TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ sở nơi thực tập
Trại lợn Nguyễn Thị Ánh Tuyết, tọa lạc tại xóm Gò Già, xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, đã hoạt động từ năm 2016 dưới sự quản lý của Bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết Mọi hoạt động của trại được giám sát bởi cán bộ kỹ thuật từ Công ty cổ phần Greenfeed Việt Nam Thị xã Phúc Yên nổi bật với địa hình đa dạng và tổng diện tích lên tới 12.029,55 ha, được chia thành hai vùng chính.
Vùng đồi núi bán sơn địa gồm các xã: Ngọc Thanh, Cao Minh, Xuân Hòa, Đồng Xuân; diện tích 9700 ha.
Vùng đồng bằng bao gồm các phường Nam Viêm, Tiền Châu, Phúc Thắng, Hùng Vương, Trưng Trắc và Trưng Nhị, với tổng diện tích 2300 ha Khu vực này có hồ Đại Lải cùng nhiều đầm hồ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch Ngoài ra, đây cũng là nơi lý tưởng cho hoạt động chăn nuôi và giao thương giữa các vùng lân cận.
Phúc Yên, thị xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa Nơi đây có đặc điểm thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều vào mùa hè, trong khi mùa đông thường hanh khô và lạnh kéo dài.
Nhiệt độ bình quân hàng năm ở khu vực này đạt 23ºC, với mức cao nhất vào tháng 7 là 39ºC và thấp nhất vào tháng 1 là 12ºC Độ ẩm tương đối trung bình năm khá cao, đạt 83%.
10) và độ ẩm cực tiểu tuyệt đối là 16%.
Hướng gió chủ đạo trong mùa đông là Đông - Bắc, trong khi mùa hè là Đông - Nam Mỗi năm, khu vực này nhận trung bình 2.267,8 mm mưa, với chế độ mưa phân chia thành hai mùa rõ rệt Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, chiếm phần lớn tổng lượng mưa hàng năm.
Mùa mưa chiếm 70 - 80% tổng lượng mưa hàng năm, trong khi mùa khô chỉ đóng góp 20 - 30% Hệ thống sông, suối trong thị xã không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng hồ chứa, giúp chống lũ và phục vụ sản xuất nông nghiệp hiệu quả.
Xã Cao Minh có địa hình đa dạng với đồi núi và đồng bằng vùng trũng, thấp dần từ Bắc xuống Nam Đất tại đây chủ yếu gồm hai loại: đất phe-ra-lít và đất phù sa bồi đắp Đất phe-ra-lít phù hợp cho việc trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và cây lấy gỗ, trong khi đất phù sa lý tưởng cho việc trồng lúa từ 1 đến 3 vụ mỗi năm cùng với các loại rau xanh.
Đất đai tại khu vực này không chỉ có giá trị nông nghiệp và công nghiệp mà còn nổi bật với độ cứng cao, độ bền và khả năng chịu nén tốt, rất thích hợp cho việc xây dựng các nhà nhiều tầng trong các khu công nghiệp.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của trại
Trại Nguyễn Thị Ánh Tuyết hoạt động từ năm 2016 với cơ cấu tổ chức như sau:
2.1.3 Cơ sở vật chất hạ tầng của trại
Trại hoạt động từ năm 2016 nên cơ sở vật chất còn tương đối mới và đầy đủ.
2.1.3.1 Về thiết kế xây dựng.
Trại có diện tích khoảng 1000 m².
Trại được chia làm 02 khu chính là: Khu sản xuất và khu vực nhà ở, sinh hoạt cho công nhân viên.
Khu vực sản xuất được tổ chức theo thứ tự gồm khu chuồng bầu, khu chuồng đẻ và khu chuồng cách ly Tại đầu khu vực sản xuất, có một nhà kho dùng để dự trữ cám và thuốc Ở cuối khu vực, hệ thống Biogas được lắp đặt để xử lý phân và nước thải Xung quanh trại được xây tường bao bọc và trồng hàng keo để bảo vệ môi trường.
Hệ thống lưới điện kéo dài toàn bộ khu vực trại, có 01 máy phát điện được dùng khi bị mất điện.
Nước được cung cấp bởi hệ thống giếng khoan, nước được bơm trực tiếp lên bể sau đó được khử khuẩn bằng Cloramin B.
Có 01 chuồng và được chia làm 2 dãy với 105 ô chuồng Đầu dãy 1 là ô chuồng lợn đực, tiếp đến là khu vực để thử, ép và phối tinh lợn và nuôi nhốt lợn chửa kì I; dãy 2 nuôi nhốt lợn chửa kì II Đầu mỗi chuồng là hệ thống giàn mát, cuối chuồng có 3 quạt hút gió Toàn bộ sàn là bê tông, cao hơn so với nền chuồng để thuận tiện cho việc dọn vệ sinh, khử trùng Chuồng được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng và hệ thống vòi uống nước tự động Dọc 2 bên dãy chuồng có hệ thống ống dẫn nước thuận tiện cho việc dọn vệ sinh, rửa máng, xịt gầm.
Có 01 chuồng, bao gồm 2 dãy với 38 ô chuồng sàn, đầu chuồng có hệ thống dàn mát và 3 quạt ở cuối chuồng Sàn cho lợn mẹ là sàn bê tông, sàn cho lợn con là sàn nhựa, được thiết kế cao hơn so với nền chuồng.
Mỗi ô sàn được trang bị hệ thống vòi uống nước tự động dành cho lợn mẹ và lợn con, trong khi máng tập ăn cho lợn con được lắp đặt từ khi chúng được 5 ngày tuổi Hệ thống ống dẫn nước dọc hai bên hành lang giúp việc dọn vệ sinh, rửa máng và xịt gầm trở nên thuận tiện hơn.
Chuồng cách ly được thiết kế với hai ô lớn, trang bị hệ thống dàn mát ở đầu và hai quạt hút gió ở cuối chuồng, cùng với máng ăn và máng uống tự động Khu vực đi lại giữa các ô chuồng được đổ bê tông và có hố vôi sát trùng trước cửa ra vào Trước khi vào chuồng nuôi, mọi người phải thay quần áo, đeo khẩu trang, ủng chuyên dụng và đi qua hệ thống sát trùng để đảm bảo an toàn vệ sinh.
Khu nhà ở cho công nhân được thiết kế rộng rãi, đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày Nhà ăn và bếp nấu không chỉ rộng rãi mà còn sạch sẽ và đảm bảo vệ sinh Bên cạnh đó, khu vực xung quanh còn được trồng rau xanh và cây ăn quả, cùng với hệ thống thoát nước hiệu quả, tạo nên môi trường sống lý tưởng cho công nhân.
2.1.4 Thuận lợi và khó khăn của trại
Trại được xây dựng ở vị trí cách xa khu dân cư, đảm bảo an toàn sinh học và không làm ảnh hưởng đến người dân sống xung quanh.
Cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm trong công việc.
Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay.
Trại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng lớn do thời tiết nên khâu phòng trị bệnh gặp nhiều khó khăn.
Tình hình dịch bệnh hiện nay diễn biến rất phức tạp nên chi phí cho công tác phòng và trị bệnh cao.
Giá thức ăn chăn nuôi đang tăng cao, dẫn đến chi phí thức ăn cũng gia tăng Bên cạnh đó, đường đi lại trong các chuồng chật hẹp gây khó khăn cho công tác vệ sinh và dọn dẹp.
Tổng quan tài liệu
2.2.1 Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
2.2.1.1 Sự thành thục về tính và thể vóc.
Sự thành thục về tính.
Gia súc khi đạt đến một giai đoạn phát triển nhất định sẽ xuất hiện biểu hiện về tính dục, với con đực có khả năng sinh tinh trùng và con cái sản sinh tế bào trứng Theo nghiên cứu của Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2005), thành thục về tính dục được xác định khi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản Lúc này, các bộ phận sinh dục như buồng trứng, tử cung và âm đạo đã phát triển hoàn thiện, sẵn sàng cho hoạt động sinh sản Bên cạnh đó, sự phát triển bên trong cũng đi kèm với sự xuất hiện của các bộ phận sinh dục phụ bên ngoài, dẫn đến phản xạ về tính và hiện tượng động dục ở gia súc.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hà và cộng sự (2012), sự thành thục về tính dục không chỉ phụ thuộc vào sự điều hòa của thần kinh và thể dịch, mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh như giống loài, dinh dưỡng, khí hậu, mùa vụ và sự tương tác giữa con đực và con cái.
Sự thành thục về thể vóc:
Tuổi thành thục về thể vóc là giai đoạn khi lợn đạt sự phát triển hoàn chỉnh về ngoại hình và thể chất, thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính, được đánh dấu bằng lần động dục đầu tiên Trong giai đoạn này, nếu cho lợn mẹ giao phối quá sớm, mặc dù có thể thụ thai, nhưng cơ thể vẫn chưa đủ phát triển để đảm bảo sự phát triển tốt cho bào thai, dẫn đến chất lượng con non kém và nguy cơ khó đẻ do xương chậu còn hẹp Điều này sẽ ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái trong tương lai Do đó, khuyến cáo rằng lợn cái nội nên được phối giống khi đạt 7 - 8 tháng tuổi và khối lượng 40 - 50 kg, trong khi lợn ngoại cần đạt 8 - 9 tháng tuổi và khối lượng 100 - 120 kg mới nên cho phối.
Trần Thanh Vân và cộng sự (2017) cho biết rằng lợn nái khi đạt độ trưởng thành sẽ bắt đầu có dấu hiệu động dục Lần đầu tiên, biểu hiện động dục thường không rõ ràng, nhưng sau khoảng 15 - 16 ngày, lần động dục tiếp theo sẽ có dấu hiệu rõ ràng hơn và sau đó sẽ diễn ra theo chu kỳ đều đặn.
Các noãn bào trên buồng trứng phát triển và chín, dẫn đến hiện tượng rụng trứng khi noãn bào vỡ và trứng rụng Sự rụng trứng diễn ra theo chu kỳ, và chu kỳ này khác nhau ở các loài Ở giai đoạn đầu khi mới thành thục, chu kỳ chưa ổn định và cần từ 2 đến 3 chu kỳ tiếp theo để ổn định Đối với lợn nái, chu kỳ động dục dao động từ 18 đến 22 ngày, trung bình là 21 ngày, được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn nghỉ ngơi.
2.2.1.3 Quá trình mang thai và đẻ.
Sau khoảng 3 ngày lưu lại ống dẫn trứng để tự dưỡng, hợp tử di chuyển xuống tử cung để tìm vị trí thích hợp cho việc làm tổ và hình thành bào thai Trong thời gian mang thai, nội tiết tố progesterone tăng nhanh trong 10 ngày đầu, đạt đỉnh vào ngày thứ 20, sau đó giảm nhẹ trong 3 tuần đầu và duy trì ổn định để bảo vệ thai nhi và ức chế động dục Progesterone sẽ giảm đột ngột 1-2 ngày trước khi sinh Trong khi đó, estrogen giữ mức độ thấp trong suốt thời kỳ mang thai, nhưng bắt đầu tăng dần khoảng 2 tuần trước khi sinh và đạt mức cao nhất khi đẻ.
Trần Văn Phùng và cs (2004) [18] cho biết: thời gian có chửa của lợn nái bình quân là 114 ngày (113 - 117 ngày), chia làm 2 thời kỳ:
- Thời gian chửa kỳ 1: Được tính từ ngày phối giống cho đến ngày 84.
- Thời gian chửa kỳ 2: Là thời gian lợn chửa từ ngày thứ 85 đến ngày đẻ.
2.2.1.4 Sự tiết sữa của lợn nái.
Quá trình tiết sữa của lợn nái là một phản xạ do kích thích vào đầu vú, với yếu tố thần kinh đóng vai trò chủ đạo Khi lợn con thúc vào vú mẹ, các kích thích này được truyền lên vỏ não và vào vùng hypothalamus, kích thích tuyến yên sản sinh ra oxytocin vào máu, từ đó kích thích lợn nái tiết sữa Sản lượng sữa ở các tuyến vú khác nhau phụ thuộc vào tác động của oxytocin, trong đó các tuyến vú ở phần ngực thường tiết nhiều sữa hơn so với các tuyến ở phần sau.
2.2.2 Những hiểu biết về quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản 2.2.2.1 Công tác giống.
Trại Nguyễn Thị Ánh Tuyết chuyên cung cấp con giống chất lượng cao, tập trung vào việc sản xuất giống có năng suất tối ưu Chúng tôi sử dụng dòng mẹ Landrace và Yorkshire kết hợp với dòng bố Duroc để tạo ra con thương phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường hiện nay.
2.2.2.2.Thức ăn được sử dụng cho lợn tại trại.
Tại trại, đàn lợn được cho ăn thức ăn viên hỗn hợp hoàn chỉnh, được sản xuất bởi công ty cổ phần Greenfeed Việt Nam, phù hợp với từng giai đoạn tuổi và loại lợn Khẩu phần ăn cụ thể của đàn lợn được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 2.1 Khẩu phần ăn của đàn lợn tại trại
Loại lợn Giai đoạn Khẩu phần (kg/ngày)
Lợn nái nuôi con Ngày thứ 5 sau đẻ 5,0
Ngày thứ 6 sau đẻ - 20 ngày 2,0 + (số con x 0,4) Trước cai sữa 2 ngày 4,0
Ngày cai sữa Không cho ăn
Lợn con theo mẹ Từ tập ăn - cai sữa Cho ăn tự do
Các loại thức ăn được sử dụng cho lợn tại trại bao gồm:
- Thức ăn mã số 9014/GF14 là thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn từ tập ăn - 8 kg.
- Thức ăn mã số GF01 là thức ăn hỗn hợp HITEK cho lợn con giai đoạn từ tập ăn - 8 kg hoặc 35 ngày tuổi.
- Thức ăn mã số 9054/GF08 là thức ăn hỗn hợp LAC HITEK cho lợn nái giai đoạn nuôi con.
2.2.2.3 Chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái nuôi con.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004), thức ăn cho lợn nái nuôi con cần có ảnh hưởng tích cực đến sản lượng và chất lượng sữa Các loại thức ăn xanh non như rau xanh, bí đỏ, cà rốt, đu đủ, cùng với thức ăn tinh như gạo tấm, bột mì và các nguồn đạm động vật, thực vật là rất cần thiết Cần tránh cho lợn nái ăn thức ăn thối, mốc hay hư hỏng Đối với thức ăn hỗn hợp trong chăn nuôi công nghiệp, cần đảm bảo đầy đủ protein, năng lượng và các vitamin, khoáng theo tiêu chuẩn như năng lượng trao đổi 3.100 Kcal, protein 15%, canxi 0,9 - 1,0% và phospho 0,7%.
Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ Do đó, cần xây dựng khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ Theo Trần Văn Phùng và cộng sự (2004), trong quá trình nuôi con, lợn nái cần được cho ăn một cách khoa học để đảm bảo sức khỏe và năng suất sữa tối ưu.
- Đối với lợn nái ngoại:
+ Ngày cắn ổ đẻ: Cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, cho uống nước tự do.
+ Sau đẻ ngày thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng.
+ Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7 cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ ngày.
+ Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức:
+ Số bữa ăn trên ngày: 3 bữa (sáng, trưa và chiều)
+ Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày.
+ Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ngày sau bữa ăn thức ăn tinh (nếu có rau xanh).
+ Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước.
Theo Trần Thanh Vân và cộng sự (2017), lợn nái nuôi con cần được cho ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày, khoảng 3-4 bữa, với khoảng cách đều nhau và đúng giờ Cần cung cấp đủ nước uống và chuyển đổi thức ăn cho giai đoạn nuôi con một cách dần dần để tránh ảnh hưởng đến tiêu hóa Theo dõi các biểu hiện của lợn nái sắp đẻ như bầu vú căng to, giãn khớp xương chậu, và dịch nhờn ở âm hộ để có biện pháp can thiệp kịp thời Khi lợn mẹ tìm chỗ nằm và có dấu hiệu sinh con, cần chuẩn bị kế hoạch đỡ đẻ ngay.
2.2.3 Những hiểu biết về quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con theo mẹ 2.2.3.1 Đặc điểm sinh lý của lợn con.
* Cơ năng điều tiết thân nhiệt.
Thân nhiệt của lợn con sau khi đẻ thường giảm, phụ thuộc vào khối lượng sơ sinh, chất dinh dưỡng và nhiệt độ môi trường Gia súc non có khả năng điều tiết thân nhiệt kém, nên rất nhạy cảm với sự thay đổi khí hậu, đặc biệt là nhiệt độ lạnh, dễ dẫn đến bệnh tật Đến khoảng 15 - 20 ngày tuổi, thân nhiệt của gia súc non mới dần ổn định (Trần Thị Dân, 2008).
Theo Trương Lăng (2000), lợn con cần bú sữa đầu trong vòng 2 giờ sau khi sinh để thân nhiệt ổn định trong 8 - 12 giờ Nếu lợn con bú sữa đầu sau 4 giờ, thân nhiệt sẽ chỉ đạt mức bình thường sau 18 - 24 giờ Trong tuần đầu, khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con còn kém, và nhiệt độ chuồng nuôi thấp sẽ làm giảm thân nhiệt của chúng Sau 3 tuần tuổi, khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con cải thiện, với thân nhiệt đạt khoảng 39 - 39,5ºC.
* Khi lợn con dưới 1 tháng.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt (2007), lợn con khi mới sinh ra hầu như không có kháng thể trong máu Tuy nhiên, lượng kháng thể này tăng nhanh chóng khi lợn con bú sữa đầu từ mẹ Do đó, khả năng miễn dịch của lợn con hoàn toàn phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thụ từ sữa đầu, trong đó sữa đầu có tỷ lệ protein rất cao, lên tới 18-19% Đặc biệt, g-globulin chiếm 34-45% trong sữa đầu, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp miễn dịch cho lợn con.
Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1 Nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con Vì vậy, một số các nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về các bệnh về nái sinh sản.
Nghiên cứu của Nguyễn Bá Hiên (2001) cho thấy rằng khi lợn bị tiêu chảy, số lượng vi khuẩn E coli trong đường ruột tăng trung bình 1,9 lần so với lợn khỏe mạnh.
Bệnh viêm tử cung ở lợn mẹ có thể do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus gây ra, lây nhiễm từ lợn con qua cuống rốn Nguyên nhân lây nhiễm thường gặp bao gồm đẻ khó, sát nhau, sảy thai và việc sử dụng dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng, dẫn đến xây xát và hình thành ổ viêm nhiễm trong tử cung và âm đạo.
Trước khi lợn nái đẻ, cần thực hiện các bước như lau, xoa vú và tắm cho nái Lợn con nên được cho bú ngay sau 1 giờ sinh Cần cắt răng nanh cho lợn con và chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng và sốt Ngoài ra, tiêm kháng sinh penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất quanh vú cũng là biện pháp cần thiết.
Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm Tiêm trong 3 ngày liên tục.
Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004), các yếu tố thời tiết như nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh khô và ẩm ướt có sự biến đổi thất thường, cùng với điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của lợn, đặc biệt là lợn con với cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh và khả năng thích nghi còn yếu.
Theo Trần Thị Dân (2008), lợn con mới sinh không có globulin trong máu, nhưng sau khi bú sữa đầu, lượng globulin tăng nhanh chóng nhờ sự truyền từ mẹ Sau khoảng 3 - 4 tuần, lượng globulin này sẽ giảm dần và tiếp tục thay đổi đến tuần thứ 5.
Sự tăng lên của giá trị 65 mg/100 ml máu cho thấy các yếu tố miễn dịch như bổ thể và bạch cầu vẫn được tổng hợp ở mức thấp, dẫn đến khả năng miễn dịch đặc hiệu của lợn con kém Do đó, việc cho lợn con bú sữa đầu là vô cùng quan trọng để nâng cao khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh.
Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục ở lợn nái sau sinh được thực hiện trên 143 con lợn nái, trong đó có 106 con có dấu hiệu tiết dịch nghi ngờ viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13% Nghiên cứu của Trần Ngọc Bích và cộng sự (2016) đã chỉ ra hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh đối với tình trạng này.
Nghiên cứu của Akita E.M và Nakai S (1993) cho thấy sản xuất kháng thể đặc hiệu từ lòng đỏ trứng gà có hiệu quả trong việc phòng và chữa bệnh tiêu chảy ở lợn con Tại Pháp, Brouillet và Faroult (2003) đã chỉ ra rằng việc điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là yếu tố then chốt để kiểm soát bệnh này Quá trình điều trị cần được thực hiện sớm và đạt hiệu quả, đồng thời xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà còn phải xem xét các chỉ tiêu chăn nuôi và kết quả từ 30 phòng thí nghiệm Hiểu biết sâu sắc về các phương pháp điều trị, đặc biệt là dược lực học và dược động học, sẽ giúp cải thiện hiệu quả điều trị.
Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Đối tượng
Đàn lợn con nái nuôi con và lợn con theo mẹ.
Địa điểm và thời gian tiến hành
Địa điểm: Trại chăn nuôi lợn Nguyễn Thị Ánh Tuyết, xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Thời gian tiến hành: Từ ngày 28/05/2020 đến ngày 28/11/2020.
Nội dung thực hiện
Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Nguyễn Thị Ánh Tuyết, xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thị Ánh Tuyết.
Thực hiện phòng và trị bệnh cho lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trại.
Các chỉ tiêu và phương án thực hiện
3.4.1 Các chỉ tiêu theo dõi
- Tình hình chăn nuôi của trại Nguyễn Thị Ánh Tuyết trong 2 năm gần đây.
- Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ tại trại.
- Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn con theo mẹ nuôi tại trại Nguyễn Thị Ánh Tuyết.
- Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái nuôi con và lợn theo mẹ tại trại.
- Thực hiện các biện pháp phòng trị bệnh cho lợn nái nuôi con và lợn con nuôi tại trại.
KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
Tình hình chăn nuôi tại trại
Trong thời gian thực tập tại trại, tôi đã tiến hành theo dõi tình hình chăn nuôi từ năm 2019 đến hết tháng 6 năm 2020, thông qua số liệu trực tiếp được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 4.1 Tình hình chăn nuôi lợn tại trại
Theo bảng 4.1, cơ cấu lợn tại trại đã có sự thay đổi qua các năm Năm 2020, mặc dù thị trường chăn nuôi lợn gặp nhiều khó khăn, trại vẫn duy trì được số lượng lợn so với các năm trước, với 01 con lợn đực giống giữ nguyên từ tháng 11/2019 đến tháng 11/2020 Số lượng lợn nái sinh sản cũng có biến động, nhưng không đáng kể, với 148 con vào tháng 11/2020 nhờ việc đưa thêm hậu bị vào sinh sản Tuy nhiên, số lượng lợn con giảm từ 2791 con vào tháng 11/2019 xuống còn 1928 con vào tháng 11/2020.
Trại chăn nuôi lợn đang phát triển ổn định với tổng số lợn đạt 734 con, nhờ vào việc đưa thêm hậu bị vào sinh sản Số lượng lợn con chiếm ưu thế, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các loại lợn trong trại Các lợn nái được theo dõi chặt chẽ với các thông số như số tai, ngày phối giống, số lứa đẻ, và ngày cai sữa, được ghi chép cẩn thận trên thẻ gắn Định kỳ hàng tháng, trại thực hiện loại thải những nái sinh sản kém để duy trì chất lượng đàn lợn.
Kết quả cho thấy quy mô chăn nuôi tại trang trại ổn định, nhờ vào những nỗ lực khắc phục khó khăn để duy trì số lượng lợn đạt mục tiêu đề ra.
Thực hiện biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản
4.2.1 Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập
Trong thời gian thực tập từ tháng 6 đến tháng 11 năm 2020, tôi đã tham gia trực tiếp vào việc chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái cùng lợn con theo mẹ.
Bảng 4.2 Kết quả theo dõi số lượng lợn nái và lợn con trực tiếp chăm sóc
Tháng Nái đẻ nuôi con Số lợn con đẻ ra Số lợn con cai sữa
Kết quả cho thấy có 148 lợn nái được chăm sóc và nuôi dưỡng tại trại Quá trình này tuân theo chỉ đạo kỹ thuật, giúp tôi học hỏi nhiều kiến thức về dinh dưỡng và chăm sóc lợn nái Để tăng số con đẻ, lợn nái sau khi tách con cần được cho ăn tăng, nhưng lượng thức ăn phải phù hợp với thể trạng Chuồng trại cần sạch sẽ và thoáng mát, tránh tắm vào những ngày lạnh ẩm để ngăn ngừa bệnh Khi xác định lượng thức ăn, cần chú ý đến giống, khối lượng, giai đoạn mang thai và tình trạng sức khỏe của lợn nái Tránh tiêm phòng và tẩy giun trong tháng chửa đầu và 15 ngày trước khi đẻ để hạn chế nguy cơ sẩy thai Ghi chép ngày phối giống là cần thiết để lập kế hoạch cho lợn đẻ Vào mùa đông, cần chuẩn bị bóng úm cho lợn con và đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ cho lợn mẹ Khi chăm sóc lợn con, cần sát trùng dụng cụ để tránh tổn thương và bệnh tật, đồng thời bắt lợn một cách nhẹ nhàng.
4.2.2 Tình hình sinh sản của lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại Để đánh giá được tình hình sinh sản của đàn lợn nái em được phân công chăm sóc và nuôi dưỡng kèm tiến hành theo dõi quá trình sinh sản của
149 lợn nái sinh sản, kết quả được trình bày ở bảng 4.3
Bảng 4.3 Tình hình sinh sản của lợn nái
Số con đẻ Tỷ lệ đẻ
Số con đẻ con đẻ
Số con đẻ khó phải phải can
Theo bảng 4.3, tỷ lệ lợn nái cần can thiệp trong quá trình đẻ là 3,38%, cho thấy mức độ can thiệp thấp Nguyên nhân chính là do quy trình chăm sóc và dinh dưỡng cho lợn nái mang thai được thực hiện đúng cách Các trường hợp lợn nái đẻ khó chủ yếu xảy ra ở lợn nái lứa đầu do cổ tử cung chưa giãn nở, hoặc một số ít do lợn mẹ béo phì và ít vận động trong thời gian mang thai Bên cạnh đó, các nguyên nhân khác như tư thế bất thường của bào thai, thai quá lớn hoặc dị hình cũng góp phần vào tình trạng đẻ khó.
Trong quá trình đỡ đẻ cho lợn nái, việc ghi chép chính xác ngày phối giống là rất quan trọng Điều này giúp người chăn nuôi xác định thời điểm lợn sắp đẻ, từ đó có kế hoạch chuẩn bị các dụng cụ hỗ trợ cho quá trình đẻ và chuẩn bị ô úm cho lợn con.
4.3 Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con theo mẹ tại trại
Bảng 4.4 Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con theo mẹ tại tại
Số nái đẻ Số con đẻ ra/lứa Số con còn sống đến cai
Theo bảng 4.4, tháng 10 ghi nhận trung bình số lợn con đẻ ra trên lứa cao nhất với 14,46 con, trong khi tháng 11 có số lợn con đẻ ra thấp nhất, chỉ đạt 12,81 con.
Số con còn sống đến khi cai sữa cao nhất là vào tháng 10 với 13,73 con và thấp nhất là vào tháng 11 với 12,22 con.
Các chỉ số trên cho thấy chất lượng chăm sóc và nuôi dưỡng lợn mẹ cũng như lợn con.
Thực hiện quy trình phòng và trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con tại trại
4.4.1.Biện pháp vệ sinh phòng bệnh
Để thực hiện phương châm "Phòng bệnh hơn chữa bệnh", việc phòng bệnh tại trại được ưu tiên hàng đầu, nhằm hạn chế và ngăn chặn sự phát sinh bệnh Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp tập trung vào các yếu tố môi trường, mầm bệnh và vật chủ Các hoạt động bao gồm dọn dẹp phân, rửa chuồng trại và phun thuốc sát trùng định kỳ Việc khử trùng chuồng trại được thực hiện thường xuyên bằng các loại thuốc sát trùng hiệu quả để đảm bảo môi trường sống an toàn cho vật nuôi.
Nguồn nước uống được cung cấp từ hệ thống giếng khoan, nước được bơm lên bể và khử khuẩn bằng Cloramin B Trong quá trình thực tập, tôi đã tham gia vào công tác vệ sinh phòng bệnh, với kết quả được thể hiện qua bảng 4.5.
Bảng 4.5 Kết quả khử trùng tại cơ sở
Nội dung công việc hoạch thực hiện Tỷ lệ(%)
Tỷ lệ pha thuốc phun sát trùng APA Clean định kỳ, pha với tỷ lệ 1/500
Để đảm bảo hiệu quả trong việc khử trùng, cần pha chế dung dịch đúng tỷ lệ 1/300 (tương đương 2 - 3 ml/l nước); nếu pha quá nhiều sẽ tốn kém và gây hại cho da, trong khi pha quá ít không đủ liều để tiêu diệt vi khuẩn Khi sử dụng vôi, cần pha 1kg vôi sống với 10 lít nước Khi rắc vôi bột, nên rải một lớp mỏng ở hành lang giữa chuồng, bắt đầu từ cuối chuồng và rải thấp tay để tránh lợn con bị sặc Đặc biệt, khi thực hiện các bước này, cần đeo găng tay, ủng và khẩu trang để bảo vệ sức khỏe.
4.4.2 Tiêm vắc-xin phòng bệnh
Tiêm vắc-xin cho lợn giúp cơ thể tự tạo ra sức miễn dịch chủ động chống lại vi khuẩn, từ đó nâng cao sức đề kháng Việc tiêm phòng cần được thực hiện nghiêm ngặt và đúng lịch quy định để giảm thiểu thiệt hại kinh tế khi dịch bệnh bùng phát.
Công tác phòng bệnh cho lợn con là rất quan trọng, bao gồm việc duy trì vệ sinh và tiêm phòng vắc-xin đầy đủ trong từng giai đoạn phát triển Sau khi ra đời, lợn con dễ bị nhiễm mầm bệnh nếu không được tiêm phòng kịp thời.
Bảng 4.6 Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn con theo mẹ
Thời gian tiêm phòng vắc xin là yếu tố quan trọng để đảm bảo an toàn cho trẻ Mỗi loại vắc xin có liều lượng và đường tiêm khác nhau, với tỷ lệ an toàn cao Đối với từng loại bệnh, việc tuân thủ đúng lịch tiêm và số lượng vắc xin sẽ giúp nâng cao hiệu quả phòng bệnh cho trẻ.
Mới Tăng cường hệ IgOne-S 2 Cho 2046 2046 100 sinh uống miễn dịch
3 Thiếu sắt Fer-plus 2 Tiêm
Cầu trùng Pig-cox 2 Cho
14 Còi cọc Circo One 2 Tiêm
2001 2001 100 bắp con trước khi cho uống sữa đầu thì cho uống IgOne - S liều 2ml/con; lợn con
Vào ngày thứ hai tuổi, lợn con nên được cho uống VietSoul - PED với liều 2ml/con vào buổi sáng và amoxcol 2ml/con vào buổi chiều Đối với lợn con 3 ngày tuổi, nên cho uống Pig - cox với liều lượng phù hợp.
Để phòng ngừa bệnh cầu trùng và thiếu sắt, lợn con cần được tiêm Fer-plus với liều 2 ml/con Ngoài ra, lợn con 7 ngày tuổi và 14 ngày tuổi cũng nên được tiêm vắc-xin Respisure One và Circo One với liều 2 ml/con để phòng bệnh Suyễn và Còi cọc Việc tiêm vắc-xin là một trong những biện pháp hiệu quả giúp giảm nguy cơ mắc bệnh cho lợn con.
4.4.3 Chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn tại trại
4.4.3.1 Kết quả chẩn đoán cho lợn đàn lợn tại trại
Bảng 4.7 Kết quả chẩn đoán cho lợn nái
Loại bệnh Số lợn nái theo dõi Số lợn mắc bệnh Tỷ lệ mắc
Kết quả từ bảng 4.7 cho thấy, trong số lợn nái mà tôi theo dõi, các bệnh chủ yếu gặp phải bao gồm: sát nhau, viêm tử cung và viêm vú Đặc biệt, bệnh viêm tử cung có tỷ lệ nhiễm cao nhất đạt 8,11%, trong khi bệnh viêm vú có tỷ lệ thấp nhất là 1,35%.
Bệnh viêm tử cung ở lợn có tỷ lệ cao do nhiều nguyên nhân, bao gồm đường sinh dục hẹp và tổn thương khi bào thai ra ngoài Việc lợn đẻ khó và phải can thiệp bằng tay hay dụng cụ không đảm bảo vô trùng cũng dẫn đến viêm tử cung Ngoài ra, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo không đúng cách có thể làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập Cuối cùng, các thủ thuật can thiệp trong quá trình đẻ khó cũng làm tăng nguy cơ viêm do vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập.
Bảng 4.8 Kết quả điều tra tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con theo mẹ
Chỉ tiêu theo dõi Số con theo dõi Số con mắc bệnh
Kết quả từ bảng 4.8 cho thấy trong quá trình theo dõi 2046 lợn con từ sơ sinh đến khi cai sữa, lợn dễ mắc các bệnh như hội chứng tiêu chảy và viêm khớp Việc chăm sóc và nuôi dưỡng lợn con đúng kỹ thuật là rất quan trọng, nếu không sẽ dẫn đến nguy cơ mắc bệnh cao, ảnh hưởng đến năng suất và kinh tế của trại Các triệu chứng chung khi lợn mắc bệnh bao gồm ủ rũ, mệt mỏi, bỏ ăn, chán ăn, lười hoạt động và sốt cao Đặc biệt, lợn con bị hội chứng tiêu chảy có dấu hiệu phân màu vàng trắng, trắng xám, sau đó chuyển sang vàng xanh với mùi hôi tanh Lợn sẽ bị mất nước, mất chất điện, gầy sút nhanh, bú kém và đi lại không vững Nếu bệnh kéo dài, bụng lợn sẽ tóp lại, lông xù, và hậu môn cùng đuôi sẽ dính phân bê bết.
Lợn con bị viêm khớp con vật có biểu hiện các khớp chân trước, khớp chân sau, khớp háng sưng to, con vật không đi lại được.
Nguyên nhân gây ra rối loạn tiêu hóa ở lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại không đảm bảo, thức ăn không được bảo quản cẩn thận và ẩm ướt Thêm vào đó, sự thay đổi thời tiết và nền chuồng ẩm ướt cũng tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát triển, ảnh hưởng đến sức khỏe của lợn con.
4.3.3.2 Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái và lợn con theo mẹ
Trong 6 tháng thực tập tại trại, tôi đã tham gia vào việc chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với kỹ sư của trại Qua quá trình này, tôi đã nâng cao kiến thức và kinh nghiệm về chẩn đoán các bệnh thường gặp, nguyên nhân gây bệnh, cũng như phương pháp khắc phục và điều trị Kết quả chi tiết được trình bày trong bảng 4.9 và 4.10.
Bảng 4.9 Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái trong thời gian thực tập
Thời Số Số Đường gian lợn lợn Tỷ lệ
Phác đồ điều trị đưa điều bị khỏi bệnh trị thuốc trị bệnh (%)
+ Oxytoxin: 2ml/con 3 - 5 12 10 83,33 tử bắp
Bệnh 1ml/10kgTT viêm + Diclodol: Tiêm 4 - 5 2 2 100 vú 1ml/15kg TT bắp
Kết hợp thụt rửa bắp nhau bằng nước muối sinh lý có tác dụng điều trị các bệnh liên quan đến viêm tử cung ở lợn Đối với bệnh này, có thể sử dụng Vetrimoxin - LA với liều 1ml/10kg trọng lượng cơ thể, tiêm bắp; oxytoxin với liều 2ml/con, tiêm bắp; và diclodol với liều 1ml/15kg trọng lượng cơ thể (sử dụng khi lợn bị sốt), cũng tiêm bắp Thời gian điều trị nên kéo dài trong vòng 3 ngày.
Trong một nghiên cứu điều trị bệnh viêm vú ở lợn, 12 con được điều trị bằng Vetrimoxin - LA với liều 1ml/10kgTT và oxytoxin 2ml/con, kết quả cho thấy 10 con khỏi bệnh, đạt tỷ lệ 83,33% Đối với bệnh sát nhau, 3 con được điều trị với Vetrimoxin - LA và oxytoxin, kết hợp thụt rửa bằng nước muối sinh lý, nhưng chỉ có 1 con khỏi bệnh, tỷ lệ đạt 33,33% Thời gian điều trị cho cả hai bệnh dao động từ 3 đến 5 ngày.
Từ kết quả điều trị có thể thấy bệnh viêm vú có tỷ lệ khỏi cao nhất là
100%, bệnh sát nhau có tỷ lệ khỏi thấp nhất là 33,33%.
Bảng 4.10 Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con trong thời gian thực tập
Thời Số lợn Đường gian Số lợn Tỉ lệ
Tên Phác đồ mắc đưa điều khỏi khỏi bệnh điều trị bệnh thuốc trị (con) (%)
Hội chứng Danofloxacin1ml/ Tiêm
Viêm khớp Vetrimoxin - LA: Tiêm