LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ BỐI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA
Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những chế định pháp lý cổ xưa nhất trong lịch sử pháp luật dân sự Qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, quy định về trách nhiệm này đã có sự thay đổi về các yếu tố như chủ thể, điều kiện, mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia.
Nhìn chung quá trình hoàn thiện chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trải qua 3 giai đoạn
Trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử, thời kỳ cổ đại, khi chính quyền Nhà nước mới hình thành, bộ máy Nhà nước còn lỏng lẻo và việc quản lý xã hội chưa chặt chẽ Trong bối cảnh này, cá nhân có thể tự ý trả thù nếu quyền lợi của họ bị xâm phạm, dẫn đến việc bắt nô lệ, cướp tài sản, hoặc bắt giữ vợ con của đối phương Chế độ này được gọi là “chế độ tư nhân phục thù”.
Chế độ tư nhân phục thù ở Việt Nam được ghi nhận trong Bộ Luật Hồng Đức và Luật Gia Long, đánh dấu sự khởi đầu của trách nhiệm bồi thường thiệt hại Cụ thể, Điều 591 Bộ Luật Hồng Đức quy định rằng người đòi nợ không được tự ý bắt giữ tài sản của người mắc nợ nếu số tiền vượt quá số ghi trong văn tự, và sẽ bị xử phạt 80 trượng, đồng thời phải trả lại tài sản cho người có nợ, phần thừa sẽ được trả cho người mắc nợ.
Theo Điều 134 của Bộ Luật Gia Long, các chủ nợ bị cấm tự ý bắt gia súc, tài sản của con nợ, cũng như không được bắt thân nhân của họ làm nô lệ.
Trong thời kỳ trung đại, chính quyền Nhà nước đã được tổ chức chặt chẽ với bộ máy tương đối hoàn chỉnh và pháp luật cơ bản đã được hình thành Giai đoạn này chứng kiến sự ra đời của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, quy định rằng người gây thiệt hại phải bồi thường bằng tiền hoặc tài sản quý giá như vàng, bạc, kim cương để tránh kiện cáo và trả thù Chế độ này được gọi là “chế độ thục kim”.
Theo Phạm Kim Anh (2009), trong tác phẩm "Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại", tác giả đã phân tích lịch sử quy định của pháp luật liên quan đến trách nhiệm dân sự phát sinh từ thiệt hại do tài sản gây ra Nội dung này không chỉ mang tính lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc hiểu rõ trách nhiệm pháp lý trong các vụ việc liên quan đến thiệt hại tài sản.
Trong giai đoạn này, nếu các bên đạt được thỏa thuận về tiền chuộc mà không cần can thiệp của pháp luật, thì đó được gọi là “chuộc lỗi tự nguyện” Ngược lại, nếu không đạt được thỏa thuận, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu sự can thiệp của chính quyền Khi đó, tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua việc trả tiền chuộc theo phán quyết của quan tòa, dựa trên mức giá do pháp luật quy định, gọi là “chế độ thục kim bắt buộc”.
Tiền thục kim vừa là hình phạt vừa là bồi thường thiệt hại theo Điều 466 Bộ Luật Hồng Đức Cụ thể, người phạm tội đánh người gây thương tích sẽ chịu hình phạt đánh roi và phải bồi thường cho nạn nhân với các mức tiền cụ thể như: 3 tiền cho sưng phù, 1 quan cho chảy máu, 10 quan cho gãy ngón tay hoặc răng, 15 quan cho thương tích do đâm chém, 30 quan cho thai nhi chưa thành hình, 50 quan cho thai nhi đã thành hình, và 100 quan cho các tổn thương nghiêm trọng như đứt lưỡi hay hỏng âm, dương vật Pháp luật Việt Nam thời điểm này không phân biệt rõ ràng giữa trách nhiệm hình sự và dân sự, cũng như chưa có khái niệm tổng quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong thời kỳ hiện đại, bộ máy Nhà nước và các chế định pháp luật đã được hoàn thiện và đồng bộ hơn Sự phân biệt rõ ràng giữa trách nhiệm hình sự, dân sự và hành chính đã được thiết lập Đồng thời, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng dần tách biệt khỏi trách nhiệm hình sự.
Nhà nước quản lý xã hội thông qua pháp luật, ngăn cấm quyền tự phục thù của cá nhân và chỉ cho phép yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định Theo pháp luật Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xem là trách nhiệm dân sự có tính cưỡng chế, áp dụng cho những người vi phạm và gây thiệt hại cho người khác Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả bằng tài sản của mình.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nghĩa vụ của người gây ra hành vi vi phạm, dẫn đến thiệt hại về vật chất và tinh thần, phải bồi thường cho người bị thiệt hại Mục đích của việc bồi thường là phục hồi tình trạng tài sản và bù đắp tổn thất tinh thần cho nạn nhân Trách nhiệm này bao gồm cả bồi thường thiệt hại vật chất và bồi thường thiệt hại tinh thần.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 2
Hiện nay, trong lĩnh vực khoa học pháp lý và thực tiễn dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được phân biệt rõ ràng Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, trong khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi gây thiệt hại cho người khác mà không dựa trên hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là nghĩa vụ dân sự phát sinh khi một bên vi phạm các điều khoản đã thỏa thuận, dẫn đến thiệt hại cho bên còn lại Khi xảy ra vi phạm hợp đồng, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn thất mà hành vi của mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức trách nhiệm dân sự phát sinh khi cá nhân vi phạm nghĩa vụ pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác Khi xảy ra hành vi vi phạm này, người gây thiệt hại sẽ phải bồi thường cho những tổn thất mà mình đã gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng đều là hai hình thức trách nhiệm dân sự, có những điểm chung và khác biệt rõ rệt.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Trong cuộc sống hiện đại, ngoài những thiệt hại do hành vi con người gây ra, còn có thiệt hại từ các phương tiện giao thông, công trình xây dựng, nhà cửa, cây cối và động vật, được gọi chung là "tài sản".
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra” ra đời
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra” là một khái niệm chưa được quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 Tuy nhiên, thuật ngữ này được đề cập trong mục 3, chương XXI, phần “Bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể” Các trường hợp bồi thường thiệt hại bao gồm: thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, thiệt hại do súc vật, và thiệt hại do cây cối, nhà cửa, cũng như các công trình xây dựng khác gây ra.
Các quy định hiện tại không cung cấp chi tiết cụ thể để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại một cách chính xác Hơn nữa, chúng cũng chưa đưa ra nguyên tắc chung nào để xác định các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến tài sản.
Trong Bộ luật Dân sự 1995 và 2005, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không xem xét yếu tố lỗi của chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng hay chiếm hữu hợp pháp tài sản Tuy nhiên, đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, cả hai Bộ luật đều đề cập đến yếu tố lỗi của chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm đó Dù vậy, yếu tố lỗi không phải là điều kiện tiên quyết để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Chế định “trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra” đã được ghi nhận trong các luật cổ Việt Nam, thể hiện rõ ràng trong các điều khoản pháp lý.
Bộ Luật Hồng Đức quy định rõ ràng về trách nhiệm của người thả trâu, ngựa gây thiệt hại cho tài sản của người khác Cụ thể, nếu để gia súc dày xéo, ăn lúa, dâu của người khác, họ sẽ bị phạt 80 trượng và phải đền bù thiệt hại Trong trường hợp cố tình thả gia súc để phá hoại, mức phạt sẽ tăng lên gấp đôi Tuy nhiên, nếu gia súc chạy lồng lên ngoài tầm kiểm soát, người chủ sẽ được miễn trách nhiệm Điều luật này đã đặt nền tảng cho chế định "trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra", yêu cầu chủ sở hữu và người quản lý tài sản phải chịu trách nhiệm về thiệt hại mà tài sản của họ gây ra.
Bộ Luật Hồng Đức quy định rằng trong quá trình xây dựng nhà ở và công trình, chủ sở hữu cần chuẩn bị các điều kiện an toàn và có biện pháp phòng ngừa để tránh thiệt hại cho tài sản, tính mạng và sức khỏe của con người Nếu sự thiếu cẩn thận trong việc ngăn ngừa thiệt hại dẫn đến cái chết, theo Điều 568, chủ sở hữu sẽ phải bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm, cụ thể là bị xử phạt và phải chi trả tiền mai táng 5 quan Hơn nữa, trách nhiệm của thợ thuyền và chủ công ty cũng sẽ được xem xét tùy theo mức độ lỗi gây ra sự cố.
Bộ Luật Hồng Đức đã quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, cho thấy sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các nhà làm luật đối với các tình huống có thể xảy ra Điều này phản ánh cái nhìn toàn diện về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trước khi có Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 và 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đã được quy định tại Thông tư 173/UBTP ngày 23 tháng 3 năm 1972 của Tòa án nhân dân tối cao Cụ thể, theo điểm 4, mục B của Thông tư, đối với thiệt hại do súc vật gây ra, như chó cắn người hay trâu húc, người sở hữu súc vật phải chịu trách nhiệm bồi thường Nếu súc vật được chuyển cho người khác sử dụng và gây thiệt hại, thì người sử dụng phải bồi thường Trách nhiệm này xuất phát từ lỗi của người sở hữu hoặc người sử dụng trong việc trông coi và chăn dắt súc vật không cẩn thận.
Theo quy định, chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng tài sản có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, bất kể lỗi là vô ý hay cố ý Nếu lỗi vô ý dẫn đến thiệt hại, trách nhiệm bồi thường vẫn tồn tại, và điều này cho thấy lỗi cố ý cũng không thể loại trừ Do đó, dù là lỗi vô ý hay cố ý, chủ sở hữu và người quản lý tài sản đều phải chịu trách nhiệm bồi thường cho thiệt hại do tài sản của mình gây ra.
Trong trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, Thông tư này quy định rằng chủ sở hữu tài sản phải bồi thường thiệt hại mà không cần xác định lỗi của họ, trừ khi có chứng minh thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do bất khả kháng.
Theo Thông tư 173/UBTP ngày 23/3/1972, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra phát sinh từ lỗi vô ý hoặc cố ý của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản Tuy nhiên, trong một số trường hợp, như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, luật quy định không cần xác định lỗi của chủ sở hữu.
Theo các cơ sở pháp lý hiện hành và nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan điểm của các nhà lập pháp Việt Nam cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại Điều này bao gồm các trường hợp như cây cối đổ gẫy, nhà cửa và công trình xây dựng bị sụt đổ, hư hỏng, sụt lở, súc vật gây thiệt hại, và các hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Trên toàn cầu, nhiều quốc gia đã thiết lập quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra Ví dụ, theo Điều 1385 Bộ luật Dân sự Pháp, chủ sở hữu hoặc người sử dụng động vật phải chịu trách nhiệm về thiệt hại mà động vật đó gây ra, bất kể nó đang bị giữ hay đã thoát ra ngoài.
Theo Điều 1386 Bộ luật Dân sự, chủ sở hữu công trình xây dựng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu công trình bị đổ do thiếu bảo dưỡng hoặc do khuyết tật trong quá trình xây dựng.