ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN 1
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá 1
Giáo dục phổ thông tại Việt Nam đang chuyển từ chương trình định hướng nội dung sang tiếp cận năng lực học sinh, tập trung vào việc học sinh có khả năng làm gì và thực hiện như thế nào Để đạt được mục tiêu này, cần chuyển đổi phương pháp dạy học từ việc truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành năng lực, phẩm chất Đồng thời, cần thay đổi cách đánh giá kết quả giáo dục từ kiểm tra trí nhớ sang đánh giá khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, chú trọng đánh giá trong quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Tất cả các yếu tố trong quá trình giáo dục ở trường trung học cần được đổi mới, bao gồm nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và cách thức đánh giá bài học, trong đó đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá của giáo viên là rất quan trọng.
KTĐG là công cụ quan trọng giúp xác định năng lực nhận thức của người học, điều chỉnh quá trình dạy và học Nó cũng thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học "thi sao học vậy", góp phần nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục.
- Thông qua KTĐG tạo điều kiện cho GV:
Để nâng cao chất lượng giáo dục, cần nắm rõ sự phân hoá về trình độ học lực của học sinh trong lớp Từ đó, giáo viên có thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ cho học sinh yếu kém và bồi dưỡng cho học sinh giỏi Việc này không chỉ giúp cải thiện kết quả học tập mà còn cung cấp cơ sở thực tế để điều chỉnh và hoàn thiện quá trình dạy học.
Giúp học sinh nhận thức rõ khả năng học tập của bản thân so với mục tiêu đề ra và yêu cầu của chương trình, từ đó tìm ra nguyên nhân sai sót và điều chỉnh hoạt động học tập Qua đó, học sinh còn phát triển được kỹ năng tự đánh giá, nâng cao hiệu quả học tập.
Chỉ thị số 47/2008/CT – BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GDĐT nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục trong năm học 2008 - 2009, bao gồm việc thực hiện 3 công khai tại các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập Điều này nhằm giúp cha mẹ học sinh và cộng đồng giám sát, đánh giá kết quả dạy học, bao gồm: (1) công khai chất lượng đào tạo, (2) công khai điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, (3) công khai thu chi tài chính Việc công khai kết quả dạy học không chỉ tăng cường sự minh bạch mà còn góp phần quan trọng vào thành công của nhiệm vụ giáo dục trong năm học này.
Cán bộ quản lý giáo dục cần nắm rõ thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học tại đơn vị để có thể đưa ra chỉ đạo kịp thời và đúng hướng.
Việc đổi mới kiểm tra đánh giá (KTĐG) là cần thiết trong quá trình triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, nhằm duy trì quan điểm đổi mới giáo dục Điều này đặc biệt quan trọng để thúc đẩy phương pháp dạy học (PPDH) tích cực, giúp học sinh chủ động và có mục đích rõ ràng trong việc học KTĐG kết quả học tập bao gồm việc phân tích và đối chiếu thông tin về trình độ kỹ năng học tập của từng học sinh.
Hội thảo “Đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH” đã chỉ ra rõ ràng vai trò quan trọng của việc đổi mới kiểm tra đánh giá (KTĐG) trong việc đạt được mục tiêu dạy học Các địa phương tham gia đã nêu bật thực tiễn và sự cần thiết phải cải cách phương pháp dạy học (PPDH) để nâng cao chất lượng giáo dục.
* Nhận dạng dấu hiệu đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH
Quá trình dạy học bao gồm các hoạt động giảng dạy và kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh Việc đổi mới kiểm tra đánh giá của giáo viên được thể hiện qua một số dấu hiệu cụ thể.
Để thực hiện quy chế đánh giá học sinh hiệu quả, cần tiến hành đầy đủ các loại kiểm tra như thường xuyên, định kỳ và học kỳ, đồng thời bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng trong việc ra đề Nội dung kiểm tra phải dựa trên mục tiêu của từng bài học và chương trình học, kết hợp với phong trào "hai không" và xây dựng trường học thân thiện Đánh giá cần khách quan, công bằng, khuyến khích tư duy sáng tạo và tự đánh giá, tạo điều kiện cho học sinh đánh giá lẫn nhau Việc đánh giá nên toàn diện cả lý thuyết và năng lực thực hành, với hình thức đánh giá linh hoạt tùy theo mục đích, bao gồm nói, viết, bài tập và quan sát Đề kiểm tra cần phân hóa học sinh theo trình độ và năng lực, kết hợp đánh giá nội bộ và bên ngoài để đảm bảo tính khách quan.
Đánh giá cần được coi là công cụ học tập, không chỉ là phương pháp đo lường, nhằm tập trung vào kết quả và sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học Điều này giúp động viên học sinh sửa chữa thiếu sót và khuyến khích sự chủ động, tích cực trong từng tiết học Hướng tới việc đánh giá toàn diện quá trình lĩnh hội tri thức, bao gồm cả các hoạt động ôn luyện và thực hành, sẽ góp phần xây dựng môi trường học tập thân thiện và tích cực cho học sinh.
Coi trọng kỹ thuật đánh giá kỹ năng diễn đạt thông qua lời nói, chữ viết, sơ đồ và biểu đồ là rất quan trọng Việc này không chỉ giúp học sinh phát triển khả năng giao tiếp mà còn bồi dưỡng tình cảm và hứng thú học tập cho các em.
KTĐG đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình học tập liên tục của học sinh (HS) thông qua việc tự đánh giá kiến thức và kỹ năng so với mục tiêu đề ra, từ đó nâng cao tinh thần tự học và hình thành phương pháp tự học hiệu quả Thông tin phản hồi từ KTĐG cũng giúp giáo viên (GV) điều chỉnh phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giảng dạy Để đạt được hiệu quả cao trong dạy và học, cần có sự thống nhất giữa Dạy-Học-Kiểm tra Việc đổi mới KTĐG yêu cầu GV phải nắm vững chương trình và đặc điểm học tập của HS để xây dựng đề kiểm tra phù hợp Đồng thời, kết quả KTĐG cần được phân tích để phản hồi vào quá trình dạy học Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những trọng tâm của cải cách giáo dục, phù hợp với định hướng đổi mới chung của chương trình giáo dục trung học, nhằm nâng cao chất lượng toàn diện và phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của HS Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập để phát huy tính tích cực và tự giác của người học.
Các quan điểm và định hướng đã nêu tạo nền tảng thực tiễn và khung pháp lý thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc đưa câu hỏi nâng cao vào đề thi 4
Kể từ năm 2015, khi kỳ thi THPT Quốc gia lần đầu được tổ chức, đề thi đã bắt đầu xuất hiện các câu hỏi nhận xét nâng cao Trong những năm học tiếp theo, đặc biệt là năm gần đây, xu hướng này tiếp tục được duy trì và phát triển.
Phần câu hỏi nhận xét nâng cao trong các bài nghị luận văn học vẫn giữ vai trò quan trọng trong các đề thi THPT Quốc gia và tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn từ năm 2015 đến 2021 Việc trích dẫn câu hỏi từ phần Làm văn giúp người học có cái nhìn tổng quát hơn về nội dung và yêu cầu của các đề thi này.
Trích dẫn 1: Đề thi THPT QG năm 2015.
“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
Nếu giá tôi đẻ ít hơn hoặc chúng tôi có một chiếc thuyền rộng hơn, cuộc sống đã bớt khó khăn từ ngày cách mạng Trước kia, trong các vụ bão, gia đình chúng tôi phải chịu đựng đói khổ, chỉ sống bằng cây xương rồng luộc chấm muối.
- Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
Không, không phải như vậy; cuộc sống cũng đầy khó khăn và khốn khổ khi phải trốn lính Mặc dù vậy, nguyên nhân chính khiến mọi chuyện trở nên tồi tệ là do những người phụ nữ trên thuyền sinh quá nhiều con, trong khi không gian trên thuyền lại hạn chế.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi
Làm nhà trên đất ở một chỗ không thể duy trì nghề thuyền lưới vó Kể từ khi cách mạng diễn ra, mặc dù đất đã được cấp, nhưng người dân vẫn không thể từ bỏ nghề truyền thống của mình.
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi
Khi gặp khó khăn, lão thường trút giận lên tôi, giống như những người đàn ông khác tìm đến rượu để giải khuây Nếu lão cũng uống rượu, có lẽ tôi sẽ bớt khổ hơn Khi con cái lớn lên, tôi đã xin lão cho tôi lên bờ để không phải chịu đựng những trận đòn nữa.
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên
Các bạn không thể hiểu được nỗi khổ của người phụ nữ khi phải chèo chống trên chiếc thuyền một mình, bởi vì các bạn không phải là phụ nữ.
Bây giờ tôi đã hiểu, Đẩu thở dài một cách chua chát, nhấn mạnh rằng trên thuyền cần có một người đàn ông, dù hắn có thể man rợ và tàn bạo.
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú? Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
Mong các chú cách mạng thông cảm cho hoàn cảnh của chúng tôi, những người phụ nữ trên thuyền cần có đàn ông để chèo chống và nuôi nấng con cái, vì mỗi gia đình đều có từ chục đứa trẻ Đàn bà sinh ra để đẻ và nuôi con, chịu đựng khổ cực để lo cho con cái khôn lớn Chúng tôi phải sống vì con, không thể sống cho bản thân như ở trên đất Xin các chú hãy hiểu và đừng bắt tôi từ bỏ điều đó! – Lần đầu tiên, khuôn mặt xấu xí của mụ chợt sáng lên như một nụ cười, cho thấy rằng trên chiếc thuyền, gia đình chúng tôi cũng có những lúc sống hòa thuận và vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa” –Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12,tập hai, NXB Giáo dục, 2015, tr 75 – 76)
Nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích thể hiện sự kiên cường và hy sinh, là hình mẫu của những người phụ nữ chịu đựng khó khăn trong cuộc sống Qua hình ảnh này, nhà văn Nguyễn Minh Châu khắc họa một cách sâu sắc về cuộc sống đầy gian truân và những giá trị nhân văn Tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn bộc lộ cái nhìn đa chiều về con người, từ đó thể hiện sự đồng cảm và trân trọng đối với những số phận bình dị nhưng cao quý.
Trích dẫn 2: Đề thi THPT QG năm 2017.
Đất là nơi gắn bó với những kỷ niệm học trò, nơi ta hò hẹn và lưu giữ những nỗi nhớ Nước mang lại hình ảnh tươi đẹp của những buổi tắm mát, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong tâm tư lặng lẽ Đất và Nước hòa quyện, tạo nên bức tranh sống động với hình ảnh "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc" và "con cá ngư ông móng nước biển khơi".
Thời gian trôi qua và không gian bao la, Đất Nước là nơi mà người dân đoàn tụ Đất là nơi chim trở về, còn nước là nơi Rồng cư ngụ Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sinh ra dân tộc ta từ những quả trứng Những ai đã khuất vẫn sống mãi trong lòng đất nước.
Những ai hiện nay đang yêu nhau và sinh con đẻ cái, đều gánh vác trách nhiệm của thế hệ trước, đồng thời dặn dò con cháu về tương lai Hàng năm, họ vẫn duy trì cuộc sống với những hoạt động thường nhật.
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
(Trích “Đất nước”, Trường ca “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr 118-119)
Cảm nhận của Anh/Chị về đoạn thơ trên Từ đó bình luận về quan niệm về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Trích dẫn 3: Đề thi THPT QG năm 2018.
Trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu, sự đối lập giữa vẻ đẹp thanh bình của hình ảnh chiếc thuyền và cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài thể hiện một cách sâu sắc về cuộc sống con người Cảnh chiếc thuyền lướt sóng mang đến cảm giác yên ả, nhưng ẩn sâu là nỗi đau và bất hạnh của những con người sống trong bạo lực Tương tự, trong "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam, hình ảnh phố huyện lúc đêm khuya đối lập với đoàn tàu hối hả, phản ánh sự tĩnh lặng, nghèo nàn và tăm tối của cuộc sống nơi đây Qua đó, cả hai tác giả đều khắc họa những mảng tối của hiện thực, cho thấy sự tương phản giữa vẻ đẹp bên ngoài và nỗi khổ đau bên trong của con người.
Trích dẫn 4: Đề thi THPT QG năm 2019.
Sông Hương, một biểu tượng độc đáo của thành phố Huế, mang trong mình hành trình kỳ diệu từ rừng già đến châu thổ Trước khi hòa mình vào vùng đất êm đềm, nó đã trải qua những thử thách mạnh mẽ giữa thiên nhiên hoang dã, thể hiện sức mạnh và bản lĩnh như một cô gái Di-gan tự do Rừng già đã tạo nên một tâm hồn trong sáng và dũng cảm cho sông Hương, nhưng cũng chính nơi đây đã kiềm chế sức mạnh bản năng, giúp nó trở thành hình ảnh dịu dàng và trí tuệ khi ra khỏi rừng Để hiểu rõ về sông Hương, người ta cần nhìn nhận không chỉ vẻ đẹp bên ngoài mà còn phải cảm nhận sâu sắc tâm hồn ẩn chứa bên trong, nơi mà những ký ức và trải nghiệm đã khắc sâu vào dòng chảy của nó.
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.198)
Xuất phát từ vai trò của môn ngữ văn trong trường phổ thông 11
Môn ngữ văn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trí tuệ, tâm hồn và nhân cách của học sinh Như nhà văn M Gorky đã nói, “Văn học là nhân học”, và giáo sư Hà Minh Đức cũng khẳng định rằng văn học là nguồn tri thức và năng lượng tinh thần lớn lao Môn học này không chỉ dạy về ngôn ngữ và tác phẩm văn chương mà còn hình thành kỹ năng đọc, viết và hoàn thiện nhân cách Trong thời đại công nghệ hiện nay, ngữ văn càng trở nên quan trọng hơn trong việc bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc.
Học ngữ văn không chỉ là để có công cụ giao tiếp hiệu quả mà còn giúp bạn hiểu và diễn đạt suy nghĩ, cảm xúc của mình Việc biết đọc không chỉ dừng lại ở việc phát âm mà còn phải nắm bắt thông tin và ý nghĩa sâu xa Kỹ năng viết và nghe, nói cũng quan trọng không kém; nếu bạn không thể diễn đạt ý tưởng một cách tự tin và thuyết phục, bạn sẽ gặp khó khăn trong nhiều tình huống như xin học bổng hay phỏng vấn xin việc Học ngữ văn giúp bạn giao tiếp tế nhị và văn minh hơn trong cuộc sống hàng ngày Thêm vào đó, việc tiếp xúc với các tác phẩm văn học và thơ ca không chỉ mang lại giá trị nghệ thuật mà còn nuôi dưỡng tâm hồn, giúp bạn sống nhân ái và vị tha hơn Như nhà văn M Gorki đã nói: “Mỗi tác phẩm là một cuộc đời”, và những trải nghiệm trong văn học sẽ ảnh hưởng đến cách bạn suy nghĩ và hành động trong cuộc sống.
Văn học đóng vai trò quan trọng trong đời sống và sự phát triển tư duy của con người, là môn học thiết yếu trong giáo dục tư tưởng và tình cảm cho học sinh Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, môn văn giúp con người giữ lại những giá trị nhân văn, kết nối trái tim với trái tim Học tốt môn văn không chỉ ảnh hưởng tích cực đến các môn học khác mà còn cần thiết cho việc đọc hiểu văn bản trong sách giáo khoa, mỗi môn học đều yêu cầu phương pháp đọc riêng nhưng đều hướng tới việc hiểu nội dung.
Kỹ năng đọc hiểu là yếu tố quan trọng không chỉ trong môn Ngữ văn mà còn trong các môn học khác như Lịch sử, Khoa học xã hội, Toán học và Khoa học kỹ thuật.
Tư duy khoa học và tư duy hình tượng có sự khác biệt, nhưng cả hai đều cần trí tưởng tượng để phát triển Việc học Ngữ văn, cũng như đọc và viết văn, giúp rèn luyện và phát triển năng lực tưởng tượng của mỗi người, từ đó tạo nền tảng và cảm hứng sáng tạo cho các lĩnh vực khác.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của văn học Việt Nam trong bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông 12
Văn học Việt Nam đóng vai trò thiết yếu trong môn Ngữ văn tại các trường phổ thông, là thước đo quan trọng để cải cách phương pháp dạy học và đánh giá năng lực học sinh Các bài kiểm tra chủ yếu tập trung vào tác phẩm văn học Việt Nam, do đó cả giáo viên và học sinh cần chú trọng vào lĩnh vực này Để thỏa mãn đam mê văn chương và tạo không gian học tập phong phú, việc thay đổi tư duy và định kiến trong dạy và học là cần thiết, từ đó cải tiến phương pháp dạy học và cách đánh giá Đây là yếu tố quyết định cho sự phát triển của việc dạy và học văn học.
Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thời đại 13
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình giáo dục phổ thông cần phát triển theo hướng tối đa hóa khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh và rèn luyện các kỹ năng vận dụng tri thức Việc áp dụng các năng lực như năng lực nhận thức, giải quyết vấn đề, hành động, sáng tạo, làm việc nhóm và thích ứng với môi trường là sự lựa chọn cần thiết để đáp ứng xu thế phát triển của xã hội và định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Theo tâm lý của cha mẹ học sinh và dư luận xã hội, họ kỳ vọng ở mỗi con em và công dân sự năng động, nhạy bén, thông minh, có khả năng hiểu biết sâu sắc, không rập khuôn, không trở thành bản sao hay phiên bản có sẵn.
Theo yêu cầu của thị trường lao động hiện nay, mỗi cá nhân, dù là lao động chân tay hay trí óc, cần phải có khả năng tự học và sáng tạo Việc phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân là rất quan trọng, đồng thời cần làm việc dựa trên năng lực của bản thân Hệ thống trả lương cũng cần được điều chỉnh theo vị trí việc làm để khuyến khích sự phát triển và cống hiến của người lao động.
Trong bối cảnh giáo dục hiện nay, việc phát triển năng lực cốt lõi cho học sinh trung học phổ thông trở thành một nhiệm vụ quan trọng Nhiệm vụ này cần được thực hiện đồng bộ ở tất cả các cấp học và môn học, bao gồm cả Ngữ văn Do đó, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá trong giáo dục đã trở thành yêu cầu cấp thiết và cần thiết cho sự phát triển toàn diện của học sinh.
MÔ TẢ GIẢI PHÁP 13
Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 13
1.1 Thực trạng kiểm tra đánh giá học sinh của giáo viên trong môn Ngữ văn
Giải pháp cũ thường làm - “kiểm tra đánh giá nội dung kiến thức”
- GV chủ động trong việc cung cấp kiến thức một cách hệ thống khoa học, bài bản, sâu sắc bài học trong chương trình giáo dục.
Các bài kiểm tra trên giấy thường được tổ chức vào cuối một chủ đề, chương hoặc học kỳ, nhằm đánh giá khả năng tái hiện kiến thức của học sinh Hình thức kiểm tra này không chỉ đơn giản cho giáo viên mà còn giúp học sinh dễ dàng thể hiện hiểu biết của mình.
- Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, chăm ngoan, nghe lời.
- Đảm bảo được chất lượng giáo dục ổn định, an toàn.
Ngày nay, tri thức nhân loại thay đổi nhanh chóng và dễ bị lỗi thời, dẫn đến việc giáo viên ít chú trọng phát triển năng lực học sinh Thay vì khuyến khích sự linh hoạt và sáng tạo, nhiều đề bài chỉ tập trung vào việc tái hiện kiến thức, khiến học sinh không thể hiện được khả năng thực tiễn của mình.
KTĐG thường chú trọng vào việc kiểm tra khả năng ghi nhớ và học thuộc lòng một cách máy móc, dẫn đến tình trạng học tủ và sử dụng văn mẫu Điều này khiến cho việc sao chép tài liệu trong các bài kiểm tra và thi trở nên phổ biến và đơn điệu.
- Việc KTĐG kết quả học tập còn chưa có tác dụng mạnh mẽ kích thích, động viên
Đề thi quá khó có thể khiến học sinh có học lực trung bình cảm thấy chán nản, trong khi đề quá dễ lại dẫn đến sự chủ quan và tâm lý thoả mãn, khiến học sinh không đánh giá đúng khả năng của bản thân.
- Chất lượng giáo dục thiếu bước đột phá, cải tiến.
1.2 Thực trạng bài làm của học sinh trong môn Ngữ văn
Học sinh thường ghi chép bài một cách thụ động, đặc biệt là học sinh khối A, thường có tâm lý "ỷ nại" vào kiến thức mà giáo viên đã cung cấp Điều này dẫn đến việc các em cảm thấy an toàn hơn với kiến thức để phục vụ cho việc thi cử.
- Theo đó, bộ môn Ngữ văn ít hoặc không làm khó HS đạt được mức điểm trung bình
- HS thụ động; thui chột/ làm mất khả năng sáng tạo không hình thành thói quen viết văn sáng tạo.
Thiếu hứng thú và đam mê trong việc học tập là nguyên nhân chính khiến học sinh không đạt hiệu quả cao trong việc viết văn Khi không có niềm đam mê, việc học trở nên khô khan và khó khăn, dẫn đến kết quả học tập không như mong đợi.
- Bài làm của HS học vì thế tẻ nhạt, thiếu sự sinh động, hấp dẫn.
- Thiếu đi những bài viết chạm vào cảm xúc.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, quan niệm và thái độ của cha mẹ học sinh đối với giáo dục, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn, đã chuyển biến mạnh mẽ theo hướng thực dụng Họ ít chú trọng đến giá trị nhân văn của việc học Ngữ văn, mà lại đặt nặng vấn đề điểm số Tâm lý chung của phụ huynh và xã hội thường không mấy tích cực về giờ học Văn, với những ý kiến cho rằng nó nhàm chán, mệt mỏi và không cần thiết, dẫn đến việc nhiều học sinh có thể dễ dàng mượn vở bạn để nắm bắt kiến thức mà không cần nỗ lực tư duy.
1.4 Sự cần thiết đề xuất giải pháp mới trước thực trạng KTĐG trong môn Ngữ văn hiện nay
Để khắc phục những hạn chế trong quá trình kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn, tôi đề xuất giải pháp phát triển năng lực viết sáng tạo cho học sinh thông qua hệ thống câu hỏi nâng cao Giải pháp này sẽ được áp dụng trong các dạng bài nghị luận văn học liên quan đến các tác phẩm truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn 12.
Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 15
2.1 Tìm hiểu chung về KTĐG theo năng lực HS
2.1.1 Khái niệm kiểm tra đánh giá theo năng lực HS
- Kiểm tra: Xem xét việc nắm bắt (hiểu biết) kiến thức của học sinh để đánh giá năng lực, kết quả học tập của học sinh.
Đánh giá là quá trình thu thập và xử lý thông tin một cách hệ thống về hiện trạng, khả năng và nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giáo dục, dựa trên mục tiêu giáo dục Quá trình này cung cấp cơ sở cho các chủ trương, biện pháp và hành động giáo dục tiếp theo.
Chuẩn đánh giá là tiêu chí cụ thể thể hiện mức độ tối thiểu mà người học cần đạt được trong mục tiêu giáo dục Việc xác định chuẩn đánh giá không chỉ giúp định hình nội dung và hình thức kiểm tra, mà còn là cơ sở để đo lường khả năng nhận thức và ứng dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh.
2.1.2 Vai trò của kiểm tra, đánh giá và những vấn đề đổi mới kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra và đánh giá là công cụ quan trọng giúp giáo viên nắm bắt tình hình học tập của học sinh, từ đó có cơ sở thực tiễn để đánh giá kết quả học tập Qua quá trình này, giáo viên có thể phát hiện những thiếu sót trong kỹ năng và kiến thức của học sinh, giúp họ có biện pháp khắc phục kịp thời.
Kiểm tra và đánh giá giúp giáo viên nhận diện những ưu điểm và hạn chế trong công tác giáo dục, từ đó áp dụng các biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục.
Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập giúp học sinh nhận thức rõ hơn về khả năng của bản thân Qua đó, học sinh có thể xác định những điểm yếu cần cải thiện để nâng cao hiệu quả học tập, đồng thời nhận ra những điểm mạnh để phát triển sự tự tin trong quá trình học.
Kiểm tra và đánh giá không chỉ là công cụ để đo lường kiến thức mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng và đạo đức cho học sinh Qua quá trình này, học sinh có cơ hội phát triển lòng tin, ý chí quyết tâm, sự trung thực, tinh thần tập thể và ý thức giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
* Đối với các cấp quản lí:
Kiểm tra đánh giá là công cụ quan trọng giúp các nhà quản lý đánh giá mức độ đạt được của học sinh so với mục tiêu môn học Qua đó, họ có thể điều chỉnh các hoạt động chuyên môn và hỗ trợ cần thiết nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Kiểm tra và đánh giá là công cụ quan trọng giúp các cơ quan quản lý giáo dục nhận diện ưu điểm và hạn chế của chương trình học cũng như sách giáo khoa, từ đó thực hiện các điều chỉnh cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Kiểm tra đánh giá giúp cho nhà trường có cơ sở để tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, cha mẹ học sinh.
2.2 Những vấn đề đổi mới trong kiểm tra, đánh giá
2.2.1 Đổi mới mục tiêu đánh giá
Giai đoạn Chương trình và sách giáo khoa trước đây
Chương trình và sách giáo khoa hiện nay
Quan tâm tới kiến thức mà học sinh thu lượm được sau mỗi bài học, mỗi chương, mỗi học kì, mỗi năm
Kiến thức là cần thiết nhưng kĩ năng cũng rất quan trọng hơn Coi trọng kĩ năng của học sinh là điểm mới của mục tiêu giáo dục
2.2.2 Đổi mới mục đích kiểm tra, đánh giá
Chương trình và sách giáo khoa trước đây
Chương trình và sách giáo khoa hiện nay
Mục đích của kiểm tra, đánh giá
Nhằm xác định kết quả học tập của học sinh để đánh giá quá trình phấn đấu học tập của học sinh.
Bên cạnh mục đích truyền thống, hiện nay còn có thêm mục tiêu cung cấp thông tin phản hồi về quá trình dạy - học, chương trình, sách giáo khoa, nội dung và phương pháp giảng dạy Điều này giúp giáo viên và các cơ quan chức năng điều chỉnh phù hợp, đáp ứng yêu cầu giáo dục của thời đại mới.
2.2.3 Đổi mới công cụ đánh giá
Công cụ đánh giá: Công cụ đánh giá được hiểu là các phương tiện, kĩ thuật, phương pháp dùng để đánh giá
Chương trình và sách giáo khoa trước đây
Chương trình và sách giáo khoa hiện nay
Công cụ đánh giá chủ yếu
- Các loại bài kiểm tra trắc nghiệm tự luân từ 15 phút trở lên
- Các bài kiểm tra viết từ 15 phút trở lên với các hình thức kiểm tra + Trắc nghiệm tự luận
+ Trắc nghiệm khách quan + Kết hợp trắc nghiệm tự luận với trắc nghiệm khác quan
2.2.4 Đổi mới cách đánh giá
Chương trình và sách giáo khoa trước đây
Chương trình và sách giáo khoa hiện nay
-Đó là các kiểu đánh giá: đánh giá thường xuyên qua các câu hỏi kiểm tra, các loại bài kiểm tra.
Cách đánh giá này thực chất là khá toàn diện và hợp lí nhưng chỉ ở phương diện lí thuyết.
-Chỉ có giáo viên đánh giá học sinh.
-Đánh giá khả năng của cá thể học sinh. Đổi mới cách đánh giá ở các khâu, yếu tố như sau:
- Đưa câu hỏi trắc nghiệm vào kiểm tra kiến thức (bổ sung thêm hình thức kiểm tra).
- Ngoài đánh giá kiến thức lí thuyết còn đánh giá cả kĩ năng thực hành.
- Học sinh cùng tham gia vào quá trình đánh giá (nhận xét, đánh giá bài của bạn.
- Đánh giá bài thực hành của cả nhóm, đánh giá năng lực hợp tác của học sinh khi được giáo viên giao bài.
Chuẩn đánh giá là mức tối thiểu mà người học cần đạt được trong quá trình học tập, phản ánh mục tiêu giáo dục cụ thể Chuẩn này được xây dựng cho từng đơn vị kiến thức, phân môn, lớp học và cấp học khác nhau, với mỗi cấp độ quy định những kiến thức cơ bản và kỹ năng tối thiểu cần thiết Sự kết hợp giữa kiến thức và kỹ năng là điểm mới nổi bật trong chuẩn đánh giá.
Khi mới đổi mới chương trình chuẩn đánh giá dựa trên lí thuyết của B.S Bloom nên được chia làm 6 cấp độ (bậc) từ thấp đến cao như sau:
Hiện nay người ta vận dụng lí thuyết Nikko của Nhật và chia thành 4 bậc đánh giá là: Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Vận dụng cao
Cấp độ Mô tả (biểu hiện)
Nhận biết Học sinh nhớ các khái niệm cơ bản, có thể nêu lên hoặc nhận ra chúng khi được yêu cầu.
Học sinh nắm vững các khái niệm cơ bản và có khả năng áp dụng chúng khi được trình bày theo những cách tương tự như phương pháp giảng dạy của giáo viên hoặc các ví dụ điển hình được thảo luận trong lớp học.
Học sinh có thể hiểu được khái niệm ở một cấp độ cao hơn
"Thấu hiểu" là khả năng tạo ra sự liên kết logic giữa các khái niệm cơ bản, từ đó vận dụng chúng để tổ chức lại thông tin đã được trình bày, tương tự như nội dung trong bài giảng của giáo viên hoặc sách giáo khoa.
Học sinh có khả năng áp dụng các khái niệm từ môn học để giải quyết những vấn đề mới, khác biệt so với nội dung trong sách giáo khoa Những vấn đề này liên quan đến các tình huống thực tế mà học sinh sẽ đối mặt trong xã hội, và việc giải quyết chúng đòi hỏi kỹ năng cùng kiến thức đã được giảng dạy ở mức độ nhận thức.
2.3 Những cơ sở xác định vấn đề được đề cập đến trong phần nhận xét nâng cao
Để giúp học sinh thực hiện tốt các câu hỏi nâng cao trong bài nghị luận văn học về các văn bản truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình THPT, giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá.
2.3.1 Căn cứ vào vai trò của đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn
Trong 6 - 7 năm qua, Bộ GD&ĐT đã tiến hành đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển năng lực học sinh Bài kiểm tra Ngữ văn hiện nay tập trung vào khả năng đọc hiểu và viết, thay vì chỉ nhớ và sao chép Chương trình Giáo dục phổ thông 2006 đã tạo điều kiện cho việc đổi mới đánh giá theo yêu cầu của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, nhấn mạnh việc cần thiết phải thay đổi cấu trúc đề, cách đặt câu hỏi và độ khó của bài kiểm tra Việc sử dụng ngữ liệu phù hợp giúp đánh giá chính xác năng lực của học sinh, đồng thời khắc phục tình trạng học thuộc lòng và sao chép tài liệu, từ đó nâng cao khả năng đọc hiểu, phân tích và cảm thụ tác phẩm văn học.