CHỦ THỂ CÓ QUYỀN YÊU CẦU HỦY BỎ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
Quy định pháp luật về chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cơ chế hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của công ty cổ phần tại Điều 147 khi có vi phạm liên quan Chỉ cổ đông và nhóm cổ đông đáp ứng điều kiện tại khoản 2 Điều 114, tức là sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông liên tục ít nhất 06 tháng hoặc tỷ lệ thấp hơn theo Điều lệ công ty, mới có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ.
Luật Doanh Nghiệp 2014 đã thu hẹp phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông so với Luật Doanh Nghiệp 2005 Cụ thể, chỉ "cổ đông hoặc nhóm cổ đông" tại khoản 2 Điều 114 được phép thực hiện quyền này, trong khi trước đây, nhiều đối tượng như thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, và Tổng giám đốc không phải là cổ đông cũng có quyền yêu cầu Sự thay đổi này nhằm hạn chế việc sử dụng quyền một cách tùy tiện và đặt ra các điều kiện về tư cách, thời hạn và tỷ lệ nắm giữ cổ phần tối thiểu.
2 Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp: Bảo vệ cổ đông – pháp luật và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, tr 198
Điều 107 Luật Doanh Nghiệp 2005 quy định quyền yêu cầu hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông cho cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, và Ban kiểm soát, nhằm bảo vệ lợi ích doanh nghiệp Quy định này thể hiện sự tiến bộ của Luật Doanh Nghiệp, phù hợp với mục đích và ý nghĩa của quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết.
Vướng mắc trong thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của các chủ thể
Luật Doanh nghiệp quy định quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thuộc về các cổ đông nhỏ (cổ đông thiểu số - CĐTS) theo khoản 2 Điều 114 Điều này cho phép CĐTS phối hợp với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, bao gồm quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Tuy nhiên, việc xác định CĐTS hoặc tỷ lệ cổ phần đủ lớn để được bảo vệ theo quy định này đang tạo ra những hạn chế đáng kể đối với quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của CĐTS trong các công ty cổ phần đại chúng.
Mặc dù Luật Doanh nghiệp không định nghĩa rõ ràng về cổ đông thiểu số (CĐTS), nhưng có những quy định pháp luật giúp nhận diện loại cổ đông này Theo Luật Doanh nghiệp 2014, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng sẽ có các quyền nhất định Bên cạnh đó, theo Luật Chứng khoán và Luật các Tổ chức tín dụng, cổ đông lớn được xác định là người sở hữu từ 5% cổ phần có quyền biểu quyết Tuy nhiên, việc xác định cổ đông nhỏ không chỉ dựa vào tỷ lệ 5% hay 10%, mà còn cần xem xét các yếu tố khác.
Trương Thanh Hòa (2012) trong luận văn thạc sỹ tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã phân tích về việc hủy quyết định của Đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể được trình bày ở trang 80.
5 Căn cứ vào quy định tại điểm đ) khoản 2 Điều 114 Luật DN 2014: “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ
Theo quy định tại Điều lệ công ty, cổ đông nắm giữ từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng sẽ có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông Quyền này được xác định là một trong những quyền lợi của cổ đông theo Luật và Điều lệ công ty.
Xem thêm: Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), tlđd (1), tr 269
Cổ đông thiểu số là những cá nhân sở hữu một lượng cổ phần nhỏ trong tổng số cổ phần của công ty, dẫn đến việc họ gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động quản lý Theo nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2009), việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần đã được so sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Vương quốc Anh, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho nhóm cổ đông này.
Theo Khoản 9 Điều 6 của Luật Chứng khoán 2006, cổ đông lớn được định nghĩa là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành.
Khoản 26 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Cổ đông lớn của tổ chức tín dụng cổ phần là cổ đông sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của tổ chức tín dụng cổ phần đó.”
Theo Nguyễn Thị Thu Hương (2014), việc nhận diện cổ đông thiểu số (CĐTS) trong công ty cổ phần ở Việt Nam gặp khó khăn do pháp luật không quy định rõ tỷ lệ nắm giữ cổ phần cần thiết Điều này dẫn đến sự không xác định về đối tượng CĐTS Mỗi quốc gia, dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ phát triển, đều có cách nhận diện CĐTS khác nhau, với các tỷ lệ như 1%, 3%, 5%, 10% được áp dụng ở một số nước như Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc.
Sự chênh lệch giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, Luật các Tổ chức tín dụng thể hiện rõ qua quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu 10% đối với cổ đông Tỷ lệ này được cho là khó đạt được, đặc biệt đối với các cổ đông nhỏ, khi mà việc liên kết để sở hữu một phần nhỏ vốn cổ phần là không dễ dàng Thực tế cho thấy, nhiều công ty cổ phần hiện nay có vốn điều lệ lớn, như tỷ lệ 0,1% cổ phần tại PVFC Land đã lên tới 500 triệu đồng Hơn nữa, điều kiện niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh là 120 tỷ VNĐ và Sở giao dịch chứng khoán TP Hà Nội là 30 tỷ VNĐ, khiến cho ngay cả việc sở hữu 5% cũng trở thành một khoản tiền không nhỏ.
Tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà cổ đông hoặc nhóm cổ đông cần sở hữu để yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông công ty đại chúng đang gây ra sự không hợp lý, làm nổi bật những vấn đề trong quy định hiện hành.
Bùi Xuân Hải (2010) trong bài viết “Bảo vệ cổ đông thiểu số: một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã phân tích những khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số trong bối cảnh pháp luật doanh nghiệp Việt Nam Bài viết được trình bày trong kỷ yếu hội thảo tại Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, trang 11, nêu bật tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho cổ đông thiểu số nhằm nâng cao tính minh bạch và công bằng trong quản trị doanh nghiệp.
10 Nguyễn Thị Thu Hương (2014), tlđd (8), tr 30
11 Huỳnh Thị Trúc Linh (2016), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo Luật DN 2014”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 06(310) T3/2016, tr 49
Lê Minh Thắng (2014) đã trình bày những ý kiến quan trọng về các quy định bảo vệ cổ đông thiểu số trong dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) trong bài viết của mình Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số nhằm đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong hoạt động doanh nghiệp Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 09, trang 51.
12 Bùi Xuân Hải (2009), “Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong Luật doanh nghiệp 2005”,
Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Số 01 (50), tr 27-28
13 Trương Vĩnh Xuân (2010), “Quyền dự họp Đai hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ phần hiện nay”,
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 5 (166), tr 48
Theo Điều 53, 54 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012, Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật chứng khoán Theo Luật Chứng khoán 2019, để trở thành công ty đại chúng, doanh nghiệp cần có vốn điều lệ tối thiểu là 30 tỷ VND.
Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 71/2017/NĐ-CP quy định về quản trị công ty đối với công ty đại chúng, liên quan đến Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 147 và 148), cho phép cổ đông yêu cầu hủy hoặc đình chỉ quyết định của Đại hội đồng cổ đông nếu quyết định đó vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty, gây thiệt hại cho công ty.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 12 và Điều 24 Phụ lục 01 Điều lệ mẫu Thông tư 95/2017/TT-BTC, công ty đại chúng phải tuân thủ tỷ lệ cổ phần tối thiểu cho nhóm cổ đông đặc biệt theo Luật Chứng khoán 2006 Cụ thể, cổ đông hoặc nhóm cổ đông cần nắm giữ ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông liên tục trong ít nhất sáu tháng để có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.
Một số kiến nghị liên quan đến các quy định về chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông
Tác giả đề xuất bổ sung quy định về chủ thể quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông tại Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2014, nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình ra quyết định của các cổ đông.
Trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong ít nhất 6 tháng, hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn theo Điều lệ công ty, có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp quy định.
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông trong công ty đại chúng, trong thời gian ít nhất 6 tháng, có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét và hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, theo các trường hợp quy định tại Điều lệ công ty.
Sửa đổi quy định tại Điều 24 Điều lệ mẫu Phụ lục 01 Thông tư 95/2017/TT-BTC để phù hợp với Luật DN 2014, cụ thể là loại bỏ quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ đối với thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, GĐ/TGĐ không phải là cổ đông, đồng thời giữ nguyên quyền của nhóm cổ đông và nhóm cổ đông.
Luật Doanh nghiệp hiện hành quy định quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) chủ yếu hướng đến các cổ đông nhỏ trong công ty cổ phần (CTCP) Tuy nhiên, cổ đông nhỏ trong công ty đại chúng gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền này do tỷ lệ phần trăm cổ phần phổ thông mà họ phải nắm giữ không phù hợp với quy định của Luật Chứng khoán và thực tiễn của các CTCP đại chúng Bài viết cũng chỉ ra sự khác biệt giữa các chủ thể có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ và nhóm chủ thể quy định tại khoản 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014, từ đó đề xuất cần có quy định riêng cho các chủ thể này.
CĂN CỨ HỦY BỎ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông liên quan đến trình tự, thủ tục triệu tập họp
2.1.1 Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, việc không tuân thủ đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) có thể dẫn đến việc nghị quyết bị hủy bỏ (khoản 1 Điều 147) Các quy định chi tiết về trình tự và thủ tục này được nêu rõ từ Điều 136 đến Điều 141 của Luật.
Quy định về doanh nghiệp bao gồm các vấn đề quan trọng như thời gian họp, các trường hợp họp bất thường, thẩm quyền triệu tập họp, danh sách cổ đông có quyền dự họp, gửi thông báo và tài liệu mời họp, ủy quyền dự họp, cũng như địa điểm tổ chức họp Những quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp 2014 đã cải tiến quy định về địa điểm họp, cho phép tổ chức cuộc họp “đồng thời ở nhiều địa điểm khác nhau”, thay vì chỉ yêu cầu họp “trên lãnh thổ Việt Nam” như quy định năm 2005 Điều này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên, đặc biệt là các công ty cổ phần (CTCP) có số lượng cổ đông lớn và phân bố rộng rãi Ngoài ra, thông báo mời họp hiện được gửi đến địa chỉ liên lạc của cổ đông, thay vì địa chỉ thường trú như trước đây, theo quy định tại khoản 2 Điều 139 của Luật Doanh nghiệp.
Việc khắc phục tình trạng khó khăn trong việc áp dụng cho các công ty niêm yết đã được thực hiện vào năm 2014 Thông thường, địa chỉ mà cổ đông cung cấp khi mở tài khoản giao dịch chứng khoán là địa chỉ liên lạc, không phải là địa chỉ thường trú.
23 Trương Thanh Hòa (2012), tlđd (4), tr 10
24 Xem: Phạm Hoài Huấn (2019), Luật Doanh nghiệp Việt Nam: Tình huống – Dẫn giải – Bình luận, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr 253
Để tạo điều kiện thuận lợi cho cổ đông thường xuyên thay đổi chỗ ở, thời hạn nhận thông báo của cổ đông đã được nâng từ 7 ngày lên 10 ngày.
Điều 139 của Luật Doanh Nghiệp 2014 đã thể hiện những tiến bộ trong quy định về trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thực tiễn.
Pháp luật về công ty cổ phần (CTCP) quy định rõ ràng các điều kiện để tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) hợp lệ, bao gồm việc cần có ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết tham gia trong lần triệu tập đầu tiên và tối thiểu 33% trong lần triệu tập thứ hai nếu lần đầu không đủ số cổ đông Nếu tỷ lệ tham gia vẫn không đạt yêu cầu, lần triệu tập thứ ba sẽ không bị ràng buộc bởi tỷ lệ này (Điều 144 Luật DN 2014) Điều lệ công ty có thể quy định tỷ lệ khác nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu nêu trên Luật DN 2014 đã giảm bớt yêu cầu về tỷ lệ triệu tập họp, giúp phù hợp với thông lệ quốc tế và hỗ trợ các công ty cổ phần, đặc biệt là công ty niêm yết, trong việc tổ chức ĐHĐCĐ Đối với các CTCP được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sự hợp tác giữa cổ đông trong nước và cổ đông nước ngoài trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng được quy định cụ thể.
Theo quy định của DN 2005, có hiệu lực đến ngày 01/07/2008, điều lệ công ty có thể xác định số lượng đại diện cần thiết để tổ chức cuộc họp, khác với quy định trong Luật DN Nếu điều lệ không có quy định cụ thể, thì các quy định của Luật DN sẽ được áp dụng.
Bài luận của Phạm Thị Xuân Mỹ (2010) tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã chỉ ra những khó khăn trong việc gửi thông báo mời họp đến "địa chỉ thường trú" của cổ đông, đặc biệt là đối với các công ty niêm yết Những vấn đề pháp lý này cần được giải quyết để đảm bảo quyền lợi của cổ đông và tính minh bạch trong các cuộc họp đại hội đồng cổ đông.
26 Tham khảo Phạm Thị Xuân Mỹ (2010), tlđd (25), tr 60 Thực trạng mời họp công ty đại chúng
Luật Đức không yêu cầu một tỷ lệ phần trăm cổ đông tối thiểu phải có mặt để tổ chức đại hội hoặc đưa ra quyết nghị, do đó, các điều lệ của công ty cổ phần (CTCP) có thể tự do quy định điều kiện này Nhờ đó, tình trạng đại hội không thể tiến hành do thiếu số lượng cổ đông cần thiết hiếm khi xảy ra.
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định điều kiện họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) cao hơn so với nhiều nước, nhằm bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số Tuy nhiên, điều này đã gây lo ngại cho các thành viên WTO, dẫn đến việc Việt Nam phải chấp nhận giảm tỷ lệ xuống còn 51% cho các công ty liên doanh trong một số lĩnh vực dịch vụ Tỷ lệ cao hiện tại cũng tạo ra khó khăn cho các công ty cổ phần có đông cổ đông, đặc biệt là các công ty niêm yết, trong việc tổ chức họp và thông qua quyết định của ĐHĐCĐ.
27 Xem Đoạn 502 và 503 Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO
Các công ty đại chúng phải tuân thủ quy định của Luật Chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) và các quy định liên quan, bao gồm: (1) công bố thông tin về cuộc họp ĐHĐCĐ trên website công ty theo Điều 101 Luật Chứng khoán 2006 và Thông tư 155/2015/TT-BTC; (2) thực hiện cuộc họp ĐHĐCĐ theo quy định tại Điều 8 Nghị định 71/2017/NĐ-CP và hướng dẫn xây dựng Điều lệ công ty trong Thông tư 95/2017/TT-BTC.
Các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) được thông qua với 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết sẽ hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi quy trình và thủ tục thông qua không tuân thủ đúng quy định.
2.1.2 Một số vướng mắc trong thực tiễn hủy nghị quyết Đại hội đồng cổ đông liên quan đến trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) được quy định rất chi tiết Tuy nhiên, sự cụ thể hóa này dẫn đến nhiều khó khăn trong thực tiễn áp dụng, với nhiều nghị quyết ĐHĐCĐ bị hủy vì lý do không hợp lý Một nghiên cứu cho thấy, 23 trong số 24 vụ án mà Tòa án nhân dân hủy quyết định của ĐHĐCĐ đều liên quan đến việc không tuân thủ đúng quy trình triệu tập và tiến hành cuộc họp.
Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông liên quan đến trình tự, thủ tục ra quyết định
2.2.1 Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông
Pháp luật doanh nghiệp quy định hai loại trình tự và thủ tục để hủy nghị quyết Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) theo khoản 1 Điều 147, bao gồm quy trình triệu tập họp và quy trình ra quyết định Nếu có vi phạm trong quy trình triệu tập họp hoặc quy trình ra quyết định, nghị quyết của ĐHĐCĐ có thể bị hủy bỏ.
Theo Luật Doanh Nghiệp 2014, trình tự và thủ tục ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) bao gồm các hình thức thông qua nghị quyết, cách thức tiến hành họp và biểu quyết trong cuộc họp, cũng như quy định về việc lấy ý kiến bằng văn bản và biên bản họp ĐHĐCĐ.
ĐHĐCĐ có thể được thông qua bằng biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản Luật DN 2014 cho phép tổ chức tham dự cuộc họp qua hội nghị trực tuyến và biểu quyết bằng bỏ phiếu điện tử, tạo điều kiện cho cổ đông gửi phiếu biểu quyết qua thư, fax, hoặc email, được xem như tham gia và biểu quyết tại cuộc họp (khoản 2 Điều 140) Quy định này mang lại cơ hội cho cổ đông, đặc biệt là cổ đông công ty đại chúng ở các khu vực khác nhau, tham gia ĐHĐCĐ, đồng thời giảm thiểu vấn đề phát sinh khi tham gia qua người đại diện Điều này hứa hẹn mang lại lợi ích kinh tế và tiện lợi cho cổ đông nhờ tiết kiệm chi phí, thời gian và công sức.
Pháp luật doanh nghiệp không chỉ quy định hình thức biểu quyết mà còn đề ra các điều kiện cần thiết để thông qua nghị quyết, theo Điều 144 của Luật Doanh Nghiệp.
Từ năm 2014, tỷ lệ tối thiểu để thông qua Nghị quyết ĐHĐCĐ đã được điều chỉnh, giảm xuống còn 65% đối với các vấn đề quan trọng và 51% cho việc lấy ý kiến bằng văn bản Đối với các vấn đề thông thường, tỷ lệ này cũng giảm xuống còn 51%, so với mức 65% trước đây.
Liên quan đến việc bầu thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban kiểm soát (BKS), Luật Doanh nghiệp 2014 quy định rằng phương thức bầu dồn phiếu vẫn được giữ nguyên (Khoản 3 Điều 144) Tuy nhiên, các công ty cổ phần (CTCP) có quyền quyết định sử dụng hoặc không sử dụng phương thức này, miễn là Điều lệ công ty không quy định phương thức khác.
Ngoài ra, cần lưu ý một số quy định sau:
Các công ty cổ phần (CTCP) ở Việt Nam, theo cam kết với WTO, có quyền quy định trong Điều lệ công ty về hình thức thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) và tỷ lệ đa số phiếu cần thiết, bao gồm cả tỷ lệ đa số đơn giản 51%, để thông qua các quyết định khác với quy định của Luật Doanh nghiệp Điều này được xác nhận trong Nghị quyết 71/2006/NQ-QH11, phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
Công ty đại chúng phải tuân thủ các quy định của Luật Chứng khoán, Nghị định 71/2017/NĐ-CP và các hướng dẫn trong Thông tư 95/2017/TT-BTC 40, cùng với các văn bản pháp lý liên quan.
Theo Khoản 2 Điều 148 Luật Doanh Nghiệp 2014, các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) có thể được xem xét hủy bỏ nếu vi phạm trình tự, thủ tục thông qua nghị quyết Tuy nhiên, nghị quyết được thông qua với 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết vẫn được coi là hợp pháp và có hiệu lực, ngay cả khi không tuân thủ đúng quy định về trình tự và thủ tục.
40 Điều 8 Nghị định 71/2017/NĐ-CP
Xem thêm các hướng dẫn xây dựng Điều lệ công ty tại Điều 20, 21, 22, 23 Điều lệ mẫu (Phụ lục số 01 Thông tư 95/2017/TT-BTC)
Việc biểu quyết bằng phương tiện điện tử cần được hướng dẫn rõ ràng để xác định danh tính cổ đông và đảm bảo an toàn giao dịch Kết quả biểu quyết phải phản ánh đúng ý chí của cổ đông, đồng thời phải tuân thủ Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin, đặc biệt là yêu cầu bảo mật thông tin Tổ chức họp ĐHĐCĐ phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục, và bất kỳ vi phạm nào cũng có thể dẫn đến việc cổ đông yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết Do đó, cần có quy định chi tiết hơn về các phương thức mới này Mặc dù còn nhiều điểm cần hoàn thiện, nhưng các quy định hiện tại đang dần phù hợp với xu hướng quốc tế và phát triển của thị trường chứng khoán.
2.2.2 Một số vướng mắc trong thực tiễn hủy nghị quyết Đại hội đồng cổ đông liên quan đến trình tự, thủ tục ra quyết định
Các công ty cổ phần (CTCP) thường tuân thủ quy định về trình tự và thủ tục ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) Tuy nhiên, có những trường hợp bị bỏ qua hoặc xem nhẹ, dẫn đến việc nghị quyết của ĐHĐCĐ bị hủy Những vấn đề thường gặp liên quan đến hủy nghị quyết bao gồm cách thức biểu quyết, bầu dồn phiếu, công bố kết quả kiểm phiếu, và thông qua biên bản họp cùng nghị quyết của ĐHĐCĐ.
- Công bố kết quả kiểm phiếu
Theo Khoản 5 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2014, kết quả kiểm phiếu cần được công bố ngay trước khi bế mạc cuộc họp, trừ khi Điều lệ có quy định khác Kết quả này cho biết vấn đề nào được Đại hội đồng cổ đông thông qua và vấn đề nào không được chấp nhận Tuy nhiên, nhiều công ty đại chúng gặp khó khăn trong việc thực hiện quy định này do thời gian kiểm phiếu kéo dài, đặc biệt là trong trường hợp bầu cử Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát theo phương thức bầu dồn phiếu.
Sau ngày họp, công ty sẽ thông báo kết quả bầu cử đến các cổ đông thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trang thông tin điện tử của mình.
Nghị quyết ĐHĐCĐ có thể bị hủy bỏ do những sai sót trong quá trình kiểm phiếu, như trường hợp của CTCP Giống cây trồng Hà Tây, nơi thông báo cho cổ đông sau bảy ngày kể từ khi bế mạc hội nghị Tuy nhiên, nếu vi phạm về thời hạn công bố kết quả kiểm phiếu không ảnh hưởng đến kết quả cuộc họp và lợi ích của cổ đông, thì không nên coi đó là lý do để hủy nghị quyết.
Vấn đề áp dụng quy định về thể thức tiến hành cuộc họp và thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ sẽ được minh chứng qua hai vụ việc cụ thể sau đây.
Thứ nhất là vụ việc của CTCP vận tải hành khách Thanh Xuân (Công ty
Căn cứ hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông liên quan đến nội
2.3.1 Quy định pháp luật về nội dung nghị quyết
Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) chỉ có hiệu lực khi nội dung của nó tuân thủ quy định pháp luật Nếu nghị quyết vi phạm pháp luật, nó có thể bị hủy bỏ theo khoản 2 Điều 147 của Luật Doanh nghiệp 2014.
Theo Điều 143 Luật Doanh Nghiệp 2014, Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) có quyền thông qua các quyết định thông qua hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản Để xác định phạm vi nội dung của nghị quyết ĐHĐCĐ, cần làm rõ các vấn đề mà ĐHĐCĐ có thẩm quyền quyết định Những vấn đề này chủ yếu được quy định tại khoản 2 của Điều 143.
135 Luật DN 2014 và có thể được xếp vào 5 nhóm cơ bản sau đây: 56
55 Hiện nay là Nghị định 96/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật DN
56 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2019), tlđd (1), tr 291-293
- ĐHĐCĐ có quyền quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán;
Quyết định các vấn đề cốt lõi liên quan đến nền tảng công ty, bao gồm việc thông qua định hướng phát triển, quyết định về cơ cấu tổ chức, cũng như thực hiện các hoạt động tổ chức lại và giải thể công ty.
Thông qua việc phân tích Báo cáo tài chính năm, Báo cáo tình hình kinh doanh và Báo cáo đánh giá công tác quản lý, công ty có thể đánh giá hiệu quả quản lý của các lãnh đạo Dựa trên những đánh giá này, công ty sẽ quyết định bầu, miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm các thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT), Giám đốc (GĐ) hoặc Tổng Giám đốc (TGĐ), cũng như thực hiện khen thưởng hoặc quy trách nhiệm đối với các chức danh này.
- Quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ đồng;
Quyết định đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty sẽ được thực hiện, trừ khi điều lệ công ty quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác.
Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) không chỉ có những thẩm quyền theo quy định của Luật Doanh Nghiệp 2014 và Điều lệ công ty, mà còn phụ thuộc vào nhu cầu thực tiễn và đặc thù ngành nghề kinh doanh của công ty cổ phần (CTCP) Nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ có thể khác nhau giữa các công ty đại chúng và công ty niêm yết, đồng thời cũng phải tuân thủ các quy định pháp luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn liên quan.
2.3.2 Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các căn cứ hủy do nội dung của nghị quyết Đại hội đồng cổ đông vi phạm pháp luật
Mặc dù pháp luật không cho phép, nhiều quyết định của ĐHĐCĐ vẫn vi phạm quy định pháp luật do thiếu hiểu biết hoặc vì lợi ích cá nhân Thực tiễn cho thấy nhiều nghị quyết bị hủy bỏ do nội dung vi phạm rõ ràng, như yêu cầu cổ đông bồi thường thua lỗ hay không công nhận quyền dự họp của cổ đông Ngoài ra, một số nội dung gây khó khăn cho Tòa trong việc xác định vi phạm, như trường hợp của CTCP đầu tư Bất động sản HAPULICO.
57 Trương Thanh Hòa (2012), tlđd (4), tr 32
Vào năm 2009, Công ty Ba Đình, đại diện bởi ông Nguyễn Tiến Trung, đã vay 45 tỷ đồng từ Công ty Hapulico thông qua ba hợp đồng tín dụng mà ông Trung tự ý ký kết, vượt quá vốn góp của Ba Đình Sau khi phát hiện, HĐQT Công ty Hapulico yêu cầu Ba Đình hoàn trả số tiền vay nhưng không thành công Ngày 01.08.2009, ĐHĐCĐ của Hapulico đã ra quyết định bãi miễn tư cách cổ đông của Ba Đình Tuy nhiên, chỉ 5 ngày sau, Ba Đình đã chuyển trả toàn bộ số tiền vay nhưng Hapulico từ chối nhận Ngày 11.08.2009, Hapulico thông qua nghị quyết bãi miễn tư cách cổ đông của Ba Đình và bãi miễn chức danh HĐQT của ông Trung Công ty Ba Đình đã không chấp nhận quyết định này và yêu cầu hủy bỏ nghị quyết số 31/2009/NQ-ĐHĐCĐ.
Trong quá trình xét xử, các cơ quan chức năng đã điều tra được rằng Công ty
Công ty Ba Đình không đủ năng lực tài chính để góp vốn vào Công ty Hapulico, mà số tiền góp vốn thực chất là khoản vay từ Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội và CTCP đầu tư phát triển đô thị và thương mại Để trả nợ, Ba Đình đã vay lại từ Hapulico, tạo ra nhiều tranh cãi về tính hợp pháp của việc bãi miễn tư cách cổ đông trong nghị quyết của Hapulico Các thẩm phán đã phân tích hành vi vay tín dụng của Ba Đình từ chính công ty mình góp vốn, nhằm xác định liệu đây có phải là hành vi rút vốn hay không, từ đó đánh giá tính đúng đắn của nội dung bãi miễn tư cách cổ đông trong nghị quyết, do pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này.
Vào ngày 14/9/2011, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 14/2011/KDTM-GĐT, trong đó nêu rõ rằng Công ty Ba Đình đã vay 21 tỷ đồng từ CTCP Đầu tư phát triển đô thị và thương mại với thời hạn 6 tháng để thực hiện góp vốn Ngày 10-6-2008, ông Trung, Tổng Giám đốc Công ty Hapulico, đã sử dụng số tiền 21 tỷ đồng trong tài khoản của công ty này để ký hợp đồng bảo lãnh cho Công ty Ba Đình, mà ông cũng là Chủ tịch HĐQT, vay từ Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà.
Hà Nội đã cho vay 20 tỷ đồng với thời hạn 1 tháng để tiếp tục góp vốn Ông Trung, đại diện Công ty Hapulico, đã ký ba hợp đồng tín dụng cho Công ty Ba Đình vay tổng cộng 45 tỷ đồng nhằm mục đích trả nợ cho hai đơn vị mà Công ty Ba Đình đã vay trước đó để góp vốn điều lệ.
60 Xem thêm quan điểm của các thẩm phán, Trương Thanh Hòa (2012), tlđd (4), tr 37-39
Hành vi vay tín dụng từ Công ty Hapulico của Công ty Ba Đình có thể được coi là hành vi rút vốn trái quy định Luật Doanh nghiệp, điều này đã thu hút sự chú ý của dư luận và cơ quan nhà nước Mặc dù không phải là hình thức rút vốn truyền thống như mua lại cổ phần hay thừa kế, nhưng pháp luật doanh nghiệp đã quy định rằng cổ đông rút vốn trái quy định sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới về nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần đã rút.
Việc công nhận hành vi rút vốn đã dẫn đến việc Công ty Ba Đình không còn sở hữu cổ phần trong Công ty Hapulico, đồng nghĩa với việc công ty này không còn là cổ đông Điều này được quy định rõ trong Khoản 11 Điều 4 của Luật Doanh Nghiệp 2005 và Khoản 2 Điều 4 của Luật Doanh Nghiệp.
Năm 2014, tư cách cổ đông gắn liền với cổ phần không thể bị tự ý ban phát hay bãi miễn bởi bất kỳ cơ quan hay bộ phận nào Việc Đại hội đồng cổ đông Công ty Hapulico ra nghị quyết bãi miễn tư cách cổ đông của Công ty Ba Đình chỉ là một bước đi thận trọng nhưng không thực sự cần thiết.
Việc xác định Công ty Ba Đình không còn là cổ đông của Công ty Hapulico do đã rút hết vốn có thể dẫn đến việc “cho phép” hành vi rút vốn không đúng quy định trong các công ty cổ phần khác, tạo ra tiền lệ xấu cho các cổ đông Trong trường hợp rút vốn trái phép, cần yêu cầu hoàn trả vốn, bồi thường thiệt hại (nếu có) và chịu trách nhiệm về các khoản nợ phát sinh hoặc có thể tiến hành kiện tụng.