ gốm, trống đồng và vũ khí bằng đồng Những sản phẩm này không chỉ chứng minh sự hiểu biết tinh tế về hình khối, trọng lượng, âm thanh và thuộc tính của kim loại, động vật, thực vật mà còn phản ánh trình độ thẩm mỹ cao của người Việt Hoa văn trên trống đồng, đồ gốm và trang sức cho thấy họ đã nhận thức được tính đối xứng và mối quan hệ phức tạp giữa các đường thẳng và đường cong, tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần đáng kể.
Văn học dân gian, đặc biệt là truyện thần thoại, phản ánh hiểu biết của người Việt về hiện tượng tự nhiên và xã hội, đồng thời thể hiện nguyện vọng, khả năng, ý chí và ước mơ của họ Trong bối cảnh xã hội chưa phân hóa giai cấp rõ rệt và chưa có sự phân công lao động, toàn bộ cộng đồng cùng gánh vác trách nhiệm lịch sử, từ sản xuất, chiến đấu cho đến suy nghĩ và sáng tạo.
Lịch sử trí thức Việt Nam khởi nguồn từ những cá nhân vô danh, họ đã hòa mình vào cộng đồng nhân dân Chính tập thể nhân dân lúc bấy giờ đã đảm nhận vai trò của những trí thức, góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
* Trong thời kì hơn một nghìn năm Bắc thuộc
Gần 10 thế kỉ, chính sách của phong kiến phương Bắc là đồng hóa người Việt Bởi vậy, cùng với sự truyền bá chữ Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã áp đặt một nền giáo dục ngoại lai và nô dịch cho đối tượng là con em các quan lại cai trị và một số người Việt ở tầng lớp trên, nhằm đào tạo những con người giúp việc cho bộ máy cai trị của chúng Cho nên, có thể nói suốt một ngàn năm Bắc Thuộc, trên đất nước ta chưa hình thành nên tầng lớp riêng biệt gọi là trí thức dân tộc Dẫu sử sách còn cũ còn ghi chép lại có một số nho sĩ người Việt Nam thành đạt và được tuyển làm quan như Trương Trọng làm thái thú ở Kim Thành, Lý Tiến làm thứ sử ở Giao Châu, Lý Cần làm tư lệ hiệu úy đời Hán, Tính Thều làm Quảng Dương môn lang (chức gác cổng thành, sau đã bỏ về giúp Lý Bôn khởi nghĩa và làm gián nhị đại phu em là Khương Công Phục làm Bắc bộ thị lang đời Đường (Công Phụ và Công Phục đều làm Bắc bộ đều đậu tiến sĩ đời Đường)…, nhưng họ chưa phải là những trí thức tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam
* Thời kì độc lập tự chủ
Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm đô hộ của phong kiến Trung Quốc, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho dân tộc Thời kỳ này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực Đặc biệt, trước yêu cầu phát triển văn hóa của quốc gia độc lập, các triều đại phong kiến đã chú trọng đến việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức của dân tộc.
Sau khi giành được độc lập, các triều Ngô (939 – 965), Đinh (968 – 980), Tiền
Thời kỳ Lê (980 – 1009) chứng kiến sự hạn chế trong tổ chức giáo dục do sự cần thiết củng cố chính quyền và thời gian trị vì ngắn Trong giai đoạn này, các nhà trí thức chủ yếu là các nhà sư, không chỉ giữ vai trò tu hành mà còn tham gia tích cực vào các hoạt động nội trị, đặc biệt là giáo dục Phật học bằng chữ Phạn và chữ Hán Mặc dù Nho học đã có từ thời Bắc thuộc, nhưng sự phát triển của nó vẫn còn rời rạc và chưa có vị trí quan trọng trong xã hội.
Triều vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) đánh dấu sự chính thức thiết lập giáo dục Nho học tại Việt Nam, bắt đầu với việc xây dựng Văn Miếu vào năm 1070.
1070), rồi sau đó là Quốc Tử Giám (1076) và mở khoa thi đầu tiên ở Thăng Long
Trong thời kỳ Lý – Trần, giáo dục và thi cử được đẩy mạnh, với các kỳ thi nho học và Tam giáo diễn ra thường xuyên, góp phần đào tạo nhiều trí thức cho đất nước Dưới triều đại nhà Trần, giáo dục Nho học phát triển quy củ hơn, với sự quan tâm của các vua Trần trong việc mở trường lớp và tổ chức các kỳ thi tuyển chọn nhân tài Ngoài Quốc Tử Giám, năm 1253, Quốc Học viện được thành lập tại Thăng Long, và năm 1281, nhà học ở Thiên Trường cũng được lập Năm 1397, dưới triều Trần Thuận Tông, Học quán được thành lập tại các lộ, phủ, châu để thu hút nho sĩ Đặc biệt, lần đầu tiên dưới triều Trần, các kỳ thi Thái Học Sinh được chia thành 3 hạng, và vào năm 1247, kỳ thi tiến sĩ được mở ra.
Trong thời kỳ phát triển văn hóa giáo dục, nhiều nhà khoa bảng nổi bật đã xuất hiện, thể hiện đỉnh cao trí tuệ dân tộc như Lê Văn Thịnh - người đỗ đầu khoa thi Nho học đầu tiên, Nguyễn Hiền - đỗ khi mới 13 tuổi, và Mạc Đỉnh Chi - Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Giáp thìn, niên hiệu Hưng Long 12 (1304) dưới triều Trần Anh Tông Nhiều nhân vật này sau này đã trở thành những nhà văn hóa lớn của dân tộc như Chu Văn An, Trương Hán Siêu và Lê Văn Hưu.
*Từ thời Lê đến thời Nguyễn (thế kỉ XV – thế kỉ XIX)
Sau hơn 20 năm bị gián đoạn do cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh
Trong giai đoạn từ 1407 đến 1428, dưới triều đại các vua Lê, đất nước Đại Việt bước vào một thời kỳ phát triển hưng thịnh nhất trong lịch sử Nền văn hóa dân tộc phát triển nhanh chóng, đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt là giáo dục Nho học Việc thi cử được tổ chức một cách quy củ và bài bản Chỉ trong thời gian ngắn từ 1428 đến 1433, Lê Thái Tổ đã tổ chức nhiều kỳ thi quan trọng như khoa thi Minh Kinh (1433) và khoa thi Hành Từ (1431), góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và nhân tài cho đất nước.
Vào năm 1433, nhằm tuyển chọn đội ngũ quan lại cho bộ máy chính quyền sau khi đuổi được giặc Minh, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã thực hiện nhiều biện pháp phát triển giáo dục Ông đã mở rộng nhà Thái Học (Quốc Tử Giám), lập thêm phòng học và tuyển thêm học trò, đồng thời thiết lập các quy định về thi cử, như định lệ “bảo kết thi hương” vào năm 1462, yêu cầu người có đức hạnh mới được thi Vua cũng đã làm lễ xướng danh trang trọng hơn, treo bảng, ban mũ áo, cờ biển vinh quy và dựng bia tiến sĩ vào năm 1484 để ghi nhận các khoa thi từ năm 1442 đến thời điểm đó, thể hiện sự quan tâm của nhà nước phong kiến đối với giáo dục.
Khi chấm dứt thi cử Nho học, tổng số người đỗ tiến sĩ vượt quá ba ngàn, trong đó có 444 trạng nguyên Dưới triều Lê, đã có 500 tiến sĩ và 9 trạng nguyên được công nhận Nhiều tiến sĩ đạt được thành tích khi còn rất trẻ, chỉ từ 18 đến 19 tuổi Nhiều gia đình có cha con, anh em cùng đỗ đồng khoa, thậm chí có những nhà có tới 3, 4 người đỗ đại khoa Khu vực xung quanh Đông Kinh (Hà Nội hiện nay) nổi tiếng với nhiều làng học tập khoa cử như làng Mộ Trạch, làng Kim Đôi, và làng Liêu Xá.
Dưới triều Mạc, giáo dục Nho học tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ khoa Kỉ Sửu năm thứ 3 Minh Đức (1529) đến khoa Nhâm Thìn năm đầu Bảo Định.
Vào năm 1592, triều Mạc tổ chức 21 khoa thi, thu hút 484 tiến sĩ, trong đó có 11 trạng nguyên, nhiều người trong số họ đã trở thành danh nhân, đóng góp cho văn hóa dân tộc như Giáp Hải, Đỗ Uông và Nguyễn Bỉnh Khiêm Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ 16, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng với các cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các triều Lê, Mạc, Trịnh và Nguyễn, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đội ngũ trí thức Nho học Mặc dù giáo dục trong thời kỳ này vẫn được duy trì với 121 khoa thi và 2241 tiến sĩ được công nhận, nhưng chất lượng giáo dục và thi cử đã sa sút Đặc biệt, tại Đàng Trong trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh (1533 – 1578), các chúa Nguyễn tập trung vào việc mở rộng lãnh thổ và tổ chức chính quyền, dẫn đến việc giáo dục bị bỏ quên Phải đến năm 1674, 1675, một vài khóa thi mới được mở ra, nhưng nội dung còn sơ sài, chủ yếu nhằm tuyển chọn quan lại cho công việc hành chính mà không có ghi chép cụ thể về số lượng thí sinh.
Đặc điểm và vị trí trí thức Việt Nam trong lịch sử
1.3.1 Đặc điểm tầng lớp trí thức Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển của trí thức Việt Nam, đặc biệt trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước năm 1945, thể hiện những đặc điểm cơ bản như sự gắn bó với dân tộc, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, và vai trò quan trọng trong việc truyền bá tri thức và tư tưởng cách mạng Những giai đoạn lịch sử này đã tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức và hành động của trí thức trong việc thúc đẩy sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trí thức Việt Nam có nguồn gốc hình thành khác biệt so với trí thức phương Tây và các nước phương Đông Trong khi Châu Âu có thời kỳ lịch sử dài với tăng lữ là đại diện cho người có học thức, và sau đó là tầng lớp giàu có, thì ở Trung Quốc, quan lại có học vấn là bộ phận chủ yếu của trí thức Ngược lại, ở Việt Nam, trong suốt 10 thế kỷ, trí thức đã phát triển theo những đặc điểm riêng biệt, phản ánh bối cảnh văn hóa và lịch sử độc đáo của đất nước.
Từ năm 1075 đến 1919, trong số hàng vạn tú tài, cử nhân và hơn 3000 nhà khoa bảng, nhiều người đã từ xuất thân bình dân vươn lên thành sĩ phu, đại diện cho trí tuệ dân tộc trong quá trình phát triển đất nước Đội ngũ trí thức Việt Nam chủ yếu là con em nông dân, công nhân, hoặc được hình thành từ quá trình trí thức hóa giai cấp này Đặc điểm này tạo nên sự gắn bó sâu sắc của họ với người lao động, thông cảm với những khó khăn và nghèo nàn của đất nước Họ thể hiện tinh thần đoàn kết, lòng tự tôn dân tộc và yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hợp tác với các giai tầng khác để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trí thức Việt Nam thể hiện lòng yêu nước và ý thức dân tộc sâu sắc, luôn đồng hành cùng sự nghiệp bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước Họ luôn trăn trở trước vận mệnh dân tộc và gắn bó chặt chẽ với nhân dân từ những ngày đầu dựng nước Với nhiệt huyết và kiến thức, trí thức đã đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng nền văn hóa lâu đời và phát triển kinh tế, đồng thời hướng trí tuệ Việt Nam vào việc phòng chống thiên tai và tạo nên bản sắc phong phú cho đất nước.
Trí thức Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp bao gồm hai bộ phận chính: trí thức Nho học và trí thức Tây học, tồn tại song song Sau khi bình định Việt Nam, Pháp tăng cường thực hiện chương trình khai thác thuộc địa, dẫn đến sự biến đổi toàn diện về cơ cấu và trình độ kinh tế - xã hội Trong bối cảnh này, bên cạnh các giai cấp truyền thống, xuất hiện những giai tầng mới như công nhân, tư sản, tiểu tư sản và lực lượng trí thức Tây học, hay còn gọi là trí thức tân học Lực lượng trí thức Tây học ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực như chính trị và văn hóa - xã hội, và họ là sản phẩm trực tiếp của hệ thống giáo dục phương Tây.
Trí thức Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận và truyền bá các trào lưu tư tưởng mới, đồng thời khơi dậy các phong trào đấu tranh Mặc dù được giáo dục theo nền tảng phương Tây, họ vẫn giữ vững truyền thống văn hóa dân tộc, kiên quyết chống lại văn hóa nô dịch và chỉ tiếp nhận những giá trị văn hóa ngoại lai phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam.
Trí thức Tây học ở Việt Nam, với nền tảng Nho học, đã kết hợp tinh hoa của cả hai nền văn hóa Đông - Tây, tạo ra những thay đổi lớn trong văn hóa, xã hội, tư tưởng và chính trị Họ nhạy cảm với thời cuộc và dễ dàng tiếp nhận tư tưởng tiến bộ, tham gia tích cực vào các phong trào đấu tranh của quần chúng, đặc biệt tại các đô thị Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi tư tưởng Duy Tân suy thoái, chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu được truyền bá rộng rãi sau Cách mạng Tháng Mười Nga Nhiều trí thức đã tiếp nhận và lan tỏa tư tưởng Mác - Lênin trong phong trào yêu nước và công nhân, trở thành những người dẫn đầu như Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học, và các đảng viên tiền bối như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng Do đó, trí thức đã trở thành lực lượng quan trọng trong cách mạng Việt Nam, góp phần châm ngòi cho các phong trào dân chủ và đấu tranh giải phóng dân tộc.
1.3.2 Vị trí của tầng lớp trí thức Việt Nam
Trọng dụng nhân tài và chiêu hiền đãi sĩ là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được duy trì và phát triển qua các giai đoạn lịch sử Từ cuộc đấu tranh giành độc lập đến quá trình thống nhất và xây dựng đất nước, việc phát huy nhân tài đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và phong trào cộng sản quốc tế Ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng lý luận và tư tưởng cách mạng quý giá, đặc biệt là tư tưởng về trí thức Hồ Chí Minh khẳng định rằng trí thức là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng, đóng vai trò là "vốn liếng quý báu của dân tộc".
Trong bối cảnh đất nước gặp khó khăn, trí thức Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng, tiên phong trong việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin Họ tích cực tham gia vào các tổ chức cách mạng, góp phần hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh nhận định rằng trí thức Việt Nam rất nhạy bén với cái mới và tư tưởng tiến bộ, mang trong mình "đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng", đồng thời có học thức và dễ tiếp thu giáo dục cách mạng, sẵn sàng đồng hành cùng công nông.
Trí thức Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong cách mạng, vì vậy khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định rõ ràng đường lối chính trị và phân định chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng Người đã xếp trí thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, coi họ là đồng minh gần gũi của công nhân và nông dân Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên lạc với tiểu tư sản và trí thức để thu hút họ về phía giai cấp vô sản.
Trong quá trình chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, việc kêu gọi trí thức đoàn kết với giai cấp công nhân và nông dân được đặt lên hàng đầu Nhiệm vụ quan trọng là kết nối với tiểu tư sản và trí thức, đưa họ vào mặt trận đấu tranh chống đế quốc phát xít Đồng thời, cần tìm kiếm và trọng dụng những người tài đức để tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến.
Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam khẳng định rằng Đảng sẽ bao gồm những công nhân, nông dân và trí thức yêu nước, hăng hái và cách mạng Đảng nhận thức rõ vai trò quan trọng của trí thức, coi họ là "vốn quý" của dân tộc, nhấn mạnh rằng không có sự hợp tác giữa trí thức và công nông, cách mạng sẽ không thành công Việc xây dựng đội ngũ trí thức đồng nghĩa với việc công nhận họ là những người lao động thực sự, đóng góp tích cực vào sự tiến bộ xã hội, cùng bình đẳng với các loại hình lao động khác.
Trong mọi lĩnh vực và thời kỳ cách mạng, học vấn, tài năng, và tâm huyết của giới trí thức là rất cần thiết Đội ngũ trí thức đã đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa Quá trình cách mạng cho thấy rằng "trí thức không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức" Nhiều trí thức trẻ, như Trần Phú, Lê Hồng Phong, và Võ Nguyên Giáp, đã đóng vai trò quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước trong cuộc giải phóng dân tộc Ngoài ra, nhiều trí thức trưởng thành trong nước hoặc từ nước ngoài trở về cũng góp phần quan trọng trong sự nghiệp cách mạng.
Di, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, và nhiều nhân vật khác đã tham gia cách mạng từ những ngày đầu độc lập Họ sẵn sàng đối mặt với thử thách, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đồng thời đóng góp tài năng và trí tuệ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập và tự do cho đất nước.
Hoạt động của tầng lớp trí thức Việt Nam trước năm 1945
Năm 1858, thực dân Pháp xâm chiếm Đà Nẵng, đánh dấu sự khởi đầu của giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc Trong bối cảnh giai cấp thống trị bất lực, một số trí thức đã đứng lên lãnh đạo phong trào chống ngoại xâm, thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ Mặc dù các phong trào cứu nước không thành công, nhưng chúng đã khẳng định chí khí đấu tranh của nhân dân và tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh mới, liên quan đến sự hình thành của tầng lớp trí thức tân học.
Vào đầu thế kỷ XX, phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục đã khởi đầu một xu hướng đấu tranh mới, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng tư sản Những thay đổi trong nhận thức đã dẫn đến việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin tại Việt Nam, đồng thời góp phần vào sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam Sự kiện này đánh dấu sự trưởng thành của trí thức cách mạng, với trách nhiệm lịch sử quan trọng Cùng với toàn dân tộc, tầng lớp trí thức đã tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 1930.
Trong giai đoạn 1935-1939, trí thức yêu nước và tiến bộ hoạt động mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng đến quần chúng và thúc đẩy các phong trào đòi tự do, cơm áo, hòa bình Dù bị kẻ thù khủng bố và đàn áp, khí tiết kiên trung của họ càng làm lan tỏa sức mạnh dân tộc Tại Sài Gòn – Gia Định, nhiều trí thức như Trần Phú, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Văn Cừ, và Phan Bôi đã anh dũng hy sinh, thổi bùng ngọn lửa căm hờn và quyết tâm cứu nước trong lòng nhân dân.
Sự trưởng thành của trí thức trong giai đoạn 1930 – 1935 được thể hiện qua sự tham gia tích cực vào các hoạt động cách mạng, như biểu tình, bãi khóa và tố cáo chủ nghĩa thực dân Năm 1933, một số trí thức đã được bầu vào Hội đồng thành phố Sài Gòn, nơi họ đề xuất ba dự án quan trọng: đại xá chính trị phạm, cứu tế thất nghiệp và chống thuế thân, đồng thời bảo vệ quyền lợi của nhân dân Từ 1936 đến 1939, phong trào bãi công, bãi khóa diễn ra mạnh mẽ, với sự ra đời của nhiều tờ báo như La Lutte, L’Avant Garde và Dân chúng, nhằm phản ánh cuộc sống khó khăn của dân chúng và ủng hộ các phong trào đấu tranh tại Sài Gòn.
Trong những năm 20 và 30 của thế kỷ trước, Sài Gòn nổi bật với ba trí thức tiêu biểu: Nguyễn An Ninh, một nhà Tây học; Thiện Chiếu, một nhà Phật học; và Trần Hữu Độ, một nhà Nho học, Hán học Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, cả ba nhân vật này đều đã chuyển hướng về chủ nghĩa Mác – Lênin và gia nhập Đảng Cộng sản, thể hiện một quy luật phát triển trong hoạt động văn hóa và chính trị công khai của thời kỳ đó.
Từ năm 1940 đến đầu năm 1945, trí thức Việt Nam ở Nam bộ và cả nước tích cực tham gia chống thực dân Pháp qua nhiều hình thức Vào tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức Hội nghị mở rộng tại Mỹ Tho để thảo luận về khởi nghĩa Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ vào ngày 23/11/1940, với sự nổi dậy dũng cảm của quần chúng tại các tỉnh miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn – Chợ Lớn, Gia Định Trong thời gian này, phong trào của trí thức, học sinh, sinh viên ở nội đô phát triển mạnh mẽ, với nhiều hoạt động đấu tranh nhằm lôi kéo tầng lớp trung gian, đặc biệt là trí thức và thanh niên, tham gia vào cuộc cách mạng.
Năm 1941, trong bối cảnh chiến tranh thế giới diễn biến phức tạp, Đảng nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần, yêu cầu trí thức phải thích ứng với tình hình mới Nhiều trí thức tại Sài Gòn như Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, và Lê Khắc Thiền đã tham gia Ban Chấp hành Tổng hội Sinh viên Đông Dương, tích cực tổ chức phong trào, diễn thuyết, và cung cấp dịch vụ y tế Đến đầu năm 1944, Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập nhằm tập hợp trí thức yêu nước trong cuộc đấu tranh giành độc lập Dưới sự chỉ đạo của Lê Quang Đạo, trí thức Sài Gòn đã tích cực tham gia vào phong trào bỏ học để liên lạc với Xứ ủy Nam Kỳ Tháng 2/1944, nhiều sinh viên như Huỳnh Văn Tiểng và Lưu Hữu Phước đã rời bỏ ghế nhà trường, bằng xe đạp trở về Sài Gòn, tham gia thành lập Tân Dân chủ đoàn, tổ chức này sau đó sáp nhập vào Đảng Dân chủ Việt Nam vào tháng 7/1944.
Huỳnh Tấn Phát đã mua lại tuần báo Thanh niên, một ấn phẩm có nội dung tiến bộ, và nhờ đó đã thu hút được sự ủng hộ cùng sự cộng tác của nhiều trí thức và văn nghệ sĩ nổi tiếng như Phạm Thiều, Lý Vĩnh Khuông, Xuân Diệu, Dương Tử Giang và Bằng Giang.
Mặc dù chỉ phát hành một vài số trước khi bị đình bản, tuần báo đã thu hút sự ủng hộ mạnh mẽ từ độc giả và được Xứ ủy Nam kỳ chú ý Nhờ đó, nhiều trí thức như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Việt Nam, Trương Công Cán, và Vương Văn Lễ đã được tập hợp vào các lớp huấn luyện chính trị để nâng cao năng lực Vai trò của trí thức trong giai đoạn này không chỉ dừng lại ở tuyên truyền, cổ động mà còn mở rộng sang các hoạt động chuẩn bị tổ chức và nhân sự cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 29/9/1944, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Hội Truyền bá Quốc ngữ Nam kỳ được thành lập với Ban Trị sự gồm Michel Nguyễn Văn Vĩ, Đoàn Quang Tấn, Dược sĩ Huỳnh Văn Tiểng và Tổng Thư ký Lý Vĩnh Khuông Hoạt động truyền bá quốc ngữ tại Sài Gòn và Nam kỳ mang ý nghĩa nhân văn cao cả, giúp nhân dân thoát khỏi nạn mù chữ và giáo dục tinh thần yêu nước, từ đó tạo tiền đề vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng Sự kiện này thu hút đông đảo trí thức, sinh viên và học sinh tham gia, với nhiều trí thức được phân công vào các ban chuyên môn như tu thư, huấn luyện, giám sát và cổ động, trong đó có kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát cùng các giáo sư nổi bật như Nguyễn Văn Chì, Phạm Thiều, Trần Văn Hanh, Nguyễn Văn Duyên, Hồ Văn Lái, Trần Văn Các và Bằng Giang.
Y, Trần Thị Lành… Đêm 9/3/1945, lo sợ Pháp lật lọng đánh từ sau lưng, quân Nhật đã tiến hành đảo chính Pháp, tuyên bố “trao trả độc lập” cho Việt Nam, chủ trương tập hợp thanh niên để “bảo vệ độc lập” mà Nhật vừa tuyên bố Nhân dịp này, dưới sự chỉ đạo của
Vào tháng 5 năm 1945, Xứ ủy Nam kỳ đã thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong nhằm tập hợp thanh niên yêu nước, tạo thành lực lượng xung kích trong cuộc vận động nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền Trong tổ chức này có sự tham gia của nhiều trí thức nổi bật như kỹ sư Kha Vạng Cân, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, kỹ sư Ngô Tấn Nhơn, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Thái Văn Lung, bác sĩ Nguyễn Văn Thủ, cùng các sinh viên Huỳnh Văn Tiểng, Võ Hà Trị, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Đăng và Hồ Văn Nhựt.
Huỳnh Bá Nhung, dược sĩ Trần Kim Quan, và nhiều trí thức khác đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Thanh niên Tiền phong, đạt hơn 1,2 triệu thành viên trong vòng 3 tháng, mở rộng thành phần tham gia bao gồm phụ nữ, phụ lão và thiếu niên Đến tháng 8, tổ chức này đã trở thành mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp các giai cấp và tôn giáo yêu nước trong cao trào cách mạng Vai trò của trí thức ở Sài Gòn trong giai đoạn chuẩn bị tổng khởi nghĩa thể hiện rõ qua công tác binh vận, khi Trần Văn Giàu cùng đồng đội thuyết phục các nhóm vũ trang thân Nhật gia nhập Việt Minh Sau khi Nhật hoàng đầu hàng, đại diện Thanh niên Tiền phong đã thương lượng với Thống chế Terauchi, đạt được cam kết không can thiệp vào cuộc tổng khởi nghĩa và cung cấp vũ khí cho lực lượng cách mạng Ngày 19/8, sau khi nhận tin khởi nghĩa ở Hà Nội thắng lợi, Xứ ủy Nam kỳ đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa và chỉ đạo giành chính quyền trước 0 giờ ngày 25/8 Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đến tối 24/8, trí thức và nhân dân Sài Gòn đã chiếm được nhiều cơ sở quan trọng Sáng 25/8, cuộc mít tinh mừng khởi nghĩa thắng lợi diễn ra, với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch công bố danh sách Lâm ủy Hành chính Nam bộ, chủ yếu là trí thức.
Vào ngày 13/9, Kỳ bộ Việt Minh đã tổ chức họp mở rộng và quyết định đổi tên Lâm ủy Hành chính Nam bộ thành Ủy ban Nhân dân Nam bộ, với Trần Văn Giàu giữ chức Chủ tịch Trong bối cảnh tổng khởi nghĩa và xây dựng chính quyền mới, trí thức đã trở thành lực lượng nòng cốt, dẫn dắt nhân dân phá vỡ xiềng xích nô lệ, từ đó khẳng định quyền làm chủ bản thân và đất nước.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 không chỉ có ý nghĩa quân sự mà còn mang tính chính trị sâu sắc, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt và kịp thời của Đảng trong việc phân tích vai trò của từng bộ phận nhân dân Đảng đã xây dựng lực lượng và thế trận vững chắc, tạo ra thời cơ quyết định để giành chính quyền về tay nhân dân Đặc biệt, Đảng đã nhận thức đúng đắn vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, từ đó phát huy tối đa năng lực của họ Trong đó, trí thức được xem là lực lượng quan trọng, với nhiệt huyết cách mạng và khả năng dự báo thời cuộc, góp phần vào việc hoạch định chính sách và dẫn dắt nhân dân trong tiến trình cách mạng.
Qua các thư tịch cổ Việt Nam, Trung Quốc, chúng ta biết được vào thế kỉ thứ