NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1 Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một khái niệm chính trị phức tạp, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, bao gồm hai thành phần.
"Demos" có nghĩa là người bình dân, dân chúng, trong khi "kratia" (xuất phát từ "kratos") có nghĩa là quyền cai trị hoặc sức mạnh Như vậy, khái niệm này có thể được hiểu là quyền lực thuộc về nhân dân.
"Demoskratia" có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, thể hiện qua chính quyền của nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng dân chủ là chính quyền “của dân, do dân và vì dân” Điều này cho thấy dân chủ là một thể chế do nhân dân làm chủ, trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân và được thực thi bởi chính họ hoặc thông qua các đại biểu mà họ bầu ra.
Bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” [3, tr.2].
Để xây dựng một xã hội dân chủ, mọi cán bộ, công chức cần phải thực sự là nô bộc của dân, phục vụ lợi ích của nhân dân Tuy nhiên, thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước chưa hoàn thành vai trò này như mong muốn của Bác Hồ Nếu không thực hiện dân chủ, nhà nước sẽ rơi vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, cản trở sự phát triển Chính quyền cần tạo điều kiện và cơ chế để người dân có thể tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống, sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và đất nước.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, được hình thành từ hai chữ ghép lại.
Khái niệm "demos" có nghĩa là người bình dân, dân chúng, trong khi "kratia" (xuất phát từ "kratos") có nghĩa là quyền cai trị hoặc sức mạnh Từ sự kết hợp này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất của quyền lực và sự lãnh đạo trong xã hội.
"Demoskratia" có nghĩa là quyền lực và chính quyền thuộc về nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng dân chủ là chính quyền “của dân, do dân và vì dân” Điều này cho thấy dân chủ là một thể chế do nhân dân làm chủ, trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân và được thực thi bởi chính họ hoặc thông qua các đại biểu mà họ bầu ra.
Bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” [3, tr.2].
Mọi cán bộ, công chức cần trở thành nô bộc của dân, phục vụ nhân dân như mong muốn của Bác Hồ Tuy nhiên, thực tế cho thấy đội ngũ này chưa thực sự làm được điều đó Nếu không thực hiện dân chủ, nhà nước sẽ rơi vào tình trạng quan liêu, cản trở sự phát triển Một xã hội dân chủ phải thể hiện mối quan hệ thực chất giữa nhân dân và chính quyền, trong đó chính quyền cần tạo điều kiện để người dân tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến cuộc sống, sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và đất nước.
Trong quá trình thực hiện Hiến pháp năm 2013, các cơ quan quyền lực tại Việt Nam ngày càng nâng cao quyền dân chủ cho quần chúng lao động, khuyến khích họ tự giác thực hiện nhiệm vụ và tạo ra không khí bình đẳng tại địa phương Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại các xã, phường và thị trấn đóng vai trò quan trọng, thể hiện sự dân chủ tại các xóm, khối phố, làng, bản, và mối quan hệ giữa người quản lý và quần chúng Dân chủ ở cơ sở chủ yếu được thể hiện qua hình thức dân chủ trực tiếp và tự quản của nhân dân, mang lại ý nghĩa to lớn vì đây là nơi thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời là nơi cán bộ gần gũi, đối thoại với người dân một cách rộng rãi.
1.1.2 Khái niệm Quy chế dân chủ cơ sở
Nhà nước Việt Nam là của dân, do dân và vì dân, và dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như độc lập, tự do và thống nhất Hiện nay, toàn Đảng và toàn dân đang nỗ lực xây dựng một Việt Nam theo mục tiêu Đại hội Đảng XII: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, một số yếu kém và khuyết điểm đã xuất hiện, đặc biệt là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên Việc thực hiện quy chế dân chủ còn bị vi phạm ở nhiều nơi và lĩnh vực, gây xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và tạo ra những phiền hà, sách nhiễu, trở thành rào cản lớn cho sự phát triển.
Để giải quyết thực trạng hiện nay, Đảng và Nhà nước cần thiết lập một cơ chế nhằm từng bước thực hiện và khôi phục quyền dân chủ cho người dân.
19 năm, Hội nghị BCHTW lần thứ 3 khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 03-
NQ/TW ngày 18/6/1997 nhấn mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua các hình thức dân chủ đại diện và trực tiếp, đồng thời xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch và hiệu quả Nghị quyết khẳng định sự cần thiết mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và nâng cao vai trò của nhân dân trong quản lý Nhà nước Để nâng cao nhận thức về quyền dân chủ, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị 30/CT-TW nhằm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, nhấn mạnh việc giữ vững quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích sự tham gia của họ trong quản lý Nhà nước, đồng thời khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu và tham nhũng.
Ngày 26/2/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH theo Chỉ thị 30/CT-TW của Bộ Chính trị, quy định về việc thực hiện dân chủ ở xã Nghị quyết này đã giao Chính phủ nhiệm vụ ban hành quy chế thực hiện dân chủ cơ sở, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương và cơ quan triển khai thực hiện.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2003/NQ-CP theo chỉ thị của Bộ Chính trị và nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã Nghị định nêu rõ rằng Quy chế này không chỉ áp dụng cho các xã mà còn cho cả phường và thị trấn Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ sẽ hướng dẫn việc áp dụng quy chế này tại các địa phương.
Quy chế dân chủ ở cơ sở bao gồm sự tham gia của nhân dân trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp Đảng và Nhà nước đã liên tục ban hành chỉ thị, nghị quyết và nghị định để thể hiện sự quan tâm đến việc xây dựng thể chế dân chủ, thực hiện tư tưởng của Bác Hồ về quyền lực của nhân dân Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản pháp luật quy định biện pháp để nhân dân thực hiện quyền làm chủ tại cơ sở, đảm bảo rằng mọi người đều được biết, được làm và được hưởng quyền lợi Các quy định này cũng phân định rõ nội dung công việc nào do Nhà nước quyết định, nội dung nào do nhân dân quyết định, và nội dung nào nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra, từ đó phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của nhân dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là văn bản pháp luật quy định rõ ràng những thông tin mà HĐND và UBND xã phải công khai để nhân dân nắm bắt Nó cũng xác định các vấn đề mà nhân dân có quyền bàn bạc, quyết định trực tiếp và tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước đưa ra quyết định Quy chế này khuyến khích nhân dân giám sát, kiểm tra, từ đó phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của họ, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí và ổn định chính trị Đồng thời, quy chế cũng giúp ngăn chặn tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, Đảng viên, tạo điều kiện cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN Thực chất, quy chế này là một định chế pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, tạo ra môi trường làm việc tích cực và phấn khởi cho người lao động.
1.1.3 Nông thôn và nông thôn mới
"Nông thôn" là khái niệm quen thuộc nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, thường được hiểu là làng, xóm, thôn trong văn hóa Việt Nam Đây là môi trường kinh tế chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa nước truyền thống, đồng thời cũng là không gian sinh tồn và xã hội, tạo nên cảnh quan văn hóa đặc trưng Nông thôn không chỉ hình thành nền tảng tinh thần mà còn ảnh hưởng đến lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt.
Khi định nghĩa nông thôn, người ta thường so sánh với đô thị, với nhiều quan điểm khác nhau Một số ý kiến cho rằng mật độ dân số là tiêu chí chính, vì nông thôn có số lượng dân cư thấp hơn đô thị Quan điểm khác lại nhấn mạnh sự phát triển của cơ sở hạ tầng, cho rằng nông thôn không phát triển bằng thành phố Ngoài ra, việc tiếp cận thị trường và phát triển hàng hoá cũng là tiêu chí quan trọng, vì nông thôn thường có năng lực sản xuất và khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn Cuối cùng, nhiều người cho rằng nông thôn là khu vực chủ yếu dựa vào nông nghiệp cho sinh kế Tuy nhiên, những quan điểm này chỉ đúng trong từng bối cảnh cụ thể và phụ thuộc vào mức độ phát triển, cơ cấu kinh tế cũng như cơ chế của mỗi quốc gia.
Khái niệm "nông thôn" có tính chất tương đối và thay đổi theo thời gian cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia Tại Việt Nam, nông thôn được hiểu là khu vực cư trú của một nhóm cư dân, chủ yếu là nông dân, tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định, đồng thời chịu ảnh hưởng từ các tổ chức khác.
Nội dung, vai trò, đặc điểm của Quy chế dân chủ cơ sở
1.2.1 Nội dung Quy chế dân chủ cơ sở
Ngày 07 tháng 7 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định 79/2003/NĐ-CP Quy chế thực hiện dân chủ ở xã gồm: 7 chương và 25 điều Cơ bản Quy chế khái quát về Quyền và nghĩa vụ công dân trong quá trình thực hiện dân chủ, bao gồm:
Về nội dung, Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở tập trung đề cập:
Quy định cần thông báo cho nhân dân biết những thông tin pháp luật, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân Điều này bao gồm các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của ủy ban nhân dân xã và cấp trên liên quan đến địa phương, cùng với các quy định pháp luật về thủ tục hành chính và giải quyết công việc cho dân Ngoài ra, cần thông tin về mức thu thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ khác theo quy định hiện hành, cũng như kế hoạch phát triển kinh tế của địa phương.
Xã hội dài hạn và hàng năm của xã bao gồm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, dự toán và quyết toán ngân sách, cũng như các quỹ và chương trình, dự án huy động nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng Các chương trình, dự án này được Nhà nước và các tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ nhằm phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo, và điều chỉnh địa giới hành chính liên quan Kết quả thanh tra, kiểm tra về tiêu cực, tham nhũng của cán bộ xã, thôn cũng rất quan trọng Công tác văn hóa, xã hội, phòng chống tệ nạn, giữ gìn an ninh trật tự xã hội được chú trọng, cùng với việc sơ kết, tổng kết hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã Phương án dồn điền, đổi thửa phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế trang trại, hợp tác xã được thực hiện Bình xét hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất, xây dựng nhà tình thương, và chính sách hỗ trợ gia đình có công với cách mạng cũng được triển khai, tạo điều kiện cho các công trình thuộc chương trình, dự án của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân được thực hiện hiệu quả.
Chính quyền xã cần hợp tác với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận để cung cấp thông tin cho nhân dân Việc này được thực hiện thông qua hình thức niêm yết công khai văn bản tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, các trung tâm dân cư, văn hóa, và qua hệ thống truyền thanh của xã, thôn Thêm vào đó, thông tin cũng có thể được truyền đạt trong các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân xã hoặc gửi trực tiếp đến các ấp, thôn.
Quy chế quy định những vấn đề mà nhân dân có quyền bàn bạc và quyết định, cùng với các hình thức thực hiện Cấp xã có quyền giám sát, kiểm tra và quy định phương thức thực hiện giám sát, kiểm tra Việc xây dựng cộng đồng dân cư tại thôn, làng, bản, ấp được chú trọng Để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, quy chế thiết lập cơ chế thực hiện thông qua hai hình thức dân chủ: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó dân chủ trực tiếp tại cấp cơ sở đóng vai trò quan trọng.
Quy chế quy định rõ các loại công việc để người dân có thể biết, bàn bạc, giám sát và kiểm tra Theo Điều 1, quy chế này yêu cầu HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai những vấn đề quan trọng để dân hiểu Đồng thời, quy định những công việc mà người dân có quyền tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước đưa ra quyết định, cũng như những nhiệm vụ mà họ có thể giám sát và kiểm tra, nhằm thực hiện quy chế dân chủ tại địa phương.
Quy chế quy định quyền của người dân được tiếp cận thông tin về các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, cũng như những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày Đồng thời, chính quyền có nghĩa vụ cung cấp thông tin kịp thời và công khai cho cộng đồng.
Về những nội dung dân bàn, có 2 loại gồm:
Thứ nhất, các loại công việc cho dân bàn và quyết định trực tiếp
Thứ hai, các loại công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, HĐND và
Công việc dân bàn và quyết định trực tiếp là những hoạt động quan trọng, trong đó người dân tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết lập hương ước, quy ước nội bộ Quy định này không chỉ khẳng định quyền làm chủ của nhân dân mà còn có tác dụng tích cực trong việc chống tham nhũng và lãng phí.
Nội dung dân giám sát và kiểm tra được quy định trong Quy chế, bao gồm các công việc từ hoạt động của HĐND, UBND đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kết quả quyết toán các công trình do dân đóng góp, quản lý sử dụng đất đai, thu chi các quỹ, và thực hiện chính sách đối với người có công với nước Dân giám sát và kiểm tra thể hiện quyền lực của người dân trong quản lý đất nước, như V.I Lênin đã từng nhấn mạnh.
Nếu không có sự kiểm kê và kiểm soát toàn dân trong sản xuất và phân phối sản phẩm, chính quyền của người lao động và nền tự do của họ sẽ không thể tồn tại.
1.2.2 Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ cơ sở trong sự nghiệp xây dựng đất nước
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tạo ra khung pháp lý cho chính quyền và tổ chức chính trị-xã hội, đóng vai trò cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân Trong quá trình xây dựng xã hội mới, Việt Nam vẫn mang dấu ấn của chế độ cũ, từ ý thức hệ đến tập quán sản xuất và thực hành dân chủ Cấu trúc làng xã phong kiến đã hình thành những giá trị dân chủ sơ khai như tình làng nghĩa xóm và sự kết nối trong mối quan hệ thân tộc Tuy nhiên, sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân đã tạo ra những yếu tố sơ khai của dân chủ tư sản Do đó, nền tảng dân chủ ở cơ sở của xã hội Việt Nam không kế thừa nhiều giá trị dân chủ lịch sử, gây khó khăn trong việc xây dựng xã hội mới, đặc biệt là các thiết chế dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ra đời là yêu cầu thiết yếu trong quá trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với quần chúng nhân dân Đảng luôn quán triệt tư tưởng của Bác Hồ, coi dân là gốc Lần đầu tiên, định hướng chính trị về dân chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trong một văn bản pháp luật, tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các cơ quan nhà nước và công dân Quy chế này thúc đẩy đời sống văn hóa, thực hiện quyền công dân và công khai, minh bạch các hoạt động của hệ thống chính trị.
Các tổ chức chính trị, xã hội có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện các chính sách của Đảng, và giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước Họ tập hợp ý chí và nguyện vọng của nhân dân để phản ánh kịp thời với Đảng và Nhà nước, đồng thời tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân Bằng cách triển khai và giám sát thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, các tổ chức này góp phần tạo ra môi trường dân chủ lành mạnh, củng cố tổ chức Đảng và chính quyền, từ đó khôi phục lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan và cán bộ nhà nước.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là cách đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Trong quá khứ, nhiều địa phương đã thiếu sự quan tâm đến tâm tư và nguyện vọng của nhân dân trong việc giải quyết các vấn đề của làng xã Tuy nhiên, khi quy chế dân chủ được triển khai, người dân đã phấn khởi và nhiệt tình hưởng ứng Những nơi thực hiện tốt quy chế sẽ phát triển phong trào sinh hoạt chính trị mạnh mẽ, ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt đời sống xã hội Qua quá trình này, người dân nhận thức rõ hơn về quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng đời sống dân chủ ở cơ sở, dẫn đến sự chuyển biến trong ý thức làm chủ và ý thức công dân Tại cộng đồng dân cư như xã, phường, người dân có thể trực tiếp bày tỏ ý kiến, quyết định và giám sát các công việc của xã hội.
Xây dựng nông thôn mới trong mối quan hệ biện chứng với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta
1.3.1 Nội dung Chương trình, mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Sự nghiệp xây dựng Nông thôn mới tại Việt Nam hiện nay được thực hiện theo "Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới" của Chính phủ, được ban hành theo quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/04/2009, bao gồm 19 tiêu chí quan trọng Các tiêu chí này bao gồm quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh, và an ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
Các tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới được phân thành 5 nhóm chính: Quy hoạch (1 tiêu chí), Hạ tầng kinh tế - xã hội (8 tiêu chí), Kinh tế và Tổ chức sản xuất (4 tiêu chí), Văn hóa - Xã hội - Môi trường (4 tiêu chí), và Hệ thống chính trị (2 tiêu chí) Những tiêu chí này tập trung vào các lĩnh vực căn bản nhằm nâng cao chất lượng đời sống và phát triển bền vững cho nông thôn.
Quy hoạch nông thôn mới là bước khởi đầu quan trọng để đảm bảo hiệu quả cho các nội dung khác trong chương trình Việc triển khai quy hoạch cần rà soát, kế thừa và điều chỉnh các quy hoạch hiện có, đồng thời xây dựng các quy hoạch mới theo yêu cầu của Chương trình xây dựng nông thôn mới, bao gồm quy hoạch chung, quy hoạch hạ tầng, quy hoạch khu dân cư và quy hoạch sản xuất.
Xây dựng cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sản xuất và cải thiện điều kiện sống của người dân Để thực hiện, cần khảo sát và đánh giá thực trạng hệ thống hạ tầng hiện có, từ đó xác định các công trình cần xây dựng dựa trên tiêu chí của xã nông thôn mới Cần đưa ra thảo luận trong cộng đồng để lựa chọn cách làm và thứ tự ưu tiên, tập trung vào việc cải tạo và nâng cấp các công trình hiện có, chỉ xây dựng mới những công trình chưa có Đối với những công trình yêu cầu kỹ thuật phức tạp và vốn lớn, cần lập dự án đầu tư và đấu thầu, trong khi các dự án đơn giản có thể lập báo cáo kinh tế kỹ thuật và tổ chức cho người dân tự thực hiện dưới sự giám sát của cộng đồng.
Việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng yêu cầu nguồn vốn lớn, vì vậy cần tuyên truyền và huy động sự tham gia của nhân dân qua nhiều hình thức như đóng góp tiền, vật liệu, ngày công và hiến đất cho các công trình như mở rộng đường, xây dựng kênh mương, trường học, nhà văn hóa và trạm y tế Đồng thời, kêu gọi sự hỗ trợ từ doanh nghiệp, tổ chức xã hội và những người con thành đạt đang làm việc xa nhà, cả trong nước lẫn nước ngoài, cũng rất quan trọng Sự hỗ trợ ban đầu từ ngân sách Nhà nước Trung ương và địa phương sẽ tạo lòng tin và thúc đẩy việc thực hiện chương trình hiệu quả.
Phát triển sản xuất, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân là nội dung cốt lõi của Chương trình, đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của nông thôn mới Để đạt được mục tiêu này, cần có sự chỉ đạo tập trung từ các cấp, các ngành Đồng thời, việc củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế tập thể, gắn liền với mô hình sản xuất mới, sẽ hỗ trợ hiệu quả cho kinh tế hộ, tạo cầu nối giữa nông dân với các đơn vị khoa học, doanh nghiệp và thị trường.
Về văn hóa, xã hội, môi trường
Để nâng cao chất lượng cuộc sống và làm phong phú đời sống tinh thần ở nông thôn, cần chú trọng phát triển giáo dục, y tế, nước sạch và vệ sinh môi trường Việc cải tạo nhà ở, xóa nhà tạm, xây dựng công trình vệ sinh cho hộ gia đình và phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, cũng như khôi phục các lễ hội văn hóa truyền thống là rất cần thiết.
Về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là mục tiêu thiết yếu để đảm bảo thành công trong việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới Để đạt được điều này, cần nâng cao vai trò làm chủ của cư dân nông thôn và khuyến khích sự tham gia tích cực của mọi người dân cùng các tổ chức trong hệ thống chính trị tại cơ sở Qua đó, hệ thống chính trị ở cơ sở sẽ được củng cố và hoạt động hiệu quả hơn.
1.3.2 Mối quan hệ giữa thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng nông thôn mới
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là yêu cầu đối với người lãnh đạo, quản lý trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Vào ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp theo là Chỉ thị số 10-CT/TƯ vào ngày 28/3/2002 nhằm thúc đẩy việc này Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 79/2003/NĐ-CP và Nghị định 04/2015/NĐ-CP để quy định thực hiện dân chủ trong các cơ quan hành chính Để có uy tín, lãnh đạo cần sở hữu trí tuệ, tư duy khoa học và lối sống lành mạnh, đồng thời phải biết lắng nghe Các cán bộ cơ sở cần có khả năng thuyết phục người dân thông qua công việc và lối sống của mình, tạo mối liên hệ gần gũi và hòa đồng để thực thi dân chủ hiệu quả Khi trình độ dân trí tăng lên, phẩm chất của cán bộ lãnh đạo cũng cần được củng cố để đáp ứng kỳ vọng của người dân.
Để thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ cơ sở (QCDC) trong quá trình xây dựng Nông thôn mới (NTM), việc củng cố và nâng cao uy tín của người lãnh đạo và quản lý là điều kiện tiên quyết.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn mới, yêu cầu củng cố uy tín đội ngũ lãnh đạo và quản lý trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế Để thực hiện điều này, cần tiếp tục tuyên truyền về Quy chế dân chủ cơ sở (QCDC) một cách ngắn gọn, dễ hiểu và dễ thực hiện, tập trung vào các nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” Đồng thời, việc giáo dục và tuyên truyền cần gắn liền với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Để nâng cao uy tín của cán bộ cơ sở, họ cần tự phấn đấu, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác nhằm đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.
Việc nâng cao tri thức không chỉ là học chuyên môn mà còn là khả năng kết nối và thu hút sự hỗ trợ từ những chuyên gia trong lĩnh vực, đồng thời cập nhật tri thức mới Học tập giúp lãnh đạo lắng nghe và đưa ra quyết sách đúng đắn, đồng thời nâng cao bản lĩnh chính trị và lan tỏa niềm tin cho người khác Người lãnh đạo cần xây dựng lối sống lành mạnh, tuân thủ pháp luật và phù hợp với phong tục địa phương, từ đó nhận được sự ủng hộ của cộng đồng Cuối cùng, lãnh đạo cần rèn luyện phong cách lãnh đạo dân chủ, giữ liên hệ chặt chẽ với quần chúng để duy trì sự tín nhiệm.
Xây dựng phong cách lãnh đạo dân chủ là điều kiện tiên quyết trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, gắn bó với quần chúng và chăm lo đến lợi ích của họ Người lãnh đạo cần cởi mở, giản dị và tập trung vào những công việc mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, đồng thời không đề cao công lao cá nhân để nâng cao uy tín Sự khác biệt giữa lãnh đạo dân chủ và mị dân là khả năng lắng nghe và quyết đoán để không bỏ lỡ cơ hội Phong cách lãnh đạo dân chủ kết hợp tri thức và khoa học, gắn lý luận với thực tiễn, không quan liêu hay độc đoán, nhưng cũng không theo đuôi quần chúng Lãnh đạo cần chịu trách nhiệm và sẵn sàng thực hiện phê bình, tự phê bình Trong những vấn đề nhạy cảm liên quan đến đời sống người dân, việc tham khảo ý kiến của họ là rất quan trọng Người lãnh đạo cần có bản lĩnh, năng lực tổ chức và đàm phán, đảm bảo người dân được tôn trọng và có tiếng nói trong các vấn đề họ quan tâm Cuối cùng, phong cách dân chủ còn thể hiện sự minh bạch và trách nhiệm giải trình với người dân về những vấn đề họ thắc mắc và bức xúc.
Mối quan hệ giữa việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đối với quá trình xây dựng nông thôn mới
Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở một cách hiệu quả sẽ tạo ra môi trường dân chủ, từ đó nâng cao nhận thức của toàn Đảng và toàn dân về các chủ trương, quan điểm, giải pháp, cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi công dân trong việc xây dựng nông thôn mới.
Cấp ủy, Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc cần tăng cường công tác tuyên truyền để tạo ra những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cộng đồng Cấp ủy nên ban hành nghị quyết và xây dựng kế hoạch triển khai đến từng chi bộ, đồng thời phân công cán bộ, đảng viên tham gia họp và quán triệt nội dung nghị quyết cho nhân dân ở các thôn, ấp.