NỘI DUNG
Cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ Việc cải thiện năng lực và trình độ của cán bộ này không chỉ góp phần phát triển địa phương mà còn nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo Để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp và thường xuyên đánh giá hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ.
1.1.1 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Khái niệm về cán bộ khác nhau giữa các quốc gia do đặc điểm, truyền thống dân tộc và lịch sử riêng biệt Ở các nước XHCN, thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng phổ biến, trong khi các nước phương Tây như Mỹ, Anh, Pháp, Đức thường gọi là "công chức" Tại Nhật Bản, khái niệm "quan chức" được áp dụng để chỉ những người đảm nhiệm vị trí này.
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm
Theo định nghĩa năm 1999, "cán bộ" được hiểu là người làm việc trong cơ quan nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ cao và những người không có chức vụ Tất cả đều có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước và nhận lương từ ngân sách nhà nước theo quy định Ngoài ra, cán bộ còn được xem là những người có chức vụ và trách nhiệm cao hơn trong tổ chức, phản ánh vai trò quan trọng của họ trong việc chỉ huy và điều hành.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ .9 1.1 Cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Việc xác định đối tượng cán bộ ở mỗi quốc gia khác nhau do đặc điểm, truyền thống dân tộc và lịch sử riêng biệt Khái niệm cán bộ thường phổ biến trong các nước XHCN và các tổ chức thuộc phong trào cộng sản, trong khi ở các nước phương Tây như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, khái niệm công chức được sử dụng Tại Nhật Bản, khái niệm quan chức lại được áp dụng.
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm
Theo định nghĩa năm 1999, cán bộ là người làm việc trong cơ quan nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ cao nhất và những người không có chức vụ Tất cả đều có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước và nhận lương từ ngân sách nhà nước theo quy định Cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ và trách nhiệm cao hơn trong tổ chức, thể hiện vai trò nòng cốt và chỉ huy trong bộ máy.
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau, phản ánh sự đa dạng và tầm quan trọng của đội ngũ này trong quá trình phát triển và hiện đại hóa đất nước.
Trong các tổ chức Đảng và đoàn thể, thuật ngữ "cán bộ" được hiểu theo hai nghĩa Thứ nhất, nó chỉ những người được bầu vào các vị trí lãnh đạo, chỉ huy từ cấp cơ sở đến Trung ương, nhằm phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên và hội viên Thứ hai, "cán bộ" cũng ám chỉ những người làm công tác chuyên trách và nhận lương trong các tổ chức này.
Trong quân đội, các chỉ huy bao gồm những người từ cấp tiểu đội trưởng trở lên, như cán bộ tiểu đội, cán bộ đại đội và cán bộ tiểu đoàn Những vị trí này thường được đảm nhiệm bởi sĩ quan từ cấp uý trở lên.
Trong hệ thống Nhà nước, "cán bộ" chủ yếu được hiểu là công chức, tức là những người làm việc tại các cơ quan hành chính và tư pháp Ngoài ra, cán bộ cũng ám chỉ những người đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy và phụ trách trong tổ chức.
Từ "cán bộ" chủ yếu ám chỉ những người giữ vai trò quan trọng trong một tổ chức, đóng vai trò nòng cốt và chỉ huy Cán bộ không chỉ có chức vụ mà còn có khả năng tác động đến hoạt động của tổ chức cũng như các mối quan hệ trong lãnh đạo, quản lý và điều hành Họ là những người định hướng cho sự phát triển bền vững của tổ chức.
Trong pháp lệnh cán bộ công chức Việt Nam năm 1998, đã xác định đối tượng là cán bộ công chức bao gồm những người:
Những người làm việc trong biên chế nhà nước, bao gồm những cá nhân được bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên, đóng vai trò quan trọng trong các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị Họ nhận lương từ ngân sách Nhà nước và góp phần vào hoạt động của hệ thống chính trị.
Cán bộ được hiểu là tất cả những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, đoàn thể và lực lượng vũ trang, bao gồm cả những người giữ chức vụ và những người thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ mà không giữ chức vụ Điều này khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ trong hệ thống xã hội và các cơ quan, đơn vị quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Trong khoa học tổ chức, cán bộ được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí cụ thể Thông thường, việc phân loại cán bộ diễn ra theo những phương pháp sau đây:
Cách phân loại cán bộ theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn bao gồm các nhóm như cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, lãnh đạo chủ chốt, cán bộ chính trị, cán bộ quân sự, cán bộ kinh tế và cán bộ khoa học kỹ thuật.
Cán bộ có thể được phân loại theo chức vụ, cấp hàm, trình độ tổ chức xã hội và vai trò của họ trong hệ thống, bao gồm các cấp như cán bộ cao cấp, trung cấp và sơ cấp.
- Cách 3: Phân theo loại hình tổ chức trong hệ thống chính trị: Cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước, cán bộ đoàn thể nhân dân
Cán bộ có thể được phân loại theo thẩm quyền của các chủ thể quản lý, như được quy định trong quyết định phân cấp quản lý Cụ thể, có ba loại cán bộ: cán bộ thuộc diện Trung Ương quản lý (bao gồm Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung Ương), cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy (thành ủy) quản lý, và cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ huyện ủy (quận ủy) quản lý.
Dựa trên phân loại cán bộ, việc làm rõ khái niệm về vị trí, vai trò và đặc điểm của từng loại cán bộ là rất cần thiết Điều này sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và hoạch định các chủ trương, chính sách liên quan đến công tác cán bộ.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng cán bộ là nền tảng của mọi công việc, trong đó cán bộ chủ chốt đóng vai trò quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức Đảng và Nhà nước Họ là những người đứng đầu các ngành, địa phương và đơn vị, chịu trách nhiệm thực hiện đường lối và nhiệm vụ chính trị, đồng thời chỉ đạo cán bộ công chức hoàn thành nhiệm vụ Sự xuất sắc của cán bộ chủ chốt sẽ nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác, tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa các địa phương, từ phát triển nhanh chóng đến trì trệ Thay đổi cán bộ đứng đầu có thể cải thiện toàn diện tình hình kinh tế - xã hội Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt vững mạnh và đồng bộ ở mọi cấp, từ trung ương đến cơ sở, là rất cần thiết, đặc biệt là cần những nhà lãnh đạo trung thành ở cấp vĩ mô.
Các tiêu chí, yếu tố cơ bản đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc diện
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đã đề ra chiến lược quan trọng về cán bộ trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định các tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ.
Có tinh thần yêu nước sâu sắc và tận tụy phục vụ nhân dân, chúng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện hiệu quả đường lối của Đảng cùng với chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Cần kiệm, liêm chính và chí công vô tư là những giá trị cốt lõi, giúp xây dựng một xã hội không tham nhũng Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, cùng với ý thức tổ chức kỷ luật, tạo nên một môi trường làm việc trung thực Sự gắn bó mật thiết với nhân dân và nhận được sự tín nhiệm từ họ là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng niềm tin và sự minh bạch trong mọi hoạt động.
Người lao động cần có trình độ hiểu biết vững vàng về lý luận chính trị, quan điểm và đường lối của Đảng, cũng như các chính sách và pháp luật của Nhà nước Bên cạnh đó, họ phải sở hữu trình độ văn hóa, chuyên môn cao, cùng với năng lực và sức khỏe để thực hiện công việc hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân còn phải:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng dựa trên lập trường giai cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cách mạng và chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Cần có năng lực dự báo, định hướng phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật, và thuyết phục nhân dân thực hiện Đồng thời, phải có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, cũng như chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Gương mẫu về đạo đức, lối sống Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ
Có kiến thức vững vàng về khoa học lãnh đạo và quản lý, được hình thành từ quá trình học tập hệ thống tại các cơ sở của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân, cùng với kinh nghiệm thực tiễn phong phú và hiệu quả.
Cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang còn phải:
Chúng ta cần tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, cũng như bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thực tổ chức kỷ luật nghiêm,giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với đường lối của Đảng là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân Đồng thời, cần hiểu rõ các vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế xã hội để phát triển bền vững.
Cán bộ khoa học, chuyên gia còn phải:
- Có tư duy độc lập, sáng tạo, có ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ
- Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn
- Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ khoa học [7, tr.8]
Cán bộ quản lý kinh doanh còn phải:
Hiểu biết sâu sắc về các quan điểm kinh tế của Đảng là rất quan trọng Người lãnh đạo cần có phẩm chất đạo đức, sống cần kiệm, liêm chính và không lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí hay xa hoa.
- Có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học, công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế [7, tr.8]
Chất lượng cán bộ là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội Nó bao gồm các đặc điểm về thể lực, trí lực, kỹ năng, đạo đức, lối sống và tinh thần Trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng, vì nó không chỉ là nền tảng cho việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà còn hình thành nhân cách và lối sống của mỗi cá nhân.
Sức khỏe của cán bộ là tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng công chức, không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật mà còn là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội Bộ Y tế Việt Nam phân loại sức khỏe thành ba loại: Loại A (thể lực tốt, không bệnh tật), Loại B (trung bình), và Loại C (yếu, không có khả năng lao động) Tiêu chí sức khỏe cần được điều chỉnh theo từng loại cán bộ, phù hợp với yêu cầu hoạt động đặc thù của họ Yêu cầu về sức khỏe không chỉ là tiêu chuẩn trong tuyển chọn cán bộ mà còn phải được duy trì suốt quá trình công tác Cán bộ có sức khỏe tốt sẽ duy trì công việc liên tục và tiếp thu nhanh chóng kiến thức, kỹ năng, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người là yêu cầu chính đáng mà xã hội cần đảm bảo để phát triển bền vững.
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ sử dụng sức lao động mà còn cần trí óc, với trí lực là yếu tố quan trọng của nguồn nhân lực Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đòi hỏi người lao động phải có trình độ học vấn cơ bản, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động tốt để tiếp thu và áp dụng công nghệ mới Họ cần làm việc chủ động, linh hoạt và sáng tạo, sử dụng các công cụ lao động hiện đại Đánh giá trí lực của nguồn lực thường dựa trên trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng thực hành của người lao động, với một số chỉ tiêu cơ bản làm căn cứ.
Trình độ học vấn của cán bộ, công chức Việt Nam được phân thành ba nhóm: tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông Hiện nay, yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đòi hỏi 100% phải đạt trình độ học vấn trung học phổ thông, phù hợp với trình độ phổ cập giáo dục tại Việt Nam.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ được xác định qua việc đào tạo tại các trường lớp, với văn bằng phù hợp yêu cầu công việc Hệ thống văn bằng hiện nay bao gồm các trình độ như sơ cấp, trung cấp, đại học và sau đại học Tuy nhiên, khi đánh giá trình độ chuyên môn, cần chú ý đến sự phù hợp giữa chuyên môn đào tạo và yêu cầu thực tế của công việc, cũng như kết quả làm việc của cán bộ.
Trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ các ban, ngành cấp huyện là một yếu tố quan trọng được quy định bởi Bộ Chính trị Theo quy định, học tập lý luận chính trị không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của cán bộ, đảng viên Đặc biệt, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cần có kế hoạch học tập thường xuyên để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn và khả năng hoạt động thực tiễn.
Bản Quy chế này quy định chế độ học tập lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên
Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc diện
1.2.1 Vai trò, chức năng của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý
C.Mác và Ph Ăngghen, là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, mà còn là những người đem lý luận khoa học kết hợp với phong trào công nhân lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính quá trình nghiên cứu, truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân C.Mác đã khẳng định: "Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, xây dựng một đảng cách mạng của giai cấp công nhân Bản thân V.I Lênin vừa là lãnh tụ của Đảng, đồng thời cũng là một lãnh tụ của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới Trong di sản lý luận của người về đảng kiểu mới, những quan điểm về cán bộ, vai trò của cán bộ có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cách mạng của giai cấp công nhân Nga, trong bài "Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta" đăng trên tờ báo "Tia lửa" số 1 (tháng chạp năm 1900) V.I Lênin đã chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [26 tr.473] Theo Người, với lôgíc đó, giai cấp công nhân Nga chỉ có thể lật đổ chế độ Nga Hoàng, giành chính quyền khi xây dựng cho mình được một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản Đó là đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga, những người giúp Đảng "đảo ngược nước Nga lên" [25, tr.162], "những nhà chính trị của giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém những nhà chính trị tư sản" [24, tr 80-81] Sau khi đã giành được chính quyền, Người khẳng định: "nghiên cứu con người tìm những cán bộ có năng lực, biết làm việc, thực chất vấn đề hiện nay chính là ở những chỗ đó, nếu thiếu những điểm này thì tất cả mọi mệnh lệnh, mọi quy định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [26; tr.449] Trong hoạt động thực tiễn, Người đã trực tiếp tiến hành nhìn nhận đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ để lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động Nga hoàn thành cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin đã nhất trí về tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các lãnh đạo chủ chốt, trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và các đảng cộng sản Họ coi đây là lực lượng chủ chốt chuyển đổi "tư tưởng", "mệnh lệnh" và "quyết định" của Đảng thành hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin để phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của cán bộ, từ những cán bộ chủ chốt đến các cấp khác, thể hiện rõ qua các mối quan hệ cơ bản trong công tác lãnh đạo và tổ chức.
Lãnh đạo đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt phong trào cách mạng của quần chúng, làm gương cho mọi người và thực hiện phương châm "đảng viên đi trước, làng nước theo sau" Họ là cầu nối giữa Đảng và quần chúng, giúp giải thích chính sách của Đảng, Chính phủ để quần chúng hiểu và thực hiện Đồng thời, họ cũng báo cáo tình hình của quần chúng để Đảng và Chính phủ có thể điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Vị trí của cán bộ đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng nhân dân.
Là người phục vụ nhân dân, trách nhiệm của các vị lãnh đạo như Chủ tịch, Bộ trưởng hay Thứ trưởng là bảo vệ lợi ích và phát huy quyền làm chủ của nhân dân Như đã nhấn mạnh, họ thực sự là "đầy tớ cho nhân dân".
Dựa trên tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi công tác cán bộ là vấn đề then chốt trong lãnh đạo cách mạng Nhiều văn kiện quan trọng của Đảng đã nhấn mạnh vai trò của cán bộ, khẳng định rằng "phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt", trong đó công tác cán bộ là lĩnh vực quan trọng nhất Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của các luận điểm về vai trò của đội ngũ cán bộ.
Trong đội ngũ cán bộ công chức của Huyện, những cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý giữ vai trò quan trọng, bao gồm người đứng đầu và cấp phó của các ngành, địa phương, và đơn vị trong hệ thống chính trị Họ có trách nhiệm lớn trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như quê hương Vai trò của họ thể hiện rõ nét qua nhiều khía cạnh quan trọng.
Đội ngũ cán bộ thuộc Ban Thường vụ Huyện ủy đóng vai trò then chốt trong việc nghiên cứu và triển khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước Họ chịu trách nhiệm xây dựng các nghị quyết, quyết định và chương trình hành động cụ thể phù hợp với từng địa phương, đảm bảo các chính sách vĩ mô được thực hiện hiệu quả Sự sáng tạo và linh hoạt trong việc áp dụng các chủ trương này vào thực tiễn là yếu tố quyết định giúp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và thực hiện các chính sách, góp phần vào sự phát triển của địa phương.
Lãnh đạo huyện đóng vai trò trung tâm trong việc định hướng và điều phối các hoạt động của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện cùng các cơ quan, ban ngành và đoàn thể Qua quá trình chỉ đạo thực tiễn, họ tích lũy kinh nghiệm và bài học quý giá, từ đó góp phần hoàn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Vai trò của cán bộ được hình thành từ mối liên hệ chặt chẽ với đường lối và chính sách, đồng thời phản ánh vị trí của họ trong hệ thống chính trị.
Đội ngũ cán bộ thuộc Ban Thường vụ Huyện ủy Huyện có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh Họ là những người lãnh đạo các cơ quan, tổ chức tại cấp huyện và xã, đảm nhận trách nhiệm tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của cán bộ, đảng viên và nhân dân Đồng thời, họ chỉ đạo củng cố và kiện toàn hệ thống tổ chức, xây dựng đội ngũ đảng viên, đoàn viên, hội viên, cũng như tuyển chọn, đào tạo và sắp xếp cán bộ Mục tiêu là không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và duy trì sự đoàn kết trong Đảng, công chức và nhân dân Để đạt hiệu quả cao, đội ngũ này cần có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, cùng với trình độ và năng lực đồng đều Nếu cán bộ thoái hoá về phẩm chất và không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, sẽ dẫn đến quyết định thiếu hiệu lực, gây mất đoàn kết và ảnh hưởng tiêu cực đến tổ chức Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ cán bộ cần phải là tấm gương trong học tập và công tác, góp phần tập hợp nguồn lực và phát huy sức mạnh tập thể để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Huyện.
Đội ngũ cán bộ do Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ đảng viên và người dân Họ cần phát huy dân chủ trong Đảng, khuyến khích tinh thần làm chủ của nhân dân, đồng thời tích cực tham gia vào các phong trào hoạt động nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý không chỉ là nguồn bổ sung cho các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể Tỉnh mà còn là những người đã trải qua quá trình rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm từ các phong trào cách mạng địa phương Hầu hết các cán bộ này đều trẻ, có triển vọng và đủ khả năng đảm nhận các chức vụ cao hơn Họ giữ các vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị ở Huyện và cấp xã, thường kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác trong công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể, do đó ảnh hưởng lớn đến đội ngũ cán bộ của Huyện.
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP QUẢN LÝ
Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
2.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
Huyện Tháp Mười có diện tích tự nhiên 528 km², chiếm gần 17% tổng diện tích tỉnh Theo thống kê năm 2015, dân số huyện đạt 136.800 người, chủ yếu là dân tộc Kinh (trên 99%), bên cạnh đó là một số ít người dân tộc Hoa và Khơme Mật độ dân số trung bình là 259 người/km², tuy nhiên, sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các khu vực trong huyện Huyện Tháp Mười nằm giáp ranh với huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long.
Huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp giáp huyện Tân Thạnh tỉnh Long An ở phía Đông, huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp ở phía Tây và Tây-Nam, và huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang ở phía Nam và Đông-Nam Địa bàn huyện dài khoảng 45 km từ Thạnh Lợi đến Thanh Mỹ và rộng khoảng 26 km từ Mỹ Quí đến Đốc Binh Kiều Từ thị trấn Mỹ An, khoảng cách đến Cao Lãnh là 30 km, đến An Cư là 31 km, đến thị trấn Cai Lậy là 40 km, và đến Thành phố Hồ Chí Minh là 140 km Địa hình Đồng Tháp Mười giống như lồng chảo, với độ cao khoảng 3 đến 5 mét ở phía Bắc và Tây, trong khi trung tâm có độ cao từ 0,5 đến 0,7 mét Vùng đất Tháp Mười tương đối bằng phẳng, nhưng cao hơn ở phía Nam và Tây Trước đây, khu vực này ít sông rạch, chỉ có một số lung sình và gò, trong đó nổi bật là gò Tháp Mười, nơi có giá trị lịch sử và văn hóa, được công nhận là Di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào năm 2013.
Theo tiến sĩ Trần Kim Thạch và bản đồ đất đầu tiên của Đồng Tháp Mười (Trương Đình Phú - 1968), huyện Tháp Mười có ba loại đất chính: đất bồi phù sa sông, đất phèn nặng (không có phù sa) và đất phèn nhẹ (có phủ bồi tích) Theo quy hoạch tổng thể năm 1985, diện tích đất phèn nhiều trên 30.000 ha chủ yếu tập trung ở các xã Thạnh Lợi, Trường Xuân, Mỹ Hoà, một phần thuộc xã Tân Kiều và Thanh Mỹ Ngoài ra, diện tích đất phèn ít khoảng 11.900 ha, phân bố tại các xã Mỹ Quý và Mỹ Đông.
Mỹ An, Đốc Binh Kiều, Thanh Mỹ và Láng Biển là những khu vực có đất phù sa với tổng diện tích lên đến 3.300 ha Diện tích này chủ yếu tập trung hai bên bờ của các kênh Nguyễn Văn Tiếp A, Nguyễn Văn Tiếp B và kênh Tư Mới.
Huyện Tháp Mười, nằm trong khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long, có khí hậu đặc trưng với nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 26,9°C và độ ẩm không khí trung bình là 82% Khu vực này nhận được khoảng 2.733 giờ nắng mỗi năm và lượng mưa hàng năm đạt 1.410 milimét Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11, trong khi nước từ thượng nguồn sông Mê-kông thường tràn về từ tháng 7 đến tháng 11, với mực nước ngập trung bình khoảng 4,20m so với mực nước biển, tạo ra tình trạng ngập lụt sâu từ 1 đến nhiều mét trên đồng.
Trong mùa khô, mặc dù đồng ruộng ở Tháp Mười nước cạn, nhưng dưới các kênh rạch vẫn còn nguồn nước Ngoài nước bề mặt, khu vực này còn có nguồn nước ngầm chất lượng tốt, được phát hiện ở thị trấn Mỹ An với độ sâu 250m.
Trước năm 1975, giao thông của huyện chủ yếu dựa vào đường thủy, với xuồng và ghe có khả năng tiếp cận hầu hết các hộ dân qua hệ thống kinh đào phát triển Hệ thống giao thông đường thủy kết nối Tháp Mười với các thị xã Sa Đéc, Cao Lãnh, cùng các huyện Cao Lãnh, Thanh Bình, Tam Nông, Tân Hồng, Hồng Ngự, và mở rộng đến các tỉnh Tiền Giang, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như Campuchia Các trục giao thông chính bao gồm kinh Nguyễn Văn Tiếp A, Nguyễn Văn Tiếp B, kinh Đường Thét, kinh Cái Bèo, kinh số 1, kinh An Long, kinh An Phong – Mỹ Hoà, kinh Phước Xuyên, kinh Dương Văn Dương, và kinh Tư Mới.
Huyện Tháp Mười, trước năm 1975, thuộc quận Mỹ An của Tỉnh Kiến Phong, được thành lập vào ngày 22 tháng 10 năm 1956 Huyện này bao gồm 65 xã và 25 ấp, trong đó có 3 xã thuộc quận Cao Lãnh: xã Mỹ Quý (ấp 4), Mỹ Hoà (ấp 2) và Thạnh Lợi.
6) và 3 xã thuộc quận Cái Bè gồm: Tân Mỹ, sau sửa lại là Thanh Mỹ (ấp 2), Mỹ Đa, ta gọi là xã Đốc Binh Kiều (ấp 3), Mỹ An (8 ấp) [17; tr.9].
Vào tháng 12 năm 1975, theo quyết định của Bộ Chính trị, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Long Châu Tiền được giải thể để thành lập tỉnh Đồng Tháp Các đơn vị hành chính cấp huyện và xã cũng được điều chỉnh, trong đó huyện Mỹ An, Kiến Văn, Cao Lãnh và thị xã Cao Lãnh được hợp nhất thành huyện Cao Lãnh Để đáp ứng yêu cầu phát triển, ngày 05 tháng 01 năm 1981, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 04-CP, tách một phần huyện Cao Lãnh để thành lập huyện Tháp Mười, ban đầu gồm 8 xã Các xã Láng Biển, Phú Điền, thị trấn Mỹ An và Tân Kiều được thành lập sau này Vào ngày 23 tháng 9 năm 1997, Chính phủ quyết định điều chỉnh ranh giới giữa tỉnh Đồng Tháp và Long An, với việc tỉnh Long An giao lại phần đất và dân cư dọc bờ Tây kinh Phước Xuyên cho tỉnh Đồng Tháp.
Vào năm 1997, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã đề nghị cắt một phần đất từ các xã Tân Công Sính, Phú Cường, Trường Xuân và phần đất mới dọc bờ tây kinh Phước Xuyên để thành lập xã Hoà Bình thuộc huyện Tam Nông và xã Thạnh Lợi thuộc huyện Tháp Mười, theo Nghị định số 100-CP ngày 23/9/1997 Đến năm 2005, huyện Tháp Mười đã có 13 xã và thị trấn, bao gồm Mỹ Quý, Mỹ Đông, Mỹ Hoà, Mỹ An, Hưng Thạnh, Trường Xuân, Thanh Mỹ, Đốc Binh Kiều, Láng Biển, Phú Điền, Tân Kiều, Thạnh Lợi và thị trấn Mỹ An.
Huyện Tháp Mười, nằm ở phía đông tỉnh Đồng Tháp, có vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Khu vực này đã trở thành căn cứ kháng chiến của nhân dân từ giữa thế kỷ XIX, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) và chống đế quốc Mỹ (1954-).
Cuối thế kỷ 18, huyện Tháp Mười còn hoang vu, thuộc tổng Kiến Đăng của Đạo Trường Đồn Đầu thế kỷ XIX, thời Gia Long, vùng đất này thuộc tổng Kiến Phong, trấn Định Tường Từ năm 1832, khu vực này đã bắt đầu có sự phát triển đáng kể.
Vào năm 1900, vùng Tháp Mười thuộc huyện Kiến Phong tỉnh Định Tường được hình thành trong bối cảnh thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 21 tỉnh Khu vực phía Nam của Tháp Mười thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, trong khi phần phía Bắc thuộc quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc Các thôn ấp ở vùng Tháp Mười chủ yếu được thành lập sau năm này, phản ánh sự thay đổi trong cấu trúc hành chính và phát triển của vùng đất.
Vào năm 1930, nhiều kinh rạch đã được đào và cư dân bắt đầu sinh sống, phát triển kinh tế Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chính quyền cách mạng đã thành lập 2 xã Mỹ Quí và Tháp Mười (sau đổi thành xã Trường Xuân) từ các ấp thuộc thôn Mỹ Thọ, Nhị Mỹ quận Cao Lãnh Tỉnh Mỹ Tho cũng thành lập 3 xã là Mỹ An, Đốc Binh Kiều, Tân Mỹ Năm 1956, dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, quận Mỹ An được thành lập, bao gồm 2 vùng trên và thuộc tỉnh Kiến Phong (Tân Mỹ sau đổi thành Thạnh Mỹ rồi Thanh Mỹ) Sau khi miền Nam được giải phóng và nước ta thống nhất, vào tháng 12 năm 1975, tỉnh Đồng Tháp được thành lập và huyện Mỹ An đã nhập vào Cao Lãnh Đến năm 1981, vùng huyện Mỹ An cũ được tách ra để lập huyện Tháp Mười.
Bảng 2.1 Đơn vị hành chính huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
TT Đơn vị hành chính
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Tháp Mười tháng 6 năm 2015
2.1.2 Tình hình kinh tế - văn hoá xã hội huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
Thực trạng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý
2.2.1 Về cơ cấu đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ huyện Tháp Mười quản lý hiện nay đã lớn hơn nhiều so với 32 năm trước đây Cơ cấu cũng ngày càng đồng bộ hơn, gồm nhiều thế hệ, được phân bố hợp lý trong các cơ quan, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp Huyện và cấp xã, thị trấn, một số công tác ở doanh nghiệp, thể hiện sự lãnh đạo toàn diện trên các lĩnh vực của BanThường vụ Huyện uỷ Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ cũng được quan tâm hơn.
Bảng 2.2 Cơ cấu đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý , năm 2015
TT Đơn vị, cơ quan Số lượng Nam Nữ
1 Các ban đảng, đoàn thể Huyện 33 27 6
2 Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện 42 34 8
Phó Bí thư Thường trực 13 13
4 Bí thư, Phó bí thư các chi đảng bộ trực thuộc Huyện ủy 37 21 16
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Tháp Mười tháng 5/2015
Cơ cấu đội ngũ cán bộ của Ban Thường vụ Huyện ủy Tháp Mười hiện đang gặp bất hợp lý, với tỷ lệ cán bộ nữ chỉ đạt 20,31% và số cán bộ trên 50 tuổi ngày càng tăng Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ trẻ dưới 40 tuổi chỉ chiếm 19,27%, điều này ảnh hưởng lớn đến công tác quy hoạch cán bộ trong tương lai Để đảm bảo nguồn nhân lực cho các nhiệm kỳ tiếp theo, cần chủ động tạo nguồn quy hoạch cán bộ nhằm tránh tình trạng thiếu hụt cán bộ thay thế.
Tuổi đời bình quân hiện nay là 48, giảm 2,3 tuổi so với năm 1981 Cụ thể, nhóm tuổi từ 30-40 có 37 đồng chí, chiếm 19,27%, tăng so với năm 1981 Nhóm tuổi từ 41-45 có 64 đồng chí, chiếm 33,33%, cũng tăng so với năm 1981 Trong khi đó, nhóm tuổi từ 46-50 có 80 đồng chí, chiếm 41,67%, giảm so với năm 1981 Nhóm tuổi từ 51-55 có 08 đồng chí, chiếm 4,2%, tăng so với năm 1981, và nhóm tuổi trên 55 có 03 đồng chí, chiếm 1,6%, cũng tăng so với năm 1981.
Bảng 2.3 Tuổi đời cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý, tháng 5/2015 Đơn vị, cơ quan Từ
Các ban Đảng, đoàn thể huyện 08 21 15 05 02
Các cơ quan chuyên môn thuộc
Bí thư, PBT chi đảng bộ ngành huyện 04 17 32 00 00
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Tháp Mười tháng 5/2015
2.2.2 Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Tỷ lệ cán bộ có trình độ thạc sỹ, đại học và cao đẳng ngày càng gia tăng, trong khi tỷ lệ cán bộ có trình độ trung cấp và sơ cấp giảm Hầu hết cán bộ đã tham gia các lớp bồi dưỡng về công tác xây dựng đảng, quản lý nhà nước, kinh tế và quốc phòng - an ninh Nhiều người đã nỗ lực học tập để đạt chứng chỉ ngoại ngữ và tin học, cho thấy sự quan tâm của Ban Thường vụ Huyện uỷ Tháp Mười trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ Sự nỗ lực và học hỏi của cán bộ không chỉ nâng cao trình độ mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quy hoạch cán bộ, góp phần vào những thành tựu của Tháp Mười trong thời gian qua.
Trình độ văn hóa và chuyên môn của cán bộ thuộc diện quản lý của Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, được thể hiện qua bảng 2.4, cho thấy sự quan tâm đến việc nâng cao năng lực và chất lượng nguồn nhân lực trong các đơn vị, cơ quan thuộc địa phương.
Trình độ qua đào tạo Trung cấp ĐH Th
1 Các ban Đảng, đoàn thể huyện 22 0 22 0 0
2 Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện 62 0 57 4 1
4 Bí thư, PBT chi đảng bộ ngành huyện 69 0 69 0 0
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Tháp Mười tháng 5/2015
Trình độ học vấn và kiến thức quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ thuộc Ban Thường vụ Huyện ủy Tháp Mười hiện nay đã được cải thiện đáng kể so với 35 năm trước, với đa số có trình độ đại học trở lên, bao gồm một tiến sĩ Tuy nhiên, số cán bộ được đào tạo chính quy dài hạn còn hạn chế, đặc biệt là thạc sĩ, và có sự mất cân đối trong các ngành nghề đào tạo, dẫn đến nhiều cán bộ phải đảm nhiệm nhiệm vụ không phù hợp với chuyên môn Năng lực thực tế của một số cán bộ chưa tương xứng với bằng cấp, việc cập nhật kiến thức mới chưa thường xuyên, và kiến thức về lãnh đạo, quản lý trong nền kinh tế thị trường cũng còn yếu Hơn nữa, hiểu biết về hội nhập kinh tế quốc tế và ngoại ngữ của nhiều cán bộ còn hạn chế, cùng với việc thiếu kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực phụ trách và ít quan tâm đến nghiên cứu lý luận, đã ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và quản lý, đặc biệt trong quản lý kinh tế vĩ mô Sự nhạy bén với tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương cũng còn yếu, cùng với khả năng khai thác và ứng dụng thông tin, khoa học kỹ thuật vào công việc còn nhiều hạn chế.
2.2.3 Về trình độ lý luận chính trị
Học tập là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt Họ cần có kế hoạch học tập thường xuyên để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn và năng lực thực tiễn Việc nâng cao trình độ lý luận chính trị gắn liền với tiêu chuẩn hóa cán bộ, đảng viên trong mọi lĩnh vực xã hội Kết quả học tập lý luận chính trị là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, sử dụng cán bộ và xem xét tư cách đảng viên, đảm bảo tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh Nhận thức được tầm quan trọng này, Ban Thường vụ Huyện ủy Huyện Tháp Mười đã phối hợp với ngành cấp trên để đào tạo đội ngũ cán bộ, dẫn đến tỷ lệ cán bộ có trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao cấp ngày càng tăng, trong khi trình độ trung cấp giảm dần và không còn cán bộ sơ cấp.
Bảng 2.5 Trình độ LLCT của cán bộ thuộc diện Ban Thường vụHuyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý Đơn vị, cơ quan
Trình độ qua đào tạo Ghi chú
1 Các ban Đảng, đoàn thể huyện 7 45 5 00
2 Các cơ quan chuyên môn thuộc
4 Bí thư, PBT chi đảng bộ ngành huyện 5 62 2 00
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Tháp Mười tháng 5/2015
Trình độ Cử nhân lý luận chính trị 22 đồng chí, Cao cấp lý luận chính trị:
150 đồng chí, tăng so với năm 1981 Trung cấp: 20 đồng chí, giảm so với năm
1981 Trình độ về Sơ cấp lý luận chính trị không có đồng chí nào chưa được đào tạo, trong khi đó năm 1981 vẫn còn 85%.
2.2.4 Về phẩm chất, năng lực và tư duy lãnh đạo
Các đồng chí đều có lập trường và bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu con đường XHCN, trung thành với lý tưởng cộng sản và tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới Đại đa số cán bộ giữ gìn phẩm chất đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh, gần gũi với nhân dân, là tấm gương về đạo đức được mọi người tin yêu Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ có biểu hiện hoang mang trước tình hình phức tạp trong và ngoài nước, lo lắng về tiêu cực và tham nhũng, chưa kiên quyết đấu tranh chống lại những hành động sai trái Một số đồng chí tự mãn với những gì đã có, không tích cực học tập, dẫn đến tụt hậu về nhận thức và hạn chế dân chủ nội bộ, gây mất đoàn kết trong tập thể lãnh đạo.
Một số đồng chí thể hiện tư tưởng cục bộ địa phương và gia trưởng, thiếu chủ động sáng tạo trong công việc Họ có xu hướng trông chờ vào cấp trên, ngại khó khăn và muốn ổn định công tác, không muốn chuyển đi xa nhà Ngoài ra, một số người không muốn chuyển từ lĩnh vực quản lý nhà nước sang công tác Đảng, đoàn thể hoặc ngán ngại việc đi cơ sở.
Một số đồng chí chưa chú trọng thực hiện tốt nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và quy chế dân chủ, dẫn đến thái độ tự phê bình và phê bình chưa cao Họ chưa quyết tâm đấu tranh chống lại tiêu cực trong hàng ngũ, và bản thân cũng như gia đình chưa gương mẫu chấp hành pháp luật Đáng chú ý, một số ít đồng chí lợi dụng sơ hở trong quản lý để vụ lợi cá nhân, tham nhũng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân Một số cán bộ thể hiện sự thờ ơ với tiêu cực, vô cảm trước những vấn đề người dân bức xúc, và vì lợi ích cá nhân mà buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm Ngoài ra, một số đồng chí còn thiếu tu dưỡng về đạo đức, sống buông thả, xa hoa và lãng phí.
Sự không gương mẫu và thiếu trong sạch của một số cán bộ có quyền lực đã làm dấy lên nghi ngờ và mất lòng tin trong quần chúng đối với đội ngũ cán bộ cũng như một số chính sách của Đảng, Nhà nước Điều này có thể dẫn đến bất bình và bất mãn trong xã hội, tạo ra kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng nhằm tuyên truyền, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng và xuyên tạc bản chất của chế độ XHCN, gây ra dư luận xấu trong nhân dân.
- Về năng lực lãnh đạo, hoạt động thực tiễn: đội ngũ cán bộ thuộc diện
Ban Thường vụ Huyện ủy Huyện Tháp Mười gồm những người có kinh nghiệm phong phú trong lãnh đạo và quản lý, đã từng tham gia chiến đấu và hoạt động quần chúng Họ thường giữ các chức vụ như trưởng, phó phòng, Bí thư, Chủ tịch xã hoặc thị trấn, và nhiều người đã làm cán bộ lãnh đạo qua nhiều vị trí khác nhau, thường kiêm nhiệm nhiều chức vụ cùng lúc Nhờ đó, đội ngũ cán bộ này không ngừng nâng cao kiến thức và kỹ năng tổ chức lãnh đạo, đặc biệt trong việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, vận động quần chúng, và quản lý bộ máy cũng như công tác cán bộ và chính trị tư tưởng.
Thực trạng công tác nâng cao chất lượng cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý
2.3.1 Những kết quả và tồn tại hạn chế trong việc nâng cao chất lượng cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý
2.3.1.1 Về nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị.
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi Nghị quyết TW 3 (khóa VIII) được ban hành, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ đã nhận được sự quan tâm lớn từ Huyện ủy, UBND huyện và các cơ quan, đơn vị Nhờ nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ đối với việc học tập, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức của huyện đã có sự cải thiện rõ rệt so với thời điểm tách huyện Mục tiêu của công tác này là trang bị kịp thời kiến thức, kỹ năng và phương pháp thực hiện nhiệm vụ, từ đó xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chuyên nghiệp, có đủ năng lực lãnh đạo và phát triển kinh tế - xã hội của huyện lên tầm cao mới.
Ban Thường vụ Huyện ủy nhấn mạnh rằng công tác đào tạo và bồi dưỡng cần dựa trên vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của địa phương Cơ quan quản lý và đơn vị sử dụng cán bộ, công chức cần được đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động đào tạo Cần kết hợp cơ chế phân cấp và cạnh tranh trong tổ chức đào tạo, đồng thời đề cao vai trò tự học và quyền lựa chọn chương trình bồi dưỡng của công chức theo vị trí việc làm Cuối cùng, việc tổ chức đào tạo phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và hiệu quả.
Sau khi các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng và
Bộ Chính trị đã chỉ đạo Tỉnh ủy và Huyện ủy Tháp Mười tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt, nhằm triển khai nghiên cứu và học tập các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Hội nghị đã được thực hiện nghiêm túc với sự tham gia của các đồng chí Huyện ủy viên, bí thư các chi đảng bộ, và thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể Sau đó, các cơ quan, ban, ngành và đảng ủy trực thuộc Huyện ủy đã tổ chức học tập và quán triệt các nghị quyết, chỉ thị từ Trung ương và tỉnh, đồng thời chỉ đạo toàn thể cán bộ, đảng viên tham gia học tập tinh thần nghị quyết.
Việc tổ chức nghiên cứu và quán triệt các nghị quyết của Trung Ương tại các ngành trong Huyện đã được thực hiện nghiêm túc, với tỷ lệ đảng viên tham gia từ 83% đến 95% Ban Thường vụ Huyện uỷ đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Qua quá trình này, hầu hết cán bộ, đảng viên đều nhận thức sâu sắc về vai trò của công tác tổ chức cán bộ trong xây dựng Đảng Mục tiêu quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ là để chủ động trong công tác nhân sự, tránh tình trạng bị động khi cần bổ nhiệm lãnh đạo Đảng viên trong Huyện đồng tình với đánh giá của Tỉnh uỷ về công tác cán bộ và xác định rõ trách nhiệm trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng, từ đó tạo sự đồng thuận trong nhân dân và góp phần đưa nghị quyết vào thực tiễn.
Ban Thường vụ Huyện ủy Tháp Mười đã chủ động thể chế hoá các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng và Bộ Chính trị thành các chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việc này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả tổ chức học tập và nghiên cứu mà còn đảm bảo quán triệt sâu sắc các nội dung nghị quyết của Trung Ương và Tỉnh ủy, như thể hiện trong Báo cáo số 207-BC/HU ngày 22 tháng.
7 năm 2010 về việc bổ sung quy hoạch; Kế hoạch số 05-KH/HU ngày 09 tháng
Trong 5 năm qua, kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã có những bước tiến quan trọng Đặc biệt, Quyết định số 2695-QĐ/HU ngày 20 tháng 12 năm 2010 đã ban hành quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Kế hoạch số 111-KH/HU cũng đã được triển khai nhằm đảm bảo công tác quy hoạch và phát triển cán bộ hiệu quả.
Ngày 05 tháng 12 năm 2011, kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức đến năm 2015 đã được ban hành Tiếp theo, Kế hoạch số 342-KH/HU ngày 23 tháng 3 năm 2012 đã được phê duyệt nhằm luân chuyển cán bộ đến năm 2020 Những kế hoạch này được thực hiện theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ
Từ khi bắt đầu thực hiện BCHTW khoá VIII, BTV Huyện uỷ Tháp Mười đã tích cực cụ thể hoá các nghị quyết, quyết định và quy định của Trung ương và Tỉnh uỷ về công tác cán bộ Đến nay, huyện đã ban hành hơn 27 văn bản nhằm lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, tất cả đều liên quan đến công tác cán bộ.
Ban Tổ chức Huyện uỷ Tháp Mười, với chức năng hỗ trợ Ban Thường vụ Huyện uỷ trong công tác cán bộ, đã chủ động xây dựng và ban hành nhiều văn bản quan trọng, bao gồm Hướng dẫn số 159-HD/BTC ngày 29 tháng 9 năm 2005 và Công văn số 158-CV/BTC ngày 26 tháng.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2009, nhiều công văn và thông báo quan trọng đã được ban hành, bao gồm Công văn số 33-CV/BTC (12/03/2006), Công văn số 75-CV/BTC (15/05/2007), và Thông báo số 22-TB/BTC (22/02/2008) Đặc biệt, Công văn số 63-CV/BTC (15/10/2009) và Hướng dẫn số 02-HD/BTC (20/07/2009) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các chính sách tài chính Ngoài ra, Báo cáo số 40-BC/BTC (23/05/2009) và Công văn số 199-CV/BTC (04/10/2009) đã cung cấp thông tin cần thiết cho các cơ quan liên quan Công văn số 225-CV/BTC (27/10/2006) và Báo cáo số 82 cũng là những tài liệu quan trọng trong thời kỳ này.
BC/BTC ngày 20 tháng 11 năm 2009; Báo cáo số 104-BC/BTC ngày 02 tháng
Vào năm 2010, một loạt văn bản quan trọng đã được ban hành, bao gồm Công văn số 289-CV/BTC và các báo cáo số 153-BC/BTC, 36-BC/BTC, 124-BC/BTC, nhằm cụ thể hóa các nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy và kế hoạch của Huyện Những văn bản này hướng dẫn chỉ đạo, đôn đốc và kiểm tra công tác cán bộ tại Huyện, đặc biệt là quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ thuộc diện quản lý của Ban Thường vụ Huyện ủy Các văn bản đã nêu rõ mục đích, yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ, phương châm, phương pháp và quy trình để tổ chức thực hiện hiệu quả công tác cán bộ tại các ngành và địa phương trong Huyện.
Dựa trên các nghị quyết và chỉ đạo từ Trung ương, Tỉnh và Huyện, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể Huyện cùng các đảng uỷ trực thuộc đã xây dựng các chương trình, kế hoạch và quy định cụ thể Những nội dung này nhằm tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Trung ương, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương trong từng giai đoạn.
Bảng 2.6 Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giai đoạn 2000-2015
TT Loại hình đào tạo
Học viện CT-HC khu vực II
Các cơ sở đào tạo khác
3 - TC đào tạo chỉ huy 41 62 21 62 trưởng QS và trưởng
II Chuyên môn nghiệp vụ
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Tháp Mười tháng 5/2015
Công tác đào tạo bồi dưỡng ở Huyện vẫn gặp một số hạn chế, bao gồm việc lập và thực hiện kế hoạch chưa hiệu quả tại một số đơn vị, tình trạng đào tạo không theo kế hoạch và học chạy theo bằng cấp vẫn tồn tại Chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo bồi dưỡng chưa cao, với nhiều cán bộ có trình độ và năng lực thực tế không tương xứng với bằng cấp được đào tạo Hơn nữa, cơ cấu ngành nghề trong đào tạo bồi dưỡng cũng chưa hợp lý.
Hệ thống chính sách đào tạo bồi dưỡng hiện còn chậm được cập nhật và thiếu hoàn thiện Việc quản lý và kiểm tra công tác đào tạo cán bộ còn lỏng lẻo, dẫn đến chất lượng giảng viên chưa đạt yêu cầu Mặc dù cơ sở vật chất và trang thiết bị tại các cơ sở đào tạo đã được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
Quan điểm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý
3.1.1 Tuân thủ quy trình của Trung ương, Tỉnh ủy và Huyện ủy về cán bộ và công tác cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thực tiễn
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung Ương (khóa VIII) nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ, coi đây là yếu tố then chốt trong công tác cán bộ Điều này nhằm đảm bảo rằng công tác cán bộ được thực hiện một cách có tổ chức, chủ động và có tầm nhìn dài hạn, đáp ứng hiệu quả cả các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ nhằm tạo sự chủ động và tầm nhìn chiến lược, khắc phục tình trạng thiếu hụt lãnh đạo, đảm bảo tính kế thừa và phát triển liên tục giữa các thế hệ cán bộ Nghị quyết cũng chỉ ra cần chuẩn bị nguồn nhân lực dồi dào, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ và đạo đức, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ đó giữ vững đoàn kết nội bộ và ổn định chính trị.
Quy hoạch đội ngũ cán bộ thuộc Ban Thường vụ Huyện ủy Tháp Mười hiện nay nhằm đảm bảo đủ nguồn nhân lực và sắp xếp hợp lý để xây dựng một đội ngũ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, cùng với năng lực công tác và trình độ chuyên môn cao Mục tiêu là tạo ra sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của tỉnh và các đơn vị, địa phương trong cả trước mắt và lâu dài.
Quy hoạch cán bộ đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và đào tạo những cán bộ trẻ có triển vọng, tạo ra môi trường bình đẳng cho tất cả cán bộ rèn luyện và phát triển Điều này không chỉ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn làm căn cứ cho việc đào tạo, đào tạo lại và luân chuyển cán bộ một cách hợp lý và hiệu quả.
Quy hoạch cán bộ nhằm phát huy năng lực và sử dụng đúng người theo khả năng, sở trường của từng cá nhân ở các vị trí lãnh đạo Trong thực tế, không ai có thể giỏi mọi lĩnh vực, mỗi cán bộ đều có thế mạnh và nhược điểm riêng Đại hội đảng bộ huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp khóa IX, nhiệm kỳ
Từ năm 2015 đến 2020, 100% cán bộ đương chức và dự nguồn các chức danh do Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý phải có trình độ chuyên môn đại học và lý luận chính trị cao cấp trở lên Ngoài ra, họ cần có chứng chỉ B trở lên về ngoại ngữ, sử dụng thành thạo máy vi tính trong công việc chuyên môn, và đã qua bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước hoặc quản lý kinh tế, cũng như kiến thức nghiệp vụ chuyên ngành Đối với các chức danh lãnh đạo quản lý, mỗi chức danh phải đảm bảo có tối thiểu 2-3 cán bộ dự nguồn, và mỗi cán bộ dự nguồn có khả năng quy hoạch đảm nhiệm cho 2-3 chức danh khác nhau.
Ban chấp hành Đảng bộ Huyện và Ban chấp hành Đảng bộ xã, thị trấn nhiệm kỳ 2015-2020 và những năm tiếp theo sẽ tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị Mục tiêu là phát huy tài năng trí tuệ của cán bộ, đồng thời chủ động tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo và bố trí luân chuyển cán bộ trẻ, nữ đáp ứng tiêu chuẩn và điều kiện Điều này không chỉ phục vụ yêu cầu nhiệm vụ trước mắt mà còn chuẩn bị nguồn cán bộ kế thừa cho các nhiệm kỳ tiếp theo, với việc đánh giá đúng thực chất cán bộ để có sự bố trí hợp lý.
Đến năm 2020, 75% cán bộ công chức cấp huyện đã được quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo và quản lý cấp phòng đạt tiêu chuẩn Tại cấp xã và thị trấn, 95% cấp ủy viên có trình độ trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính; 100% cán bộ chủ chốt như Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đều có trình độ chuyên môn Đại học và trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính Ngoài ra, 90% cán bộ chuyên trách và công chức cũng đạt chuẩn theo quy định.
Cán bộ trẻ cấp huyện 25%; cấp xã 30%
Cán bộ nữ cấp huyện 18%; cấp xã 20%”
Để thực hiện trẻ hóa đội ngũ, yêu cầu về độ tuổi trung bình phải thấp hơn khóa trước Cụ thể, ở cấp huyện, đa số cấp ủy viên nằm trong độ tuổi từ 35 đến 45, với một số cấp ủy viên dưới 35 và trên 45 tuổi Tại cấp xã, thị trấn, đa số cấp ủy viên có độ tuổi từ 30 đến 40, cùng với một số cấp ủy viên dưới 30 và trên 45 tuổi.
Cơ cấu cấp uỷ mới cần đảm bảo rằng ít nhất 1/3 tổng số uỷ viên Ban chấp hành là những người tham gia lần đầu Đồng thời, cần phấn đấu tăng tỷ lệ cấp uỷ viên là cán bộ chủ chốt tại cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Để đảm bảo chất lượng cán bộ trong công tác quy hoạch, số lượng cán bộ dự nguồn cần đạt khoảng gấp đôi số lượng cấp ủy viên đương nhiệm Trong bối cảnh nhiệm vụ cách mạng mới, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở huyện là rất quan trọng Giai đoạn từ nay đến năm 2015 và những năm tiếp theo, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cần quán triệt đầy đủ các quan điểm và nguyên tắc của Đảng, hướng tới chất lượng, hiệu quả và đồng bộ Cần kế thừa những thành quả đã đạt được, đồng thời khắc phục triệt để những tồn tại trong công tác quy hoạch trước đây, để quy hoạch cán bộ trở thành một quy trình chặt chẽ, thống nhất và hiệu quả.
3.1.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phải gắn liền với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII và Chỉ thị 05 học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng Từ khi thực hiện đường lối đổi mới,Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng,chỉnh đốn Đảng Trên cơ sở đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới;vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt
Ban Thường vụ Huyện uỷ đã thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng cách đổi mới nội dung và phương thức giáo dục chính trị tư tưởng Huyện uỷ chú trọng công tác nắm bắt và định hướng dư luận xã hội, đồng thời thực hiện nghiêm túc chủ trương bí thư cấp uỷ đối thoại trực tiếp với nhân dân để lắng nghe ý kiến đóng góp, từ đó có biện pháp lãnh đạo tháo gỡ khó khăn trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Huyện uỷ.
Lãnh đạo các cấp uỷ và tổ chức đảng cần quán triệt cho cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm các quy định về những điều đảng viên không được làm, kết hợp với công tác tự phê bình và phê bình trong việc đánh giá hàng năm Ban Thường vụ Huyện uỷ phải thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thông qua Quy trình giám sát theo chuyên đề đối với các chi, đảng bộ trực thuộc và đảng viên do Ban Thường vụ quản lý Đồng thời, các Ủy viên Ban Thường vụ cần thường xuyên nhắc nhở và đôn đốc các cơ quan tham mưu tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để phòng ngừa và ngăn chặn tư tưởng lệch lạc, vi phạm trong tổ chức đảng và đảng viên.
Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lương đội ngũ cán bộ thuộc diện
3.2.1 Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị về tầm quan trọng của chất lương đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp quản lý
Nâng cao chất lương cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ diện Ban
Quản lý của Thường vụ Huyện uỷ là một vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều cấp và ngành khác nhau Công việc này đòi hỏi sự thực hiện đồng bộ và kết hợp chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ, kéo dài trong một thời gian dài Để đạt được hiệu quả cao, cần phát huy vai trò và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị cũng như sự tham gia của quần chúng nhân dân.
Đảng ta, với vai trò là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và chuyên môn Việc thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ cốt lõi của Đảng Để đáp ứng yêu cầu này, huyện ủy huyện Tháp Mười cần thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Ban Thường vụ Huyện uỷ và các cấp uỷ, tổ chức đảng trong Huyện đã tích cực nghiên cứu và bám sát đường lối, chủ trương, nghị quyết của Trung Ương Đảng và Tỉnh uỷ qua từng thời kỳ Điều này giúp đề ra các nghị quyết, kế hoạch, quy chế, quy định và hướng dẫn cụ thể về công tác cán bộ, đồng thời xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ một cách hiệu quả.
Các cấp uỷ và tổ chức đảng đóng vai trò lãnh đạo quan trọng trong công tác cán bộ, thông qua việc thể hiện tinh thần tiên phong và gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên Đặc biệt, vai trò trách nhiệm của các đồng chí cấp uỷ viên, uỷ viên Ban Thường vụ và bí thư cấp uỷ ở các cấp là rất cần thiết để đảm bảo sự hiệu quả trong hoạt động của hệ thống chính trị.
Đảng phân công và phân cấp quản lý cán bộ từ cấp Huyện đến cơ sở, đồng thời tổ chức kiểm tra định kỳ để đánh giá và rút kinh nghiệm, coi đây là một phương thức lãnh đạo quan trọng trong công tác cán bộ Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy và các cấp uỷ cần kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực chiến đấu và chăm lo giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ Kỷ luật trong Đảng cần được đề cao, đồng thời phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ Các quyết định về chủ trương, chính sách và nhân sự phải được thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số, với hình thức biểu quyết kín Cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị, cải cách quy trình xây dựng nghị quyết và quy hoạch cán bộ, đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ của các đoàn thể.
Thứ hai, phải phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước,
MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong công tác cán bộ, cụ thể là:
Mọi chủ trương, chính sách và nghị quyết về công tác cán bộ của Đảng cần được các cơ quan Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong Huyện thể chế hoá và cụ thể hoá kịp thời, phù hợp với pháp luật và điều lệ của từng đoàn thể để đảm bảo hiệu quả thực thi HĐND, UBND và các cơ quan từ Huyện đến cơ sở phải quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng hoạt động và đẩy mạnh phong trào thi đua, đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ học tập và phát triển Các chủ thể này cũng cần quán triệt các quan điểm, phương châm của Đảng để xây dựng đội ngũ cán bộ hiệu quả Để phát huy vai trò trong công tác cán bộ, Ban Thường vụ huyện ủy huyện Tháp Mười cần có những chỉ đạo cụ thể trong thời gian tới.
HĐND Huyện và HĐND cấp xã cần đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động giám sát việc thực hiện nghị quyết đối với cán bộ công chức trong chính quyền Việc cải tiến công tác tiếp xúc cử tri nhằm nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và những vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống xã hội là rất quan trọng Điều này giúp giám sát và chất vấn các cán bộ liên quan đến những yêu cầu của cử tri Đồng thời, qua hoạt động này, HĐND cũng có thể phát hiện và giới thiệu những nhân tố mới, những gương người tốt việc tốt từ đội ngũ cán bộ, những người tận tâm với công việc vì lợi ích của nhân dân và sự phát triển của địa phương.
UBND Huyện và các xã, thị trấn cần tăng cường cải cách hành chính, tập trung vào việc cải cách thủ tục hành chính Cần chỉ đạo các cơ quan Nhà nước rà soát và xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị, khắc phục tình trạng chồng chéo và thiếu sót trong nhiệm vụ Đồng thời, cần kiện toàn bộ máy, tinh giản biên chế, và tích cực rà soát, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định và kế hoạch liên quan đến công tác cán bộ để phục vụ cho quy hoạch.
MTTQ và các tổ chức đoàn thể cần trở thành kênh thông tin chất lượng, hỗ trợ Ban Thường vụ Huyện ủy và cấp ủy cơ sở trong việc rà soát, đánh giá cán bộ, đảng viên Đồng thời, các tổ chức này cũng phải tích cực vận động quần chúng thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở, tham gia xây dựng đảng và chính quyền, cũng như thực hiện tốt chức năng giám sát cán bộ, đảng viên.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII đã khẳng định vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân trong công tác cán bộ Đảng ta nhấn mạnh rằng việc xây dựng đội ngũ cán bộ cần phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ, từ đó đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong công tác cán bộ.
Trong công tác cán bộ hiện nay, sự tham gia của quần chúng và các đoàn thể nhân dân là yếu tố quan trọng giúp phát hiện và tạo nguồn cán bộ Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi nhận nhiều lần kêu gọi người hiền tài, như huyền thoại Vua Hùng và sự kiện năm 1429 khi vua Lê Lợi cầu hiền Từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác Hồ cũng đã kêu gọi các làng xã giới thiệu người tài cho Chính phủ Hiện nay, chúng ta cần phát huy dân chủ và khuyến khích mọi người dân tham gia vào việc phát hiện và giới thiệu những người có đức, có tài vào quy hoạch cán bộ.
Để nâng cao hiệu quả công tác, cần tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thông qua việc khuyến khích tự học hỏi và nghiên cứu Cần có cơ chế chính sách để động viên và giám sát quá trình rèn luyện của cán bộ, đồng thời giao thêm nhiệm vụ để thử thách và đánh giá năng lực hoàn thành công việc Ngoài ra, cần chú trọng giáo dục lý tưởng cộng sản, đạo đức cách mạng, phong cách làm việc dân chủ và khoa học, cũng như phương pháp giải quyết tình huống trong quản lý cho cán bộ.
Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Tháp Mười cần tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết và chỉ thị về công tác cán bộ, đồng thời tập trung lãnh đạo để triển khai hiệu quả các nhóm giải pháp quan trọng.
Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, cần thực hiện kiểm điểm và tự phê bình một cách thẳng thắn, dân chủ và nghiêm túc Họ phải liên hệ với chức trách và nhiệm vụ được giao, đồng thời gắn liền với việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm.
KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi sự chú trọng đặc biệt đến công tác cán bộ của Đảng, vì đội ngũ cán bộ là yếu tố then chốt quyết định thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Các cấp ủy đảng cần có trách nhiệm trong việc đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ một cách hiệu quả, nhằm phát huy tối đa năng lực của họ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc Ban Thường vụ Huyện ủy là yếu tố then chốt trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của mỗi huyện và cả nước Việc nâng cao chất lượng cán bộ không chỉ tập trung vào trình độ chuyên môn và lý luận chính trị, mà còn bao gồm sự phát triển toàn diện về phẩm chất đạo đức, năng lực thực tiễn và tư duy Do đó, công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cần được thực hiện một cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu trước mắt và dài hạn.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý là yêu cầu thiết yếu trong công tác cán bộ của huyện Tháp Mười Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo các cấp ủy và tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc các quan điểm, nhiệm vụ công tác cán bộ, khắc phục tình trạng chuyên quyền và đảm bảo đánh giá cán bộ một cách công tâm, khách quan, chú trọng phẩm chất chính trị và năng lực trí tuệ Việc đánh giá cần dựa vào tập thể và quần chúng nhân dân, đồng thời xem xét trong bối cảnh cụ thể của từng cán bộ Để nâng cao hiệu quả quy hoạch đội ngũ cán bộ, cần có sự chuyển biến thực sự về nhận thức và sự hỗ trợ từ các cấp, ngành Các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ lãnh đạo vừa "hồng" vừa "chuyên", đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cán bộ theo chỉ đạo của Đảng, góp phần xây dựng Tháp Mười ngày càng phát triển, công bằng và văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tháp Mười, khóa VIII, IX (2010,
2015), Báo cáo chính trị trình Đại hội nhiệm kỳ 2005-2010; 2010 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015-2020.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tháp Mười khóa VIII đã thực hiện báo cáo sơ kết và đánh giá giữa nhiệm kỳ việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ huyện vào năm 2013 Báo cáo này đánh giá tình hình thực hiện nghị quyết và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho thời gian còn lại của nhiệm kỳ Qua báo cáo, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tháp Mười khóa VIII đã tổng kết những kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện nghị quyết.
[3] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp, khóa IX (2010), Báo cáo chính trị nhiệm kỳ 2005-2010 và phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015-2020.
[4] Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X (2011), Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
[5] Ban Chấp hành Trung ương, (1997), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết
Hội nghị lần thứ ba (khoá XIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận 57-KL/TW vào ngày 08 tháng 3 năm 2013, nhằm tiếp tục thúc đẩy công tác đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo và quản lý ở tất cả các cấp Kết luận này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực lý luận chính trị để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
[7] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.
[8] Bộ Chính trị, khóa IX (2002), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25 tháng 01 năm 2002 về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý.
Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW vào ngày 30 tháng 11 năm 2004, nhằm định hướng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nghị quyết này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển đội ngũ lãnh đạo có năng lực và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
[10] Bộ Chính trị, Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12 tháng 5 năm 1999 về chế độ học tập lý luận chính trị trong đảng.
[11] Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/2004/QĐ - BNV ngày 16 tháng
01 năm 2004 về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
[12] Hà Văn Bình (2014), Nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ
CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị.
[13] Chính phủ, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 về việc đào tạo, bồi dưỡng công chức.
[14] Chính phủ, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP vào ngày 22/10/2009, quy định về chức danh, số lượng, cũng như một số chế độ và chính sách dành cho cán bộ, công chức tại các xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
[16] Chính phủ, Nghị định số 169-HĐBT ngày 25 tháng 5 năm 1991 của
HĐBT về công chức nhà nước.
[17] Đảng bộ huyện Tháp Mười (2007), Lịch sử truyền thống cách mạng huyện Tháp Mười 1930 – 2000.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[20] Lê Duẩn (1973), Mấy vấn đề về cán bộ và tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, NXB Sự thật , Hà Nội.
[21] Nguyễn Việt Dũng (2015), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị.
[22] Huyện ủy Tháp Mười (2008), Quyết định số 2610-QĐ/HU ngày 06 tháng 11 năm 2008 ban hành Quyết định về phân cấp quản lý cán bộ.
[23] Huyện ủy Tháp Mười (2010), Kế hoạch số 111-KH/HU ngày 05 tháng 12 năm 2010 ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đến năm 2015.
Huyện ủy Tháp Mười đã ban hành Kế hoạch số 68-KH/HU vào ngày 14 tháng 01 năm 2013, nhằm thực hiện Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI Kế hoạch này tập trung vào việc đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, với mục tiêu thực hiện đến năm 2020 và các năm tiếp theo.
[25] V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[26] V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[27] V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[28] C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia,
[29] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[30] Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[31] Hồ Chí Minh (1947), tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
[32] Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 ngày
Phạm Xuân Trưởng (2015) trong luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị đã nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt tại các xã, phường ở thị xã Sầm Sơn trong bối cảnh hiện nay Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển địa phương.
Võ Xuân Trường (2016) trong luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị đã nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường tại thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức nhằm phục vụ tốt hơn cho cộng đồng và phát triển địa phương.
[35] Nguyễn Thị Thanh (2014), Giải pháp nâng cao năng lực CBCC cấp xã ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ Khoa học kinh tế