KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VÀ THỎA ƢỚC LAO ĐỘNG TẬP THỂ 1.1.Quá trình hình thành và phát triển của tổ chức Công đoàn
Tổ chức Công đoàn thế giới
Công đoàn đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới, gắn liền với sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân qua các thời kỳ lịch sử Phong trào Công đoàn toàn cầu đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau.
Giai đoạn giai cấp vô sản ra đời cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản (1566 - 1917)
Nửa cuối thế kỷ XVII, các quốc gia phong kiến ở Châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Nga và Hà Lan rơi vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, khiến nhân dân bị bóc lột đến mức cùng cực Tình trạng này dẫn đến sự gia tăng mâu thuẫn trong xã hội phong kiến Tây Âu, tạo điều kiện cho các cuộc cách mạng tư sản bùng nổ, điển hình là ở Anh từ năm 1640 đến 1660, Mỹ từ năm 1773 đến 1783, và Pháp.
Giai đoạn từ năm 1789 đến 1794 đã đánh dấu sự thiết lập quyền lực của giai cấp tư sản, với phương thức sản xuất tư bản thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến Tuy nhiên, đây chỉ là một hình thức bóc lột mới, với giai cấp vô sản trở thành đối tượng bị bóc lột chính Trong thời kỳ này, giai cấp vô sản chưa phát triển mạnh mẽ, mà chỉ có sự tổ chức ban đầu Sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng của giai cấp này chỉ diễn ra khi cách mạng công nghiệp bắt đầu.
Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh và lan rộng sang các quốc gia như Mỹ, Đức, Pháp, mang đến những phát minh quan trọng như máy kéo sợi, máy hơi nước và máy dệt Những phát minh này đã làm tăng năng suất lao động một cách nhanh chóng, nhưng cũng dẫn đến sự phân hóa giai cấp rõ rệt trong xã hội Nhiều nhà sản xuất nhỏ, tiểu thương và tiểu công nghiệp không đủ vốn để đầu tư vào máy móc và nhà xưởng, từ đó bị phá sản và trở thành người làm thuê cho các nhà tư bản lớn Điều này đã tạo ra giai cấp vô sản, một giai cấp đối lập hoàn toàn với giai cấp tư sản.
Nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, như đường sắt, xe lửa và tàu thủy Các chính sách kinh tế của giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản gắn bó và kết nối với nhau hơn Tuy nhiên, sự giàu có của tư sản ngày càng gia tăng đồng nghĩa với việc giai cấp vô sản phải chịu đựng sự bóc lột nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng bần cùng hóa.
4 cùng hóa và mâu thuẫn giữa hai giai cấp này ngày càng đối kháng gay gắt đến mức không thể điều hòa đƣợc
Giai cấp vô sản đã bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại áp bức và bóc lột, từ những cuộc đấu tranh nhỏ lẻ, rời rạc, dần dần phát triển thành những cuộc đấu tranh quy mô hơn Qua quá trình đấu tranh, giai cấp công nhân nhận ra sự cần thiết phải thành lập một tổ chức thống nhất để bảo vệ quyền lợi của mình, dẫn đến việc xây dựng tổ chức quần chúng - Công đoàn, nhằm hướng tới việc hình thành tổ chức chính trị là Đảng tiền phong của giai cấp công nhân Công đoàn đầu tiên được thành lập tại Anh vào năm 1776, với mục tiêu đòi hỏi tăng lương và giảm giờ làm, sau đó các tổ chức Công đoàn tương tự cũng được hình thành ở nhiều quốc gia khác như Mỹ (1827) và Pháp.
Ngày 28/9/1864, Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (Quốc tế thứ nhất) ra đời như tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân, đoàn kết các lực lượng vô sản châu Âu và châu Mỹ Quốc tế thứ nhất đã truyền bá chủ nghĩa Mác, lãnh đạo phong trào công nhân thế giới với các mục tiêu như thực hiện ngày làm 8 giờ, hạn chế lao động trẻ em và bảo vệ lao động phụ nữ Đồng thời, tổ chức cũng nhấn mạnh nhiệm vụ lâu dài của giai cấp công nhân là đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chuyên chính vô sản Để đạt được điều này, cần thành lập Công đoàn rộng khắp và chính Đảng vô sản Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác, phong trào công nhân ngày càng được củng cố, khiến Quốc tế thứ nhất trở thành trung tâm lãnh đạo phát triển của Cách mạng thế giới.
Những năm cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh ở các nước Âu -
Mỹ đang dần chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, đồng thời phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng phát triển Trước tình hình này, vào ngày 14/7/1889, Quốc tế II được thành lập nhằm thống nhất phong trào công nhân, công đoàn và cộng sản quốc tế.
Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 đã mang lại quyền lực cho nhân dân và đánh dấu sự ra đời của Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, khẳng định sự thành công của giai cấp vô sản và chủ nghĩa Mác - Lênin Sự kiện này mở ra con đường cách mạng vô sản cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản và nhân dân các nước thuộc địa, đồng thời thúc đẩy các dân tộc bị áp bức đứng lên để tự giải phóng.
Trường Đại học Công đoàn đã xuất bản giáo trình "Lịch sử phong trào công nhân, Công đoàn thế giới và Việt Nam" do Nguyễn Viết Vượng làm chủ biên, được phát hành bởi Nxb Lao động Hà Nội vào năm 2011, trang 46.
5 phóng Từ đây phong trào công nhân và Công đoàn thế giới chuyển sang giai đoạn mới
Giai đoạn chủ nghĩa tƣ bản khủng hoảng, phong trào cách mạng vô sản trên thế giới phát triển mạnh mẽ (1917 - 1975)
Cách mạng tháng Mười Nga đã lật đổ bộ máy Nhà nước của giai cấp bóc lột, thiết lập Nhà nước XHCN và nền chuyên chính vô sản, đưa giai cấp công nhân Nga trở thành chủ nhân của đất nước Họ đã tích cực thi đua lao động sản xuất nhằm bảo vệ Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới Sự phát triển của giai cấp công nhân cũng đồng nghĩa với sự chuyển biến mạnh mẽ của tổ chức Công đoàn Liên Xô Lênin nhấn mạnh rằng Công đoàn là một phần của hệ thống chuyên chính vô sản, là tổ chức quần chúng lớn mạnh của giai cấp công nhân, đóng vai trò là chỗ dựa vững chắc và là cầu nối giữa Đảng và quần chúng.
Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ mang lại thắng lợi vĩ đại cho Liên Xô mà còn tạo ra ảnh hưởng sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và Công đoàn ở nhiều nước như Đức, Anh, Pháp, Hungary, cũng như các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ Ngày 2/3/1919, Quốc tế Ba (Quốc tế Cộng sản) được thành lập tại Moskva, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới, bao gồm Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào tháng 7 năm 1920, sự ra đời của Hội đồng quốc tế công thương nghiệp (sau này được gọi là Công hội đỏ quốc tế) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phong trào công nhân và Công đoàn toàn cầu Tổ chức này đã hướng dẫn các Công đoàn quốc gia trong việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với Đảng, đồng thời đấu tranh để bảo vệ sự đoàn kết giữa những người lao động và các tổ chức Công đoàn trên thế giới.
Sau chiến thắng của Hồng quân Liên Xô, Thế chiến thứ hai kết thúc vào năm 1975, dẫn đến sự hình thành và phát triển của hệ thống các nước XHCN Trong bối cảnh này, phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ mạnh mẽ, đồng thời phong trào công nhân và Công đoàn cũng có những bước phát triển đáng kể Nhiều Công đoàn mới được thành lập, bao gồm Công đoàn quốc gia và Công đoàn các nước XHCN, cùng với sự ra đời của các tổ chức quốc tế như Liên hiệp Công đoàn thế giới (WFTU), Liên hiệp quốc tế các Công đoàn tự do (ICFTU) và Liên đoàn lao động thế giới (WCL).
Trường Đại học Công đoàn đã xuất bản giáo trình "Lịch sử phong trào công nhân, Công đoàn thế giới và Việt Nam" do Nguyễn Viết Vượng chủ biên, phát hành bởi Nxb Lao động Hà Nội vào năm 2011, trang 93.
6 thành một lực lượng quan trọng trong đời sống xã hội loài người, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại
Tổ chức Công đoàn Việt Nam
Giai đoạn giai cấp công nhân Việt Nam ra đời đến khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa:
Trước thế kỉ XV, Việt Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp trồng lúa nước và thủ công nhỏ lẻ, với nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển và chưa có giai cấp công nhân Tuy nhiên, trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp từ 1897 đến 1914, họ đã khai khẩn đất hoang và xây dựng các khu công nghiệp cùng hạ tầng tại Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Hòn Gai, dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của giai cấp công nhân Giai đoạn khai thác thuộc địa lần thứ hai từ 1918 đến 1930, thực dân Pháp gia tăng bóc lột nhân dân để bù đắp tổn thất chiến tranh, khiến các đô thị và trung tâm công nghiệp tại Việt Nam hình thành với đông đảo công nhân Nhiều công nhân đã đứng lên đấu tranh để thoát khỏi chế độ phong kiến và sự bóc lột dã man của thực dân.
Công đoàn Việt Nam ra đời dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị và văn hóa của các nước tiến bộ trên thế giới, nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động Sự hình thành của Công đoàn không chỉ phục vụ cho lợi ích của NLĐ mà còn gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Năm 1921, Tôn Đức Thắng đã thành lập Công hội Ba Son tại Nam Kỳ, đánh dấu sự khởi đầu quan trọng trong phong trào công nhân Bên cạnh đó, Liên đoàn công nhân lái tàu tại các bến Viễn Đông (Hải Viên Công hội) cũng được thành lập và hoạt động bí mật, nhưng vẫn duy trì mối liên hệ chặt chẽ với công nhân lao động.
Công Hội đỏ (Bắc kỳ) được hình thành và phát triển dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, người đã đặt nền tảng cho các tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là Công đoàn Việt Nam Sau thời gian tham gia Công đoàn Hải ngoại Anh từ 1914 đến 1917 và Công đoàn cơ khí Pháp vào cuối năm 1917, vào năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã hướng dẫn Nguyễn Tạo thành lập Công đoàn thủy thủ Việt Nam tại Mác-xây.
Vào tháng 6 năm 1925, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nơi Người trực tiếp giảng dạy và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho giai cấp công nhân Việt Nam Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Người đã nêu rõ nhiệm vụ và tính chất của Công hội, bao gồm việc tạo điều kiện cho công nhân giao lưu, nghiên cứu, cải thiện đời sống, bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ quốc dân cũng như thế giới.
Từ năm 1928, phong trào công nhân và hoạt động Công hội phát triển sôi nổi, nhiều tổ chức Công đoàn ra đời ở cả Bắc kỳ và Trung kỳ
Vào ngày 28 tháng 7 năm 1929, Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng đã quyết định tổ chức Hội nghị đại biểu Tổng Công hội Bắc Kỳ lần thứ nhất tại một địa điểm cụ thể.
Vào ngày 14/8/1929, tại 15 phố Hàng Nón, Hà Nội, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập, với chương trình và điều lệ được thông qua trong Hội nghị Tờ báo Lao động, do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và Trần Học Hải phụ trách, đã được xuất bản số đầu tiên Kể từ khi ra đời, Tổng Công hội đỏ đã phát triển mạnh mẽ, hoạt động rộng rãi và trở thành tổ chức đại diện cho giai cấp công nhân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1931, thực dân Pháp gia tăng đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam, làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Công hội và phong trào công nhân trở nên khó khăn Tình hình này càng nghiêm trọng hơn khi đất nước đang đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Trong bối cảnh 80.000 công nhân thất nghiệp và giảm lương, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, phong trào cách mạng đã dần phục hồi dưới sự lãnh đạo của Đảng và Công hội Từ năm 1936 đến 1939, Công hội đỏ đổi tên thành Hội ái hữu và hoạt động bán công khai để đòi tự do nghiệp đoàn và dân chủ dân sinh Tuy nhiên, vào ngày 28/9/1939, thực dân Pháp đã ra sắc lệnh giải tán Hội ái hữu và thực hiện nhiều chính sách cưỡng bức lao động Để đối phó, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, nhằm lật đổ chính quyền thực dân và đấu tranh giành độc lập cho dân tộc Dù Hội ái hữu bị giải tán, phong trào bãi công của công nhân vẫn diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến các cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang chống phát xít, phong kiến, góp phần vào việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945, mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1946 đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
Ngày 20/6/1946, Hội nghị Cán bộ Công đoàn cứu quốc toàn quốc đã đổi tên
Hội công nhân cứu quốc đã chuyển đổi thành Công đoàn và thành lập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Từ năm 1946 đến 1954, trong bối cảnh toàn quốc kháng chiến, Công đoàn Việt Nam đã tích cực vận động người dân tham gia sản xuất và chiến đấu, với mục tiêu gắn liền với công cuộc sản xuất của công nhân Đặc biệt, vào tháng 1/1949, Công đoàn Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Liên hiệp Công đoàn thế giới, đánh dấu lần đầu tiên tổ chức này hoạt động công khai trong lịch sử phát triển của mình.
Từ ngày 1/1/1950 đến 15/1/1950, Đại hội lần thứ nhất Công đoàn Việt Nam đã họp tại chiến khu Việt Bắc, xác định nhiệm vụ mới cho giai cấp công nhân và Công đoàn trong công cuộc kháng chiến Bắt đầu từ năm 1951, Công đoàn Việt Nam tích cực mở rộng các hoạt động quốc tế nhằm thu hút sự ủng hộ từ phong trào công nhân và Công đoàn toàn cầu, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết Công đoàn lúc này có nhiệm vụ vận động nhân dân tham gia sản xuất nhằm khôi phục kinh tế và văn hóa ở miền Bắc Ngày 5/11/1957, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 108-SL/L10 về Bộ luật Công đoàn Trong khi đó, miền Nam chịu sự tàn phá của Mỹ - Diệm và bè lũ tay sai, họ ra sức chống cộng và ngăn cản hoạt động của nghiệp đoàn, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước.
Công đoàn ở miền Nam phải hoạt động bí mật, tìm cách phát triển lực lƣợng và tiếp tục chiến đấu
Từ ngày 23 đến 27 tháng 2 năm 1961, Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ hai diễn ra tại Hà Nội, đánh dấu sự chuyển đổi tên gọi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam Nhiệm vụ chính của tổ chức này là vận động công nhân lao động tham gia thi đua sản xuất và chiến đấu Các công đoàn cấp cơ sở thường xuyên tổ chức tọa đàm nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, khuyến khích công nhân các ngành cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, cải thiện tình hình kinh tế miền Bắc và tiếp tục hỗ trợ miền Nam.
Từ ngày 11/2 - 14/2/1974, Đại hội lần thứ ba Công đoàn Việt Nam đã họp tại
Hà Nội đã đề ra nhiệm vụ và mục tiêu mới trong bối cảnh kinh tế miền Bắc phục hồi và phát triển nhanh chóng, hỗ trợ miền Nam Tại miền Nam, phong trào công nhân lao động phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã hoàn toàn giải phóng miền Nam, dẫn đến sự thống nhất đất nước.
Giai đoạn từ năm 1975 đến nay:
Kể từ khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng, vai trò và nhiệm vụ của Công đoàn ngày càng trở nên quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thích ứng với tình hình kinh tế xã hội mới Công đoàn Việt Nam đã trải qua nhiều kỳ đại hội tại Hà Nội, mỗi kỳ đại hội phản ánh rõ nét vai trò và nhiệm vụ của Công đoàn trong từng giai đoạn lịch sử, như Đại hội IV (1978), Đại hội V (1983), Đại hội VI (1988), Đại hội VII (1993), Đại hội VIII (1998), Đại hội IX (2003) và Đại hội X (2008) Đặc biệt, Đại hội VI đã đánh dấu sự chuyển đổi tên từ “Tổng Công đoàn Việt Nam” thành “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam”, sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của giai cấp công nhân và người lao động, đồng thời thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và đặt nền tảng lý luận cho sự đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức của Công đoàn Việt Nam
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội quan trọng của giai cấp công nhân và người lao động, được thành lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ Các hoạt động nội bộ như cơ cấu tổ chức, thu đoàn phí, xét tư cách đoàn viên và nhiệm kỳ của Công đoàn cơ sở đều do các thành viên quyết định Cơ cấu tổ chức của Công đoàn được hình thành từ sự điều chỉnh nội bộ, chủ yếu dựa trên Điều lệ Công đoàn Theo Điều 8 của Điều lệ Công đoàn Việt Nam, được thông qua tại Đại hội đại biểu Công đoàn toàn quốc lần thứ X vào ngày 5/11/2008, quy định rõ ràng về cơ cấu tổ chức của Công đoàn.
“Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức thống nhất có các cấp cơ bản sau đây:
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Liên đoàn lao động tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, cùng với Công đoàn ngành trung ương và Công đoàn tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Công đoàn cấp trên cơ sở
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn.”
Công đoàn Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các cấp Công đoàn Sự chỉ đạo của Công đoàn cấp trên là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của Công đoàn cấp dưới Ngược lại, nếu Công đoàn cấp dưới hoạt động hiệu quả, điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả chung của toàn hệ thống Công đoàn.
Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi của người lao động (NLĐ) trong quan hệ lao động Công đoàn cơ sở (CĐCS) là cầu nối gần gũi nhất với NLĐ, nơi trực tiếp thu thập thông tin, ý kiến và nguyện vọng của họ Từ đó, CĐCS có thể đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ một cách hiệu quả nhất.
Theo Điều 188 Bộ luật Lao động 2012, tại những nơi chưa có tổ chức Công đoàn cơ sở, Công đoàn cấp trên trực tiếp sẽ thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền lợi và chăm lo đời sống cho người lao động Điều này khẳng định rằng, theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, tổ chức Công đoàn là đại diện duy nhất của người lao động trong việc bảo vệ quyền lợi và cải thiện đời sống.
Nghiên cứu cơ cấu tổ chức của Công đoàn là rất quan trọng trong việc hiểu biết về pháp luật lao động, vì hoạt động của Công đoàn trong việc bảo vệ người lao động (NLĐ) phải dựa trên một hệ thống tổ chức nhất định Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức này giúp xác định quyền hạn của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ.
Tính chất và vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức Công đoàn Việt Nam
1.3.1 Tính chất và vị trí
Tổ chức Công đoàn có những tính chất đặc trưng và ổn định, thể hiện rõ nét qua từng giai đoạn phát triển của nó.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội tự nguyện của công nhân theo nghề nghiệp, có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của giai cấp công nhân Việc thành lập hoặc tham gia Công đoàn hoàn toàn do người lao động tự nguyện quyết định, thể hiện tính giai cấp và tính quần chúng của tổ chức này.
Công đoàn là tổ chức đại diện cho giai cấp công nhân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Công đoàn ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của giai cấp công nhân, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện bản chất giai cấp của tổ chức này.
Công đoàn thể hiện tính quần chúng qua việc cán bộ Công đoàn xuất thân từ đông đảo người lao động, được bầu ra bởi tập thể Hoạt động của Công đoàn nhằm đáp ứng nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của người lao động, đồng thời thu hút đông đảo công nhân, lao động và viên chức tham gia Mục tiêu là xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng đông về số lượng và mạnh về chất lượng, từ đó bảo vệ quyền lợi của người lao động hiệu quả hơn.
Tính giai cấp và tính quần chúng của Công đoàn đóng vai trò quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tổ chức Công đoàn.
Vị trí của Công đoàn trong hệ thống chính trị - xã hội phản ánh mối quan hệ của Công đoàn với các tổ chức khác, thể hiện vai trò và sự ảnh hưởng của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Công đoàn có vai trò quan trọng trong từng giai đoạn phát triển của xã hội, từ việc liên kết công nhân chống lại áp bức và đòi quyền lợi kinh tế, đến việc hỗ trợ đấu tranh giành độc lập Trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội, Công đoàn không chỉ là tổ chức xã hội mà còn là tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của người lao động, đồng thời là cầu nối giữa Đảng và quần chúng, góp phần cải thiện đời sống người lao động và bảo vệ Tổ quốc.
Công đoàn là tổ chức xã hội được hình thành từ sự đồng lòng của người lao động (NLĐ), với quyền tự do tham gia hoặc không tham gia vào tổ chức này, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 5 BLLĐ 2012 Công đoàn có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân và NLĐ Việt Nam Là thành viên của hệ thống chính trị và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, giáo dục và rèn luyện đội ngũ giai cấp công nhân, đồng thời là chỗ dựa vững chắc cho Đảng, kết nối Đảng với quần chúng và hỗ trợ Nhà nước thực hiện chức năng của mình.
Công đoàn Việt Nam được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam công nhận với vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của công nhân, viên chức và người lao động Cụ thể, Điều 10 Hiến pháp 1992 xác định Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Nhà nước và tổ chức kinh tế để chăm lo quyền lợi cho người lao động Ngoài ra, theo Điều 1 Luật Công đoàn 2012, Công đoàn cũng đóng vai trò trong việc tham gia quản lý Nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và giáo dục người lao động trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xã hội giai cấp công nhân và người lao động tại Việt Nam được hình thành dựa trên nguyên tắc tự nguyện, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị của đất nước.
4 Quý Long - Kim Thƣ, “Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn”, Chính sách thiết yếu dành cho NLĐ
- Vai trò, phương hướng hoạt động của tổ chức CĐCS, Nxb Lao động, 2013, tr 135
Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và người lao động, phối hợp với cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động Đảng tham gia vào quản lý Nhà nước và kinh tế - xã hội, đồng thời thực hiện thanh tra, kiểm tra các hoạt động của cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Ngoài ra, Đảng còn tuyên truyền, vận động người lao động nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại Công đoàn vừa là một tổ chức xã hội vừa là một tổ chức chính trị
1.3.2 Vai trò và chức năng
Công đoàn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các thành viên của mình và thiết lập mối quan hệ với các đối tác như Nhà nước và Nhà sử dụng lao động Qua đó, Công đoàn không chỉ nâng cao quyền lợi cho người lao động mà còn góp phần phát triển xã hội một cách bền vững.
Vai trò của tổ chức Công đoàn được xác định bởi vị trí của nó trong từng thời kỳ, luôn thể hiện sự đại diện và bảo vệ quyền lợi của người lao động Trong giai đoạn chưa giành được chính quyền, Công đoàn đóng vai trò như một trường học cho cuộc đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc, tổ chức công nhân đứng lên chống lại áp bức và bóc lột Các cuộc đấu tranh của Công đoàn không ngừng phát triển, chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, với mục tiêu lật đổ chế độ bóc lột và giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong bối cảnh nền kinh tế hàng hóa đa dạng hiện nay, vai trò của Công đoàn ngày càng trở nên quan trọng hơn Quan hệ lao động chủ yếu là làm công ăn lương, trong đó người sử dụng lao động (NSDLĐ) thường nắm giữ quyền lực kinh tế và có xu hướng chèn ép người lao động (NLĐ), những người thường ở thế yếu do áp lực về việc làm và cuộc sống Do đó, Công đoàn có vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, điều này được thể hiện rõ trong Điều 10 của Hiến pháp 1992 và Điều 1 của Luật Công đoàn 2012.
Chức năng của Công đoàn được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu của Công đoàn 6
Công đoàn có vai trò và chức năng gắn bó chặt chẽ với nhau, với tính chất và vị trí của nó quyết định rõ ràng các chức năng mà Công đoàn thực hiện.
5 Nguyễn Hữu Chí, “Công đoàn và vấn đề đại diện tập thể lao động”, Giáo trình Luật lao động Việt Nam,
Lưu Bình Nhưỡng (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội - 2012, tr 150
6 Nguyễn Hữu Chí, “Công đoàn và vấn đề đại diện tập thể lao động”, Giáo trình Luật lao động Việt Nam,
Lưu Bình Nhưỡng (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội - 2012, tr.154
14 khi thực hiện tốt chức năng của Công đoàn làm cho vai trò của Công đoàn ngày càng đƣợc củng cố hơn Chức năng của Công đoàn bao gồm:
Chức năng thứ nhất: đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân và NLĐ
Đối thoại xã hội và tầm quan trọng của cơ chế ba bên trong quan hệ lao động
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa đối thoại xã hội là mọi hình thức thương lượng và trao đổi thông tin giữa đại diện chính phủ, nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) về các vấn đề liên quan đến lợi ích chung trong chính sách kinh tế và xã hội.
Trong quan hệ lao động, mâu thuẫn giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) là điều không thể tránh khỏi, do NLĐ bán sức lao động và NSDLĐ mua sức lao động Mặc dù bên bán có thể bị chèn ép, nhưng mối quan hệ này không hoàn toàn đối kháng, bởi vì cả hai bên đều cần hợp tác để đạt được lợi ích chung Khi doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, quyền lợi của NLĐ sẽ được đảm bảo Do đó, thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) là vấn đề quan trọng mà cả hai bên đều quan tâm.
“Đối thoại xã hội” xuất hiện dưới nhiều thuật ngữ như “đối tác xã hội”, “thương lượng tập thể”, và “hợp tác xã hội” Dù được gọi bằng tên nào, các thuật ngữ này đều mang ý nghĩa tương đồng và phản ánh bản chất của sự tương tác trong xã hội.
15 Điều 17 Luật Công đoàn 2012, Điều 10 Luật Công đoàn 2012, Khoản 1 Điều 13 Nghị định 43/2013/NĐ-
Nghị định CP quy định chi tiết thi hành Điều 10 của Luật Công đoàn nêu rõ quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, đồng thời thúc đẩy mối quan hệ lao động công bằng và hợp tác giữa người sử dụng lao động và NLĐ.
16 http://www2.asetuc.org/media/03c%20(VIE)%20Presentation%20of%20Prof%20Mar%20S%20V%20Ama nte%201.pdf
Đối thoại xã hội là khái niệm quan trọng trong quan hệ lao động, thể hiện nguyên tắc công bằng và dân chủ giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) Nó bao gồm nhiều hình thức như tham vấn, thương lượng tập thể, ký kết thỏa ước tập thể, và sự tham gia của đại diện NLĐ vào quản lý doanh nghiệp Đối thoại xã hội không chỉ tập trung vào lợi ích của các bên mà còn tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả thông qua sự tham gia của cả hai bên hoặc ba bên.
Theo Khoản 1 Điều 73 BLLĐ 2012, TƯLĐTT là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và NSDLĐ về các điều kiện lao động đã đạt được qua thương lượng tập thể TƯLĐTT không chỉ là một hình thức đối thoại xã hội mà còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường Đối thoại xã hội giúp tạo sự hiểu biết giữa NLĐ và NSDLĐ, từ đó thỏa thuận về lợi ích chung, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định, đảm bảo công bằng cho cả hai bên Điều này góp phần thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển hiệu quả Đối thoại xã hội trong lĩnh vực lao động chủ yếu diễn ra qua hai cơ chế: cơ chế ba bên và cơ chế hai bên.
Theo TS Đào Thị Hằng, cơ chế ba bên là sự phối hợp giữa chính phủ, đại diện người lao động và đại diện nhà sử dụng lao động Các bên này hoạt động độc lập và bình đẳng, cùng nhau tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề lao động và xã hội mà họ đều quan tâm và nỗ lực giải quyết.
Cơ chế hai bên là quá trình thiết lập sự hợp tác trực tiếp giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) hoặc các tổ chức đại diện của họ, nhằm khuyến khích và tán thành các thỏa thuận Hình thức hợp tác này được xây dựng dựa trên nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, thể hiện qua các hoạt động như đối thoại, thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT).
17 Trần Hoàng Hải, “Khái quát về pháp luật lao động Việt Nam”, Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Trần
Hoàng Hải (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM, 2011, tr 55
Pháp luật lao động Việt Nam được trình bày một cách tổng quan trong giáo trình của Trần Hoàng Hải, nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản về các quy định và nguyên tắc liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động cũng như người sử dụng lao động Tài liệu này không chỉ giúp sinh viên nắm bắt kiến thức pháp lý mà còn hỗ trợ trong việc áp dụng các quy định lao động vào thực tiễn.
19 Trần Hoàng Hải, “Khái quát về pháp luật lao động Việt Nam”, Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Trần
Hoàng Hải (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM, 2011, tr 61
20 Đào Thị Hằng, “Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao động Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2005, tr 44
21 Lê Thị Hoài Thu, “Cơ chế ba bên - Những vấn đề đặt ra trong pháp luật lao động Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 5/2008, tr 21-29
Cơ chế ba bên bao gồm đại diện của người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan Nhà nước, trong khi cơ chế hai bên là một phần của cơ chế ba bên Khi đề cập đến cơ chế ba bên, chúng ta hiểu rằng đây là khái niệm rộng, bao gồm cả cơ chế hai bên và cơ chế ba bên theo nghĩa hẹp.
Nhƣ vậy định nghĩa của ILO về đối thoại xã hội nhƣ đã trình bày ở trên đƣợc hiểu là đồng nghĩa với cơ chế ba bên
Trong quan hệ lao động, mâu thuẫn giữa NSDLĐ và NLĐ là điều không thể tránh khỏi, do đó, việc hợp tác và thương lượng giữa hai bên cần được chú trọng để cân bằng lợi ích và xây dựng quan hệ lao động tốt đẹp Sự hình thành và phát triển cơ chế ba bên tại Việt Nam là rất cần thiết, tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện tại chỉ quy định gián tiếp về cơ chế này thông qua các điều luật liên quan đến thương lượng, ký kết TƢLĐTT, xây dựng thang bảng lương, giải quyết tranh chấp lao động và quản lý Nhà nước về lao động, mà chưa có định nghĩa rõ ràng về đối thoại xã hội và cơ chế ba bên BLLĐ 2012 và Luật Công đoàn 2012 cũng chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về cơ chế ba bên, nhưng BLLĐ 2012 đã dành một mục để quy định về đối thoại xã hội, nhằm chia sẻ thông tin và tăng cường hiểu biết giữa NLĐ và NSDLĐ, từ đó hỗ trợ cho việc thương lượng và ký kết TƢLĐTT hiệu quả hơn Qua đó, pháp luật Việt Nam đã bước đầu thừa nhận cơ chế ba bên thông qua các quy định về đối thoại xã hội.
Khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, pháp luật Việt Nam cần có quy định cụ thể để phù hợp với thực tế, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến và tổ chức lao động quốc tế (ILO) Điều này nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định trật tự xã hội và tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
22 Nguyễn Xuân Thu, “Cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 120, tháng
Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của thỏa ƣớc lao động tập thể
1.5.1 Khái niệm thỏa ước lao động tập thể Ở thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan hệ lao động đƣợc thiết lập trên cơ sở mệnh lệnh hành chính, Nhà nước là chủ sở hữu lao động, Giám đốc doanh nghiệp cũng chỉ là người làm thuê, NLĐ được tuyển dụng vào biên chế Nhà nước và được trả lương từ ngân sách Nhà nước, quyền lợi của NLĐ được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật nên NLĐ và NSDLĐ ít xảy ra mâu thuẫn
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước công nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời không can thiệp sâu vào quan hệ lao động giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) Tuy nhiên, cạnh tranh khốc liệt trong thị trường khiến các doanh nghiệp phải nỗ lực phát triển, nếu không sẽ bị loại bỏ, gây áp lực lên NLĐ về việc làm và đời sống Để duy trì sự phát triển hài hòa và ổn định trong quan hệ lao động, NLĐ và NSDLĐ cần quan tâm đến lợi ích chung và hỗ trợ lẫn nhau Việc thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) là cần thiết, giúp hai bên hiểu biết và hợp tác tốt hơn, từ đó nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống NLĐ, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Theo Điều 73 Bộ Luật Lao Động năm 2012, thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động được thống nhất qua thương lượng Quan niệm về thỏa ước lao động tập thể tại Việt Nam tương đồng với quan niệm phổ biến trên thế giới, thể hiện sự đồng thuận trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động và tạo ra môi trường làm việc công bằng.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa thỏa ước lao động tập thể là các thỏa thuận viết về việc làm và điều kiện lao động giữa nhà sử dụng lao động và tổ chức đại diện của người lao động Trong trường hợp không có tổ chức đại diện cho bên lao động, các cá nhân vẫn có thể tham gia vào các thỏa thuận này.
Theo quy định của pháp luật, 20 đại diện của tập thể lao động được bầu ra và hợp pháp hóa có quyền ký kết thỏa ước tập thể.
TƢLĐTT rất uyển chuyển và dễ thích ứng với thực tại xã hội, TƢLĐTT vừa mang tính hợp đồng vừa mang tính pháp quy
Tính hợp đồng của thỏa ước lao động tập thể (TƢLĐTT) thể hiện qua sự hình thành dựa trên thỏa thuận và thương lượng giữa tập thể người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ), phản ánh sự đồng thuận của cả hai bên Nếu một bên cảm thấy cần có thỏa ước để ràng buộc trách nhiệm, họ có quyền yêu cầu thương lượng tập thể, và bên nhận yêu cầu không được từ chối Thỏa ước sẽ được ký kết khi hai bên thống nhất về nội dung và nhận được sự đồng thuận từ đa số NLĐ trong doanh nghiệp Nội dung thỏa ước bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động, cùng các điều kiện lao động, được quy định bởi pháp luật nhưng có thể điều chỉnh để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tính pháp quy của TƢLĐTT đƣợc thể hiện thông qua nội dung thỏa ƣớc, trình tự ký kết thỏa ƣớc và hiệu lực của thỏa ƣớc
Các quy định pháp luật về lao động thường mang tính chung chung, do đó, người lao động (NLĐ) và nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) cần thương lượng để cụ thể hóa các quy định này cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nội dung của thỏa ước lao động thường được trình bày dưới dạng quy phạm, rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động, cũng như các vấn đề liên quan đến điều kiện làm việc như tiền thưởng, tiền lương, thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi Quan trọng là các nội dung trong thỏa ước không được trái với quy định của pháp luật và phải có lợi hơn cho NLĐ so với các quy định hiện hành.
Trình tự ký kết thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) phải tuân thủ quy định của pháp luật lao động, cụ thể là Bộ luật Lao động 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành Quá trình thương lượng và ký kết TƯLĐTT cần được thực hiện công khai, đảm bảo tập thể người lao động (NLĐ) được thông báo Thỏa ước chỉ được thông qua khi Ban chấp hành Công đoàn đã lấy ý kiến của tập thể NLĐ và có hơn 50% số NLĐ trong doanh nghiệp đồng ý với nội dung thỏa ước, theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Lao động 2012.
23 Mục II của Khuyến nghị 91 của ILO về Định nghĩa thỏa ƣớc tập thể
Thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả người lao động trong doanh nghiệp, bao gồm cả những người mới vào làm việc sau khi thỏa ước được ký kết và những người không đồng ý với nội dung thỏa ước Nếu có quy định nội bộ hoặc thỏa thuận trong hợp đồng lao động nào trái với thỏa ước theo hướng bất lợi cho người lao động, những điều khoản này phải được sửa đổi để phù hợp với thỏa ước.
Thỏa ước tập thể được coi là "BLLĐ con" tại mỗi doanh nghiệp, với tính chất bắt buộc Luật này có khả năng "động", cho phép sửa đổi và bổ sung theo yêu cầu của các bên, miễn là tuân thủ đúng trình tự pháp luật quy định.
Tổng kết lại, TƢLĐTT có cả tính chất hợp đồng và tính chất pháp quy, tuy nhiên, tính chất hợp đồng nổi bật hơn do bản chất của quan hệ lao động là thỏa thuận TƢLĐTT chỉ được ký kết khi hai bên tập thể lao động và NSDLĐ đã thương lượng và đạt được sự thống nhất.
1.5.2 Đặc điểm của thỏa ước lao động tập thể
TƢLĐTT kết hợp giữa đặc điểm của hợp đồng và văn bản quy phạm pháp luật, do đó nó sở hữu những tính chất riêng biệt Bên cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng và văn bản quy phạm, TƢLĐTT còn có những đặc trưng riêng, thể hiện sự phức tạp và tính đa dạng trong việc áp dụng và thực thi.
Về chủ thể, TƢLĐTT là văn bản thỏa thuận giữa một bên là đại diện tập thể
Theo pháp luật Việt Nam, đại diện tập thể lao động là tổ chức Công đoàn, có trách nhiệm tham gia thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể (TƢLĐTT) vì lợi ích chung của tất cả người lao động (NLĐ) trong doanh nghiệp hoặc ngành kinh tế, không chỉ vì lợi ích cá nhân hay một bộ phận NLĐ TƢLĐTT khác biệt hoàn toàn với hợp đồng lao động, bởi hợp đồng chỉ thể hiện ý chí của cá nhân NLĐ và người sử dụng lao động (NSDLĐ), trong khi văn bản pháp luật được ban hành bởi Nhà nước, phản ánh ý chí của Nhà nước.
27 Đỗ Năng Khánh, “Hoàn thiện và thực hiện pháp luật về thỏa ƣớc lao động tập thể”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 1/2008, tr 48-53
28 Trần Thúy Lâm, “Thỏa ước lao động tập thể”, Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Lưu Bình Nhưỡng (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội - 2012, tr 254
30 Điểm a Khoản 1 Điều 69, điểm a Khoản 1 Điều 83, Khoản 4 Điều 3, điểm a Khoản 1 Điều 87 BLLĐ 2012
TƢLĐTT thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động, cùng với các điều kiện lao động đã được thương lượng TƢLĐTT có hiệu lực bắt buộc đối với những người không đồng ý và những người vào làm việc sau khi thỏa ước được ký kết Tuy nhiên, phạm vi hiệu lực của TƢLĐTT hẹp hơn so với văn bản pháp luật, vì văn bản pháp luật có giá trị bắt buộc và áp dụng trên toàn quốc hoặc trong một vùng, địa phương nhất định.
TƯLĐTT cần được lập bằng văn bản và nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Lao động 2012 Quy định này mang tính chất tiến bộ, giúp hạn chế sự can thiệp của cơ quan Nhà nước vào quan hệ lao động.
Sơ lược về thỏa ước lao động tập thể một số nước trên thế giới
Hệ thống pháp luật lao động Việt Nam chỉ công nhận thỏa thuận lao động tập thể (TƢLĐTT) khi nội dung của thỏa thuận không trái với quy định pháp luật và có lợi hơn cho người lao động (NLĐ) Khác với Việt Nam, một số quốc gia như Thụy Điển, Phần Lan, Đức, và Italia cho phép các bên thương lượng và xác định điều kiện lao động có thể bất lợi hơn cho NLĐ so với quy định pháp luật Tuy nhiên, để bảo vệ NLĐ và tránh lạm dụng, chỉ có Công đoàn cấp cao (cấp ngành trở lên) mới có quyền ấn định những thỏa thuận này.
Bài viết của Hoàng Thị Minh, đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2009, trang 50-58, nghiên cứu mối quan hệ giữa thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động quốc gia tại Việt Nam cũng như so sánh với một số quốc gia khác trên thế giới Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương tác giữa các quy định pháp lý và các thỏa thuận lao động, góp phần nâng cao hiểu biết về hệ thống pháp luật lao động hiện hành.
26 cấp dưới ấn định điều kiện lao động bất lợi hơn cho NLĐ so với quy định của pháp luật lao động
Pháp luật ở các quốc gia công nhận và bảo vệ quyền tự do liên kết, thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước tập thể, nhưng mức độ coi trọng và thực thi lại khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội Ở Hàn Quốc, quyền thương lượng tập thể tồn tại nhưng hoạt động của công đoàn bị hạn chế, dẫn đến sự phát triển yếu kém của thỏa ước tập thể Tương tự, tại Thái Lan, mặc dù pháp luật lao động tiếp thu các tiêu chuẩn quốc tế, nhưng quy định không rõ ràng và thiếu cơ chế thực thi đã khiến thỏa ước tập thể không phát triển Ngược lại, ở các quốc gia châu Âu như Slovenia, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Italia, thỏa ước tập thể được coi trọng với nhiều cấp thương lượng và khung pháp lý cởi mở, giúp bảo vệ quyền lợi các bên hiệu quả Trong khi đó, ở Mỹ, Nhật Bản và Anh, thỏa ước tập thể chủ yếu được ký kết ở cấp doanh nghiệp nhưng tỷ lệ ký kết lại thấp, với 8.5% lao động ở Mỹ và khoảng 20% ở Nhật Bản được áp dụng thỏa ước tập thể.
Tại Anh, tỷ lệ này đạt 35%, trong khi ở Mỹ, nguyên nhân của tình trạng này lại khác nhau Tại Mỹ, nhà sử dụng lao động nắm giữ nhiều thế mạnh và mong muốn có sự tự do trong việc xử lý công việc với người lao động theo cách cá nhân và riêng biệt.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Minh về mối quan hệ giữa thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động quốc gia tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, được công bố trong Tạp chí Luật học số 10/2009, đã chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong việc áp dụng các quy định pháp luật lao động Bài viết không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng thỏa ước lao động tập thể tại Việt Nam mà còn so sánh với các quốc gia khác, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện hệ thống pháp luật lao động trong nước.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Minh so sánh mối quan hệ giữa thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động quốc gia tại Việt Nam với một số quốc gia khác trên thế giới Bài viết được đăng trên Tạp chí Luật học, số 10/2009, trang 50-58, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương đồng và khác biệt trong các quy định pháp lý liên quan đến lao động.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Minh về mối quan hệ giữa thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động quốc gia ở Việt Nam so với một số quốc gia khác trên thế giới đã được công bố trong Tạp chí Luật học số 10/2009 Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương tác giữa các quy định pháp luật và thỏa thuận lao động, làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt trong bối cảnh quốc tế.
Nhiều nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) cho rằng việc thành lập Công đoàn tốn thời gian và chi phí, đồng thời lo ngại rằng Công đoàn sẽ dẫn dắt người lao động đình công, gây gián đoạn sản xuất Ở Mỹ, việc thành lập tổ chức Công đoàn và ký kết thỏa ước tập thể rất hạn chế Trong khi đó, Nhật Bản cho phép các bên trong quan hệ lao động tự thương lượng điều kiện lao động thấp hơn quy định của Nhà nước, coi thỏa ước tập thể là kết quả của sự hợp tác tự nguyện Tại nhiều quốc gia đang phát triển, hoạt động thương lượng tập thể chưa được chú trọng, ví dụ như ở Ấn Độ, chỉ dưới 10% lực lượng lao động có thỏa ước tập thể Ở Trung Quốc, doanh nghiệp tư nhân hầu như không có thỏa ước tập thể, trong khi khu vực kinh tế Nhà nước có khoảng 90% công ty có thỏa ước Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, khung pháp lý cho hoạt động Công đoàn và thương lượng tập thể còn yếu kém, với nhiều quy định mang tính hình thức Quyền tự do thành lập và hoạt động Công đoàn không được coi trọng, và ở một số quốc gia, chính phủ còn cản trở hoạt động này Ví dụ, ở Honduras, thương lượng tập thể không được chính phủ ủng hộ, trong khi một số quốc gia như Ấn Độ và Bangladesh lại khuyến khích hoạt động Công đoàn.
Tình hình hoạt động Công đoàn và thương lượng ký kết TƯLĐTT ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội riêng Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), việc ký kết TƯLĐTT là thiết yếu để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong cơ chế thị trường.
Trong bài viết "Nghiên cứu so sánh về mối quan hệ giữa thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động quốc gia ở Việt Nam và một số nước trên thế giới", tác giả Hoàng Thị Minh đã phân tích sự tương tác giữa thỏa ước lao động tập thể và hệ thống pháp luật lao động của Việt Nam so với các quốc gia khác Nghiên cứu này được đăng tải trên Tạp chí Luật học, số 10/2009, trang 50-58, và cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức mà các quy định pháp lý ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Minh so sánh mối quan hệ giữa thỏa ước lao động tập thể và pháp luật lao động quốc gia tại Việt Nam với một số quốc gia khác trên thế giới Bài viết được đăng trong Tạp chí Luật học, số 10/2009, trang 50-58.
Cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để cải thiện quan hệ lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp phát triển mà còn góp phần xây dựng một quốc gia vững mạnh và thịnh vượng.
Vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước
1.7.1 Khái quát về vai trò của Công đoàn đối với thỏa ước lao động tập thể
Trên toàn cầu, sự xuất hiện của Công đoàn trong các cuộc Cách mạng tư sản ở Châu Âu đã dẫn đến sự ra đời sớm của TƯLĐTT Theo một báo cáo của ILO vào giữa thập niên 1930, TƯLĐTT đã dần trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ cấu kinh tế - xã hội của xã hội công nghiệp hiện đại.
Cơ chế thương lượng tập thể đã phát triển mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với sự ra đời của nhiều Công ước quốc tế quy định về thương lượng tập thể như Công ước 87 năm 1948 của ILO, bảo vệ quyền tự do liên kết và quyền lập hội của người lao động Theo Điều 2 của Công ước 87, người lao động có quyền thành lập tổ chức theo sự lựa chọn của mình và gia nhập tổ chức đó theo đúng điều lệ Công ước 98 của ILO cũng quy định các nguyên tắc về quyền lập hội và thương lượng tập thể Công ước 135 năm 1971 quy định rằng các đại diện người lao động phải được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chức năng của mình, tuy nhiên, quy định này vẫn còn thiếu sót về quyền hạn cụ thể của tổ chức đại diện Để khắc phục những hạn chế này, ILO đã ghi nhận quyền thương lượng tập thể của đại diện người lao động tại Điều 2 của Công ước 154.
“Công ước thương lượng tập thể” năm 1981 cùng với đó là khuyến nghị 163
“khuyến nghị về thương lượng tập thể”
Công đoàn đóng vai trò quan trọng trong việc thương lượng và ký kết Thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT), giúp người lao động (NLĐ) thể hiện tiếng nói và bảo vệ quyền lợi của mình Điều này không chỉ tạo điều kiện cho quan hệ lao động hài hòa, ổn định mà còn được nhiều hệ thống pháp luật quốc gia như Anh, Pháp, Thái Lan ghi nhận và thực hiện.
45 Đỗ Hải Hà, “Thỏa ƣớc lao động tập thể”, Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Trần Hoàng Hải (chủ biên),
Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM, 2011, tr 206
Tại Việt Nam, vai trò của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động (NLĐ) đã được nhận thức rõ từ sớm, thể hiện qua việc ký kết Thỏa ước Lao động Tập thể (TƢLĐTT) Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định về TƢLĐTT, trong đó Điều 38 quy định rằng đại diện ký kết từ phía NLĐ là đại biểu Công đoàn, hoặc đại biểu công nhân có giấy ủy quyền nếu không có Công đoàn Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, việc triển khai thực hiện TƢLĐTT gặp nhiều trở ngại, dẫn đến việc không có bất kỳ tập hợp khế ước nào tồn tại trong thực tế.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp 1954, Việt Nam đã tập trung khôi phục kinh tế miền Bắc và giải phóng miền Nam Để đáp ứng nhu cầu xã hội, Nghị định 172/NĐ-CP ngày 21/11/1963 đã ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng tập thể, quy định rằng giám đốc xí nghiệp và Ban chấp hành Công đoàn là các bên ký kết Các hợp đồng này nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động, phục vụ cho việc thực hiện các kế hoạch của Nhà nước Khi đất nước hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ hội nhập, Nhà nước đã thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, cho phép các bên tự do thỏa thuận về điều kiện lao động Nghị định 172/NĐ-CP không còn phù hợp với tình hình mới, dẫn đến việc ban hành Nghị định 18/NĐ-CP ngày 26/12/1992 Nghị định này đã kịp thời điều chỉnh các quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa và quy định rõ ràng hơn trong lĩnh vực này.
18 về TƢLĐTT rất tiến bộ, là cơ sở, nền tảng cho các quy định trong BLLĐ về TƢLĐTT giai đoạn sau này 46
Kể từ khi Nghị định 18/NĐ-CP được ban hành và thực hiện, Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi và bổ sung Bộ luật Lao động, trong đó bao gồm các quy định mới quan trọng.
Theo Điều 1 Nghị định 18/NĐ-CP ngày 26/12/1992, chủ thể ký kết Thỏa ước Lao động Tập thể (TƯLĐTT) bao gồm đại diện tập thể người lao động và người sử dụng lao động TƯLĐTT được thương lượng và ký kết dựa trên nguyên tắc bình đẳng, công khai (Điều 3 Nghị định 18/NĐ-CP), trong đó Nhà nước khuyến khích các thỏa ước có lợi cho người lao động so với quy định của pháp luật lao động.
Theo các Bộ luật Lao động từ năm 1994 đến năm 2012, vai trò của Công đoàn trong việc thương lượng và ký kết Thỏa ước Lao động Tập thể (TƢLĐTT) được khẳng định rõ ràng, nhằm xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Tóm lại, TƯLĐTT xuất hiện ở nước ta từ rất sớm nhưng tùy từng thời kỳ mà
TƢLĐTT được xây dựng với các mục tiêu đa dạng, và Công đoàn cần thiết lập cơ chế thương lượng, thỏa thuận phù hợp với bối cảnh xã hội hiện tại để ký kết những bản TƢLĐTT hiệu quả, nhằm phát huy tác dụng trong thực tiễn.
1.7.2 Vai trò của Công đoàn trong việc thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
1.7.2.1 Vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc thương lượng tập thể Để có thể ký kết đƣợc một bản TƢLĐTT và để bản thỏa ƣớc phát huy hiệu quả trong doanh nghiệp thì việc thương lượng giữa tập thể NLĐ và NSDLĐ là vấn đề rất quan trọng và Công đoàn có vai trò quan trọng góp phần quyết định hiệu quả trong việc thương lượng cũng như có thể thảo luận những vấn đề liên quan đến quyền lợi của NLĐ với NSDLĐ
Khoản 1 Điều 69 BLLĐ 2012 quy định chủ thể thương lượng tập thể trong doanh nghiệp là tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và NSDLĐ hoặc người đại diện cho NSDLĐ Khoản 4 Điều 3 BLLĐ 2012 quy định: “Tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành CĐCS hoặc Ban chấp hành Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập CĐCS” (sau đây gọi chung là Công đoàn)
Nhƣ vậy, BLLĐ 2012 chỉ thừa nhận tổ chức Công đoàn là đại diện duy nhất cho tập thể NLĐ tại doanh nghiệp để thương lượng tập thể
Trong quá trình thương lượng tập thể, để việc thương lượng đạt kết quả tốt nhất, Công đoàn và NSDLĐ phải tuân thủ những nguyên tắc luật định 47 :
Nguyên tắc thiện chí và tự nguyện trong thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) yêu cầu các bên tham gia ký kết phải tự giác và có tinh thần trách nhiệm Điều này thể hiện qua việc các bên thương lượng và đồng thuận một cách tự nguyện, nhằm bảo vệ quyền lợi của mình Không bên nào được lừa dối hay ép buộc bên kia, cũng như không chịu sự can thiệp từ bên thứ ba.
Nguyên tắc bình đẳng và hợp tác giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) là rất quan trọng, mặc dù họ có địa vị kinh tế khác nhau Cả hai bên đều chia sẻ lợi ích kinh tế chung, và sự hợp tác chỉ có thể đạt được khi họ nhận thức được tầm quan trọng của việc làm việc cùng nhau vì lợi ích chung.
NSDLĐ cần tạo điều kiện tốt nhất cho NLĐ, đảm bảo tiền lương hợp lý và thời gian làm việc phù hợp, từ đó giúp NLĐ hoàn thành nghĩa vụ lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Mối quan hệ lao động giữa hai bên rất quan trọng, và để đạt được lợi ích chung, cả hai bên cần hợp tác, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, tránh việc áp đặt yêu cầu bằng sức mạnh kinh tế Tuy nhiên, họ có thể tận dụng ưu thế của mình để thương lượng và đạt được thỏa thuận đáp ứng quyền lợi và yêu cầu của cả hai bên.
Nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện có mối liên hệ chặt chẽ, trong đó bình đẳng là nền tảng cho sự tự nguyện Chỉ khi có sự bình đẳng giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ), họ mới có thể tiến hành thương lượng một cách tự nguyện và hiệu quả.