1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp ở việt nam

85 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 1,34 MB

Cấu trúc

  • 1.1 Khái niệm quyền lập pháp và phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước (9)
    • 1.1.1 Khái niệm quyền lập pháp (9)
    • 1.1.2 Khái niệm phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước (11)
  • 1.2 Tính tất yếu trong việc phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước (15)
  • 1.3 Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp ở một số quốc gia trên thế giới (19)
    • 1.3.1 Vương quốc Anh (19)
    • 1.3.2 Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (26)
    • 1.3.3 Cộng hòa Pháp (31)
    • 1.3.4 Nhận xét chung về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp ở một số các quốc gia trên thế giới (36)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP VÀ KIỂM SOÁT THỰC HIỆN QUYỀN LẬP PHÁP GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM (40)
    • 2.1 Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp qua các bản Hiến pháp Việt Nam (40)
      • 2.1.1 Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp trong Hiến pháp năm 1946 (40)
      • 2.1.2 Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp trong Hiến pháp năm 1959 (44)
      • 2.1.4 Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) (55)
      • 2.1.5 Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp trong Hiến pháp năm 2013 (61)
    • 2.2 Một số hạn chế của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước qua các bản Hiến pháp (67)
    • 2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện (71)
      • 2.3.1 Về phân công thực hiện quyền lập pháp (71)
      • 2.3.2 Về phối hợp thực hiện quyền lập pháp (73)
      • 2.3.3 Về kiểm soát thực hiện quyền lập pháp (74)

Nội dung

Khái niệm quyền lập pháp và phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước

Khái niệm quyền lập pháp

Quyền lập pháp là một khái niệm quan trọng trong khoa học pháp lý, phát sinh từ quyền lực nhà nước theo học thuyết phân quyền của Jonh Locke và Montesquieu Quyền này được thực hiện bởi cơ quan đại diện của nhân dân, thường được gọi là Nghị viện hoặc Quốc hội, tùy thuộc vào mô hình tổ chức nhà nước của mỗi quốc gia Sự hiểu biết về quyền lập pháp đã có sự thay đổi qua các thời kỳ, và việc tìm hiểu khái niệm này là cần thiết để xây dựng một cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp một cách hiệu quả.

Quyền lập pháp mang bản chất đại diện, thực hiện bởi cơ quan đại diện cho nhân dân, nơi các thành viên được bầu trực tiếp bởi người dân Montesquieu đã chỉ ra rằng quyền lập pháp cần được giao cho cơ quan đại diện do dân bầu ra, thể hiện ý chí chung của quốc gia Quyền lập pháp được thể hiện qua hai quyền chính: quyền biểu quyết thông qua luật và quyền giám sát Từ đó, ba chức năng chính của cơ quan lập pháp hình thành, bao gồm chức năng đại diện, chức năng lập pháp và chức năng giám sát, trong đó chức năng đại diện là yếu tố chủ đạo, chi phối các hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Cao Anh Đô (2013) đã nghiên cứu về sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tại Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước để đảm bảo hiệu quả trong quản lý và thực thi pháp luật Nghiên cứu này được xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia tại Hà Nội, trang 18.

Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay được nghiên cứu bởi Nguyễn Minh Đoan trong tác phẩm xuất bản năm 2016 Nội dung của nghiên cứu này tập trung vào các phương thức và quy định pháp lý nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần vào việc duy trì ổn định và phát triển của hệ thống chính trị Việt Nam.

3 Vũ Văn Nhiêm (2010), “Tiêu chí và yếu tố đảm bảo hiệu quả tính đại diện của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (16), tr 23

Quyền lập pháp không chỉ đơn thuần là quyền soạn thảo và biểu quyết thông qua luật của cơ quan đại diện nhân dân, mà còn bao gồm quyền làm luật, ban hành luật và quyền giám sát, một quyền phái sinh từ bản chất của quyền lập pháp Các nhà nghiên cứu thường phân chia quyền lập pháp thành hai cách hiểu: theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng, liên quan đến Quốc hội hoặc Nghị viện.

Quyền lập pháp theo nghĩa hẹp được giải thích không đồng nhất với quyền làm luật trong một số nghiên cứu, với ý kiến của một số tác giả cho rằng

Quyền lập pháp cốt lõi nằm ở việc Quốc hội có quyền đồng ý hoặc không đồng ý thông qua chính sách hay dự luật Theo một số tác giả, Quốc hội nắm quyền lập pháp có nghĩa là chỉ khi Quốc hội thông qua, dự luật mới trở thành luật Điều này cho thấy hoạt động lập pháp của Quốc hội chủ yếu là xem xét, thẩm tra và thông qua các chính sách do hành pháp đề trình, biến dự thảo thành quy tắc xử sự có hiệu lực Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng quyền lập pháp có phạm vi rộng hơn, bao gồm quyền ban hành và sửa đổi luật, với Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Một số tác giả nhấn mạnh rằng Quốc hội thực sự nắm trọn quyền lập pháp và có khả năng làm luật cũng như sửa đổi luật.

Quyền lập pháp không chỉ liên quan đến việc thảo luận và ban hành các văn bản pháp luật, mà còn bao gồm những hoạt động khác tạo nền tảng hợp pháp cho các cơ quan trong nhà nước dân chủ Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992 và 2013, đã nhấn mạnh rằng quyền lập pháp bao gồm cả quyền làm luật và sửa đổi luật, với Quốc hội giữ vai trò quan trọng trong quá trình này.

Cao Anh Đô (2012) đã thảo luận về quyền lập pháp và mô hình lập pháp trong bài viết của mình Để tìm hiểu chi tiết, bạn có thể truy cập vào liên kết sau: http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/NhaNuocVaPhapLuat/View_detail.aspx?ItemIDw.

5 Nguyễn Sĩ Dũng (2017), “Về quyền lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (1+2), tr 9

Trong tác phẩm "Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do Trần Ngọc Đường chủ biên (2011), vấn đề phân công và phối hợp quyền lực được phân tích một cách sâu sắc Cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực nhằm đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong hoạt động của nhà nước Những nội dung này góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Cao Anh Đô (2013) đã nghiên cứu về việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tại Việt Nam Nghiên cứu này được xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia tại Hà Nội, trang 18.

8 Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 651

9 Nguyễn Đình Quyền (2017), “Quy trình lập pháp ở Việt Nam và vai trò của đại biểu Quốc hội”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (10), tr.4

10 Nguyễn Đăng Dung chủ biên (2012), Những vấn đề về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, NXB Dân trí, Hà

Quyền lập pháp được hiểu là quyền làm luật và sửa đổi luật, theo quy định tại Điều 11 Quốc hội có thẩm quyền cụ thể trong việc này, cho phép thực hiện các hoạt động lập pháp một cách hợp pháp.

Quyền lập pháp, dù được hiểu theo nghĩa hẹp hay rộng, đều khẳng định rằng Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân và nắm giữ quyền này để thể hiện ý chí của họ trong hoạt động lập pháp Quốc hội có trách nhiệm ban hành các đạo luật chất lượng, điều chỉnh kịp thời các vấn đề xã hội Quyền lập pháp được hiểu rộng rãi bao gồm nhiều hoạt động như quyền sáng kiến, soạn thảo, xem xét, thông qua và công bố luật, nhằm xây dựng một đạo luật hoàn chỉnh Quốc hội phải đảm bảo ý chí của nhân dân được thể hiện qua các đạo luật quan trọng của quốc gia thông qua việc thảo luận, giám sát và thực hiện quyền lập pháp Tuy nhiên, tùy vào tình hình thực tế, Quốc hội sẽ phối hợp và kiểm soát thực hiện một hoặc một số quyền lập pháp với các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước, điều này cũng phản ánh cách hiểu quyền lập pháp mà tác giả đề cập.

Khái niệm phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước

Mặc dù Quốc hội nắm giữ quyền lập pháp, nhưng hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Sự phân công rõ ràng và sự hợp tác nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước là yếu tố then chốt để đảm bảo kiểm soát hiệu quả quyền lập pháp Do đó, việc phân tích nội dung và mục đích của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp là rất cần thiết.

Phân công thực hiện quyền lực nhà nước là việc giao cho một hoặc một nhóm cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lực và chức năng cụ thể.

11 Điều 83 Hiến pháp năm 1992 và Điều 69 Hiến pháp năm 2013

Phân công thực hiện quyền lập pháp là việc giao cho một hay một nhóm cơ quan thực hiện các bước trong quá trình lập pháp, bắt nguồn từ bản chất và nội dung của quyền này Quyền lập pháp chủ yếu thuộc về cơ quan đại diện của nhân dân, tức là Quốc hội, đơn vị này chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện quyền lập pháp Quốc hội có thể phân công quyền lập pháp cho các chủ thể khác, nhưng vẫn phải đảm bảo quyền đồng ý hay không đồng ý đối với các dự luật Quá trình phân công này bao gồm việc trao một số quyền trong quy trình lập pháp cho các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.

Quy trình lập pháp là một chuỗi các bước chặt chẽ và nghiêm ngặt để ban hành một đạo luật, bao gồm các giai đoạn như sáng kiến pháp luật, soạn thảo văn bản, trình dự án luật, thẩm tra, thảo luận và thông qua Quốc hội giữ quyền thẩm tra và thông qua dự luật mà không cần thực hiện toàn bộ quy trình, nhưng vẫn cần sự tham gia của các cơ quan khác như Chính phủ và Tòa án để kịp thời phát hiện và điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong xã hội Sự tham gia này là cần thiết nhằm đảm bảo rằng pháp luật phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội.

Mục đích của việc phân công quyền lập pháp là nhằm nâng cao tính chuyên môn và hiệu quả trong hoạt động lập pháp Mỗi cơ quan cần tập trung thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình một cách hiệu quả Ví dụ, Chính phủ nên chú trọng vào việc thực hiện quyền sáng kiến pháp luật.

12 Nguyễn Minh Đoan (2010), “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và việc thực hiện quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (21), tr 11

Cao Anh Đô (2013) trong tác phẩm "Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam" đã nêu rõ vai trò quan trọng của việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp Sự hợp tác này không chỉ đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý nhà nước mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan chức năng.

Quốc hội cần tập trung vào công tác thẩm tra và đánh giá các dự án luật, đồng thời tăng cường tính chuyên môn và chuyên nghiệp trong hoạt động lập pháp Cơ chế phân công quyền lập pháp đặt ra giới hạn nhằm ngăn ngừa việc Quốc hội can thiệp vào công việc của các cơ quan nhà nước khác, thông qua việc quy định rõ thẩm quyền lập pháp của Quốc hội và thẩm quyền lập quy của Chính phủ Thẩm quyền của Quốc hội cần được xác định rõ trong các lĩnh vực quan trọng liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, quyền con người và quyền công dân Các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ phải tuân thủ các quy định trong Hiến pháp và luật do Quốc hội ban hành.

Khi quyền lập pháp được phân công rõ ràng, sự phối hợp thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước trở nên cần thiết để đảm bảo tính kịp thời, phù hợp và hiệu lực của các đạo luật Các cơ quan nhà nước phải hỗ trợ lẫn nhau, ví dụ như Chính phủ đề xuất chính sách lên Quốc hội, sau đó soạn thảo và trình Quốc hội xem xét Mục tiêu cuối cùng không chỉ là thông qua văn bản luật mà còn là đảm bảo các văn bản đó được thực thi trong thực tế, phụ thuộc vào các cơ quan hành pháp Sự phối hợp này thể hiện qua việc thực hiện nhiệm vụ đã được phân công, với Chính phủ nhận diện vấn đề cần điều chỉnh, nghiên cứu và soạn thảo dự luật, trong khi Quốc hội tập trung vào nghiên cứu, thảo luận và thông qua Quy trình làm luật bao gồm hai giai đoạn chính: nhận biết vấn đề và thiết kế chính sách, cùng với thẩm định và thông qua chính sách Hoạt động công bố luật cũng là một phần quan trọng trong cơ chế tổ chức bộ máy nhà nước.

14 Nguyễn Minh Đoan (2010), “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và việc thực hiện quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (21), tr 11

15 Nguyễn Sĩ Dũng (2007), “Thử bàn về việc đổi mới hoạt động lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

6 đọc thông điệp của Nguyên thủ Quốc gia trước cơ quan lập pháp trong một số bộ máy nhà nước

Sự phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả, dựa trên sự phân công rõ ràng quyền lực Khi các cơ quan nhà nước được phân công công việc một cách rõ ràng và thực hiện đầy đủ trách nhiệm, sự phối hợp sẽ diễn ra tự nhiên Điều này không chỉ giúp kiểm soát và chế ước quyền lực giữa các cơ quan nhà nước, mà còn hạn chế xung đột trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước, từ đó giảm thiểu nguy cơ lạm dụng quyền lực.

Việc thiết lập cơ chế phân công và phối hợp trong thực hiện quyền lập pháp là cần thiết để kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước Kiểm soát quyền lập pháp không chỉ là một phần của cơ chế kiểm soát nhà nước mà còn yêu cầu Quốc hội tự kiểm soát hoạt động của mình và thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước Nội dung kiểm soát quyền lập pháp bao gồm việc Quốc hội phải tự giám sát bản thân, bởi vì chính quyền cần phải có khả năng kiểm soát những người bị quản lý và đồng thời có nghĩa vụ kiểm soát chính mình Do Quốc hội có phạm vi tác động rộng lớn trên toàn quốc, việc giám sát và kiểm soát hoạt động của Quốc hội là điều vô cùng quan trọng.

Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các cơ quan nhà nước khác trong quá trình thực hiện quyền lập pháp, đặc biệt là tham gia vào quy trình lập pháp Điều này thể hiện qua quyền xem xét và kiểm tra các đề xuất từ phía hành pháp nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh Các cơ quan hành pháp, với vai trò là cơ quan quản lý, thường đưa ra các giải pháp thuận lợi cho chính mình, vì không ai muốn tự đặt ra quy định gây khó khăn cho hoạt động của mình Hơn nữa, do tính chất chuyên môn, các giải pháp này có thể mang tính cục bộ Do đó, Quốc hội, với vai trò là ngành lập pháp, sẽ cần can thiệp để đảm bảo tính khách quan và toàn diện trong quy trình lập pháp.

16 Nguyễn Đăng Dung (2011), “Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Khoa học pháp lý,

7 hành kiểm tra những giải pháp ấy để ngăn ngừa sự xâm phạm đến quyền lợi chung của xã hội

Các cơ quan nhà nước khác có trách nhiệm kiểm soát hoạt động lập pháp của Quốc hội, đảm bảo mọi hoạt động đều tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Sự kiểm soát này được thể hiện qua các phương thức cụ thể nhằm duy trì tính hợp pháp và hiệu quả trong quá trình lập pháp.

Hiến pháp và các đạo luật khác xác định khả năng và quy tắc nhằm giám sát tính hợp hiến và hợp pháp của các đạo luật, từ đó đảm bảo quyền lập pháp được thực hiện hiệu quả trong khuôn khổ quy định Việc phân công và phối hợp thực hiện quyền lập pháp yêu cầu kiểm soát bao gồm phạm vi quyền lập pháp, tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp thông qua, cũng như quy trình và thủ tục thực hiện quyền lập pháp.

Kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền lập pháp, nhằm ngăn ngừa lạm quyền và bảo vệ lợi ích xã hội Việc kiểm soát này không chỉ quan trọng trong việc giám sát hành pháp và tư pháp mà còn yêu cầu sự rõ ràng về thẩm quyền và tính chuyên môn trong quy trình lập pháp Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước là cần thiết để đảm bảo quyền lập pháp được thực hiện kịp thời và hiệu quả Qua đó, kiểm soát từ Quốc hội và các cơ quan khác sẽ giúp ngăn chặn vi hiến và lạm quyền trong thực thi quyền lập pháp.

Tính tất yếu trong việc phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước

Trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”, Jean – Jacques Rousseau (1712 –

Cơ thể chính trị giống như con người, cần hai động lực chính để hoạt động là ý chí và sức mạnh Ý chí của toàn thể nhân dân được thể hiện qua hoạt động lập pháp do cơ quan đại diện nhân dân thực hiện, trong khi sức mạnh quốc gia được thể hiện qua hoạt động hành pháp của Chính phủ.

Bài viết của Lê Văn Cảm và Dương Bá Thành (2010) trình bày về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm cả quyền lập pháp, trong bối cảnh nhà nước pháp quyền Tác giả nêu ra một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến sự cần thiết của việc kiểm soát quyền lực để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan nhà nước Nghiên cứu này góp phần làm rõ vai trò của cơ chế kiểm soát trong việc duy trì sự cân bằng quyền lực và bảo vệ quyền lợi của công dân.

Trong tác phẩm "Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do Trần Ngọc Đường chủ biên (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 455, tác giả phân tích các khía cạnh quan trọng của việc phân công và phối hợp quyền lực trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam Nội dung bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực nhằm đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước.

Tư pháp được coi là "vị trí thiêng liêng nhất" trong hệ thống quyền lực nhà nước, bảo vệ luật pháp do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và Chính phủ thực thi Thuyết phân quyền nhấn mạnh việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực, bảo vệ quyền con người Phân công quyền lực giữa ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp tạo ra cơ chế kiểm soát hiệu quả, giúp các cơ quan chuyên môn hóa và thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất Sự phân công này mang lại sự rõ ràng trong tổ chức quyền lực nhà nước, trong khi phối hợp đảm bảo tính thống nhất, vì không có cơ quan nào có thể hoạt động độc lập trong bộ máy nhà nước.

Nghị viện có trách nhiệm ban hành luật, tạo cơ sở cho Chính phủ thực thi và áp dụng trong đời sống xã hội, đồng thời giúp Tòa án thực hiện chức năng xét xử, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ công lý Quyền lập pháp, là một trong ba nhánh quyền lực theo học thuyết phân quyền, cần được phân công, phối hợp và kiểm soát để đảm bảo sự cân bằng quyền lực trong Nhà nước Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc phân công và kiểm soát quyền lập pháp càng trở nên quan trọng hơn do những yêu cầu khách quan trong xã hội hiện nay.

Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp hiệu quả là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội và quản lý xã hội của nhà nước Học thuyết phân quyền cho thấy nhánh lập pháp cần sự phối hợp với các cơ quan khác, tránh tình trạng hoạt động độc lập như các bánh răng rời rạc Quốc hội, với chức năng xây dựng luật, cần đảm bảo chất lượng luật để quá trình thực thi pháp luật của Chính phủ diễn ra suôn sẻ, đồng thời bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước tại Việt Nam hiện nay được nghiên cứu bởi Nguyễn Minh Đoan trong tác phẩm năm 2016, xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia Nghiên cứu này đề cập đến các cơ quan nhà nước và cách thức kiểm soát quyền lực của họ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sự cân bằng và minh bạch trong quản lý nhà nước.

20 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.18

Các hoạt động lập pháp không hiệu quả và thiếu tính khách quan sẽ khiến các bộ luật chỉ tồn tại trên giấy, không thể áp dụng vào thực tiễn Quyền lập pháp, đại diện cho ý chí của nhân dân, cần được kiểm soát cẩn trọng vì Quốc hội là cơ quan do dân bầu ra Để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả, các nhà làm luật nên là những người có kinh nghiệm và tính thận trọng Nhiều quốc gia áp dụng cơ chế hai viện, trong đó dự luật phải được thông qua bởi cả Hạ viện và Thượng viện, và có thể bị phủ quyết bởi nguyên thủ quốc gia Quốc hội cần có trách nhiệm đối với các vấn đề thuộc phạm vi luật pháp theo quy định của Hiến pháp, nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước và đảm bảo các quan chức chịu trách nhiệm về hành vi của mình Qua đó, việc phân công và kiểm soát quyền lập pháp sẽ giúp Quốc hội hoạt động hiệu quả, từ đó nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước và phục vụ lợi ích chung của xã hội.

Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp là yếu tố quan trọng giúp đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân Montesquieu nhấn mạnh rằng quyền lập pháp cần được giao cho một cơ quan đại diện, điều này khẳng định vai trò của đại diện trong việc thực thi quyền lực.

Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay được nghiên cứu bởi Nguyễn Minh Đoan (2016) trong tác phẩm xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia Nghiên cứu này đề cập đến các phương thức và quy định nhằm đảm bảo sự kiểm soát và giám sát quyền lực nhà nước, góp phần vào việc xây dựng một hệ thống chính trị minh bạch và hiệu quả.

22 Nguyễn Đăng Dung (2011), “Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Khoa học pháp lý,

Quyền lập pháp là một phần quan trọng của quyền lực nhà nước, xuất phát từ quyền lực của nhân dân, những người ủy quyền cho nhà nước thông qua các hình thức dân chủ khác nhau, đặc biệt là dân chủ đại diện Trong các hệ thống dân chủ hiện đại, việc công nhận quyền lực nhà nước được hình thành từ sự ủy quyền của nhân dân là rất quan trọng, được thể hiện qua Hiến pháp và các quy định pháp luật Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, có trách nhiệm phân công và giám sát việc thực hiện quyền lực này Để ngăn chặn tình trạng lạm quyền, việc kiểm soát quyền lực nhà nước cần được thực hiện thường xuyên và chất lượng, thông qua cơ chế kiểm tra chéo giữa các cơ quan nhà nước Điều này đảm bảo rằng quyền lực không bị tập trung và tránh được sự chuyên chế độc tài, đồng thời khẳng định quyền lập pháp phải phản ánh bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp là những yếu tố quan trọng giúp ngăn ngừa lạm quyền và vi phạm Hiến pháp Sự phát triển bền vững của một quốc gia phụ thuộc vào việc thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước một cách chính xác Việc phân công quyền lập pháp xác định rõ ràng thẩm quyền của các cơ quan thực hiện quyền này, với Hiến pháp là văn bản ghi nhận sự phân công quyền lực Đảm bảo Hiến pháp có hiệu lực tối cao yêu cầu các cơ quan nhà nước hoạt động theo quy định của Hiến pháp, từ đó bảo đảm mỗi cơ quan thực hiện đúng thẩm quyền được giao Quyền lập hiến thuộc về nhân dân, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, và Hiến pháp cần được xây dựng bởi chính nhân dân.

Trong tác phẩm "Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do Trần Ngọc Đường chủ biên (2011), vấn đề phân công và phối hợp quyền lực được phân tích sâu sắc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Nội dung sách cung cấp cái nhìn toàn diện về các khía cạnh liên quan đến việc tổ chức và quản lý quyền lực nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong bộ máy nhà nước.

24 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.28

Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc phân định quyền lực nhà nước, và việc xác định rõ phạm vi thẩm quyền sẽ ngăn ngừa tình trạng ôm đồm quyền lực Phối hợp thực hiện quyền lập pháp không chỉ giúp các cơ quan nhà nước kiểm tra, đánh giá lẫn nhau mà còn ngăn chặn lạm quyền và việc ban hành văn bản trái với Hiến pháp, từ đó bảo vệ lợi ích xã hội Kiểm soát quyền lập pháp là cần thiết để Quốc hội tránh ban hành các đạo luật xâm phạm quyền tự do con người, bởi vì trong các nhánh quyền lực, lập pháp có nguy cơ cao nhất trong việc điều chỉnh và kiểm soát hành vi của công dân thông qua luật pháp.

Nhu cầu phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp là yếu tố thiết yếu trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước Việc này không chỉ nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội trong lập pháp mà còn thiết lập cơ chế ngăn ngừa lạm quyền, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trong các hoạt động của ngành lập pháp và toàn bộ bộ máy nhà nước.

Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp ở một số quốc gia trên thế giới

Vương quốc Anh

Mô hình tổ chức nhà nước ở Anh là ví dụ điển hình cho chính thể cộng hòa đại nghị, được áp dụng tại nhiều quốc gia châu Âu như Đức, Áo, Italia, cũng như ở châu Á như Ấn Độ và các nước từng là thuộc địa của Anh như Canada Chính thể này dựa trên nguyên tắc phân chia quyền lực một cách linh hoạt, kết hợp giữa hành pháp và lập pháp Hành pháp được thành lập dựa trên cơ sở lập pháp và chịu trách nhiệm trước cơ quan này.

25 Nguyễn Mạnh Hùng (2011), “Kiểm soát quyền lập pháp với việc đảm bảo quyền con người”, Tạp chí

Khoa học pháp lý, (04), tr 21

26 Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr

Nghị viện, cơ quan quyền lực tối cao do nhân dân bầu ra, có quyền lật đổ Chính phủ khi không còn sự tín nhiệm Tuy nhiên, sự can thiệp của đảng phái chính trị đã làm thay đổi mối quan hệ này, cho phép Chính phủ thao túng Nghị viện và thậm chí giải tán Nghị viện vì lợi ích chính trị Trong chế độ cộng hòa đại nghị, Nguyên thủ quốc gia thường chỉ mang tính biểu tượng, không có thực quyền, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hợp thức hóa quyết định của các cơ quan nhà nước Tại Anh, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, gồm Thượng viện và Hạ viện, trong khi Chính phủ được hình thành từ Hạ viện, với Thủ tướng là người đứng đầu và là thành viên của Hạ viện Cơ chế phân công và kiểm soát quyền lập pháp giữa các cơ quan ở Anh được thể hiện rõ ràng.

Sự phân công thực hiện quyền lập pháp ở Anh được thể hiện qua việc phân định thẩm quyền giữa Hạ viện và Thượng viện Hạ viện có vị thế cao hơn, đặc biệt là trong các vấn đề ngân sách, theo quy định của Luật về hoạt động của Nghị viện năm 1911 Các dự luật tài chính sẽ trở thành luật trong vòng 30 ngày sau khi Hạ viện thông qua, trong khi Thượng viện có thể trì hoãn biểu quyết các dự án luật khác tối đa là hai năm, nhưng theo đạo luật năm 1949, thời gian này chỉ còn một năm Do đó, một dự luật đã được Hạ viện thông qua gần như chắc chắn sẽ trở thành luật, bất chấp sự trì hoãn của Thượng viện Như vậy, chế độ lưỡng viện ở Anh thực chất đã không còn hiệu lực, với Thượng viện chỉ đóng vai trò hạn chế.

Điều 1 của Luật về hoạt động của Nghị viện năm 1911 quy định quyền hạn của Thượng viện đối với các đạo luật tài chính Nếu một đạo luật tài chính đã được Hạ viện thông qua và chuyển cho Thượng viện ít nhất một tháng trước khi kỳ họp kết thúc, thì nếu Thượng viện không thông qua đạo luật mà không có thay đổi nào trong thời gian một tháng đó, và Hạ viện cũng không thay đổi, đạo luật sẽ được trình lên Bệ hạ và trở thành luật đã được Hoàng gia công nhận mà không cần sự phê duyệt của Thượng viện.

Khoản 1 Điều 2 của Luật về hoạt động của Nghị viện năm 1911 quy định rằng quyền hạn của Thượng viện bị hạn chế đối với các đạo luật không liên quan đến tài chính Nếu một đạo luật công được Hạ viện thông qua và gửi lên Thượng viện ít nhất một tháng trước khi kết thúc kỳ họp, nhưng bị Thượng viện từ chối, thì đạo luật đó vẫn có thể được trình lên Bệ hạ và trở thành luật với sự công nhận của Hoàng gia mà không cần sự đồng ý của Thượng viện trong vòng hai năm kể từ lần đọc thứ hai tại Hạ viện, trừ khi Hạ viện thay đổi nội dung của đạo luật.

The 1949 amendment to the Parliament Act stipulates the alteration of the phrase "within two years" to "within one year" in Section 2 of the Parliament Act of 1911 For further details, you can refer to the official legislation link provided.

Nghị viện Anh, mặc dù có tính chất tượng trưng, nhưng thực tế không còn quyền lực thực sự trong việc làm luật, vì Hạ viện mới là cơ quan quyết định trong quá trình thông qua luật Hơn nữa, phạm vi lập pháp của Nghị viện Anh không bị giới hạn.

Nghị viện Anh có quyền lực vượt trội, được hình thành từ lý thuyết tôn sùng Nghị viện trong tổ chức nhà nước, với quyền lực chuyển giao từ Nhà vua qua cách mạng tư sản Nghị viện đã khẳng định vị trí tối cao của mình do được bầu ra bởi nhân dân, trở thành tiếng nói chính trong hệ thống chính trị, so với Chính phủ và Tòa án tối cao Hiến pháp Anh là hiến pháp không thành văn, có giá trị tương đương với các đạo luật khác, và sự khác biệt nằm ở tính chất hiến pháp của nội dung các đạo luật Việc xâm phạm Hiến pháp là khó khăn, vì các quy định chủ yếu dựa trên tập tục chính trị đã được nhân dân tin tưởng và thực hiện lâu dài Do đó, mặc dù Nghị viện có thể sửa đổi Hiến pháp, việc thực thi các quy định này sẽ không khả thi nếu không được nhân dân thừa nhận.

Mặc dù Nghị viện có khả năng thực hiện quy trình lập pháp, Chính phủ vẫn giữ quyền trình dự án luật Chính phủ, cùng với các Nghị sĩ, là cơ quan duy nhất có quyền đề xuất các đạo luật để Nghị viện xem xét và thông qua Những dự luật này thường nằm trong chương trình nghị sự của Chính phủ và cương lĩnh của Đảng cầm quyền Mối liên hệ giữa cương lĩnh Đảng và chương trình Chính phủ được thể hiện qua hoạt động bầu cử Nghị viện, nơi nhân dân lựa chọn Thủ tướng, lãnh đạo Đảng cầm quyền Thủ tướng, với vai trò đứng đầu Chính phủ, sẽ thực hiện các chính sách trong cương lĩnh qua việc soạn thảo đạo luật mới Chương trình này thường được Nguyên thủ quốc gia trình bày tại Hạ viện vào đầu mỗi nhiệm kỳ.

30 Xem thêm tại http://www.parliament.uk/site-information/glossary/queens-speech/

Chính phủ có quyền sáng kiến lập pháp, trong khi Nghị viện chủ yếu thực hiện vai trò xem xét và thảo luận các dự luật do Chính phủ đề trình Quy trình này bao gồm năm bước: Lần đọc thứ nhất để giới thiệu dự luật, lần đọc thứ hai để thảo luận các nội dung chính, quá trình xem xét bởi Ủy ban chuyên trách, giai đoạn báo cáo trước Nghị viện, và cuối cùng là lần đọc thứ ba để thảo luận và bỏ phiếu cho dự luật.

Ở Anh, ủy quyền lập pháp là hiện tượng phổ biến, cho phép Chính phủ ban hành văn bản pháp luật phái sinh dựa trên các đạo luật của Nghị viện mà không cần quy định chi tiết Mục đích của ủy quyền lập pháp là để quy định những nội dung kỹ thuật, chi tiết mà nếu đưa vào luật sẽ làm tăng dung lượng văn bản Ngoài ra, ủy quyền lập pháp còn được áp dụng trong các trường hợp cần quy định nội dung có mức độ biến động lớn, giúp quy trình sửa đổi kịp thời phản ứng với tình hình.

Sự phối hợp thực hiện quyền lập pháp ở Anh được thể hiện qua việc Chính phủ trình dự án luật và Tòa án tối cao giải thích luật Các chủ thể có quyền trình dự án luật bao gồm Chính phủ và các Nghị sĩ từ hai viện Đối với dự án luật tài chính, Chính phủ có quyền độc quyền trong việc trình dự án lên Hạ viện trước, và mọi sửa đổi cần sự chấp thuận của Bộ trưởng phụ trách Bộ trưởng có quyền quyết định tiếp thu hoặc không tiếp thu ý kiến từ Ủy ban Nghị viện Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Đảng chính trị, kỷ luật Đảng thường giúp Chính phủ chiếm ưu thế trong quá trình này.

31 Xem thêm tại https://www.gov.uk/guidance/legislative-process-taking-a-bill-through-parliament

32 Điều 1 Luật về văn bản pháp quy năm 1946, xem chi tiết tại http://www.legislation.gov.uk/ukpga/Geo6/9- 10/36/section/1

33 Xem thêm tại http://www.parliament.uk/about/how/laws/bills/

35 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.54

Có 15 dự luật khác, chủ yếu do Chính phủ đề xuất và gửi lên Hạ viện để xem xét Sau khi được Hạ viện thông qua, các dự luật sẽ được chuyển đến Thượng viện Nếu Thượng viện không đồng ý, họ có quyền phủ quyết và trì hoãn việc thông qua dự luật trong vòng một năm.

Quyền sáng kiến lập pháp của Chính phủ được thực hiện bởi từng thành viên trong Chính phủ, trong đó Bộ trưởng, với vai trò là thành viên của Nội các, có trách nhiệm đề xuất các giải pháp cho các vấn đề xã hội thuộc phạm vi của mình Khi phát hiện vấn đề cần điều chỉnh bởi luật, Bộ trưởng sẽ đưa nó vào chương trình nghị sự của Chính phủ và Nghị viện Nghị viện ở Anh chủ yếu xem xét và biểu quyết dự luật, trong khi Chính phủ là cơ quan đề xuất Bộ trưởng cần tiến hành thăm dò, lấy ý kiến và tham vấn các chuyên gia cũng như đối tượng chịu sự điều chỉnh của chính sách, với văn bản đề xuất được gọi là “sách xanh”.

Bộ trưởng dự kiến đề xuất một chính sách mới, và nếu quyết định chính thức khởi động quá trình lập pháp, sẽ ban hành một văn bản gọi là "sách trắng" Thời gian lấy ý kiến sẽ kéo dài khoảng 12 tuần Sau khi tham vấn, Bộ trưởng cần thuyết phục các thành viên khác trong Nội các ủng hộ giải pháp của mình để được thông qua tại các Ủy ban Ủy ban lập pháp sẽ xem xét liệu giải pháp có nên trình ra Nghị viện hay không Khi được chấp thuận, Bộ trưởng sẽ ban hành "bản hướng dẫn soạn thảo dự án luật", và Văn phòng soạn thảo luật sẽ dựa trên hướng dẫn này để soạn thảo luật trình lên Nghị viện Chính phủ cần đảm bảo dự luật trình lên không có nhiều sửa đổi so với ý tưởng ban đầu của Bộ trưởng Thực tế cho thấy, nhờ nguyên tắc tôn trọng kỷ luật trong đảng cầm quyền, các dự án luật thường được Hạ viện thông qua với ít sửa đổi.

36 Xem thêm tại http://www.parliament.uk/about/how/laws/draft/

Hợp chúng quốc Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình cho mô hình chính thể cộng hòa tổng thống, nơi quyền lực được phân chia rõ ràng giữa các nhánh mà không có sự phối hợp, ngoại trừ một số cơ chế kiểm soát để ngăn chặn lạm dụng quyền lực Nhân dân trực tiếp bầu ra Nghị viện và Nguyên thủ quốc gia, do đó Chính phủ chịu trách nhiệm trước nhân dân thay vì Nghị viện Ngoài Hoa Kỳ, nhiều quốc gia khác như Brazil, Mexico, Colombia, Hàn Quốc và Indonesia cũng áp dụng mô hình này Trong chính thể cộng hòa tổng thống, quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống, và quyền tư pháp được thực hiện bởi Tòa án tối cao cùng các Tòa án khác do Quốc hội thành lập Quốc hội bao gồm hai viện: Thượng viện và Hạ viện.

Hạ viện có vị trí và vai trò độc lập, khác biệt với Tổng thống, tạo ra một cơ chế phân công và phối hợp trong chính thể cộng hòa tổng thống Sự độc lập và phân quyền rõ ràng trong hệ thống này đã hình thành cơ chế kiểm soát và đối trọng, với học thuyết phân quyền làm nền tảng.

45 Lady Hale (2015), “The UK Supreme Court in the United Kingdom Constitution”, Inaugural lecture at the

Institute for Legal and Constitutional Research, University of St Andrews

46 Điều 4 Đạo luật về quyền con người năm 1998

47 Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr

Trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ, quyền lập pháp được phân chia rõ ràng giữa các nhánh quyền lực, chủ yếu theo chiều dọc giữa cấp liên bang và tiểu bang Quốc hội giữ vai trò chủ đạo trong việc lập pháp, với Tổng thống không có quyền can thiệp vào quy trình này Thượng viện và Hạ viện cũng có sự phân chia chức năng, chẳng hạn như chỉ Hạ viện mới có quyền đề xuất các dự luật về thuế theo quy định của Hiến pháp Dù vậy, cả hai viện đều có quyền bình đẳng trong việc biểu quyết thông qua luật.

Hiến pháp Hoa Kỳ quy định rõ ràng các lĩnh vực mà Quốc hội có và không có thẩm quyền lập luật, do đó quyền lập pháp của Quốc hội bị giới hạn Những vấn đề mà Quốc hội không được làm luật bao gồm việc xóa bỏ chế độ nô lệ, bảo vệ quyền con người và đảm bảo tính minh bạch trong tài chính.

Quốc hội Hoa Kỳ nắm quyền lập pháp, cho phép mỗi thành viên trình dự luật của mình Nghị sĩ sẽ gửi dự án luật đến Thượng viện hoặc Hạ viện, nơi Ban Thư ký sẽ xem xét và chuyển đến các Uỷ ban chuyên môn nếu cần thiết Các Uỷ ban này, với thẩm quyền riêng trong các lĩnh vực như nông nghiệp hay ngân sách, sẽ tổ chức điều trần và thu thập chứng cứ, đồng thời có quyền sửa đổi dự luật Sau khi thảo luận, Uỷ ban sẽ quyết định có trình dự án luật ra Quốc hội hay không Một dự luật có thể được thông qua ở Hạ viện nhưng không được Thượng viện chấp nhận, tạo nên một quy trình lập pháp chặt chẽ và phức tạp, chịu ảnh hưởng từ mối quan hệ giữa các Đảng chính trị.

48 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.54

49 Khoản 7 Điều I Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ và chú thích,

NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2013, tr 30

50 Khoản 8 và Khoản 9 Điều I Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa kỳ và chú thích, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2013, tr 31

Quốc hội liên bang và các tiểu bang có cơ chế phân công rõ ràng, với mỗi tiểu bang sở hữu Hiến pháp và Quốc hội riêng Hình thức hoạt động của Quốc hội tiểu bang tương tự như Quốc hội liên bang, nhưng luật do Quốc hội tiểu bang ban hành chỉ có hiệu lực trong phạm vi tiểu bang đó, trong khi luật của Quốc hội liên bang áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ quốc gia.

Cơ chế phân quyền ở Hoa Kỳ rất rõ ràng, hạn chế sự can thiệp của Tổng thống vào công việc lập pháp của Quốc hội Tuy nhiên, Tổng thống vẫn có thể tác động đến lập pháp thông qua quyền gửi thông điệp, đặc biệt là thông qua việc đọc thông điệp liên bang hàng năm Khoảng một nửa số dự luật tại Nghị viện được Tổng thống đề xuất qua các thông điệp này Những thông điệp không chỉ thông báo tình hình trong nước và quốc tế mà còn nhằm sửa đổi các đạo luật cũ hoặc tạo ra những đạo luật mới, phù hợp với nhu cầu của toàn dân.

Sử dụng thông điệp liên bang của Tổng thống để đề xuất đạo luật có thể mang lại nhiều tác dụng, nhưng nếu không nhận được sự ủng hộ từ Quốc hội, thông điệp này sẽ trở nên vô nghĩa Tổng thống cũng có thể tận dụng quyền lực của Đảng cầm quyền thông qua phương thức "đề nghị luật thông qua đảng viên", bằng cách soạn thảo luật và giao cho các Nghị sĩ thuộc đảng mình trình bày trước Quốc hội.

Tổng thống và bộ máy hành pháp không chỉ đọc thông điệp liên bang mà còn có quyền thông qua và ban hành các văn bản pháp lý để thi hành và giải thích luật của Quốc hội Quyền này được xem là quyền phái sinh từ quyền hạn của Tổng thống, thể hiện vai trò chủ động trong việc thúc đẩy Quốc hội thông qua luật Đặc biệt, Tổng thống có quyền sáng kiến lập pháp trong lĩnh vực ngân sách, với trách nhiệm dự thảo ngân sách liên bang để trình Quốc hội phê duyệt, điều này rất quan trọng cho hoạt động của bộ máy hành pháp tại Hoa Kỳ.

51 Đỗ Minh Khôi chủ biên (2014), Chế định Nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 78

Thông điệp liên bang (state of the union message) là bài phát biểu hàng năm của Tổng thống Hoa Kỳ gửi đến Nghị viện, nhằm báo cáo về tình hình quốc gia và đề xuất các sáng kiến lập pháp quan trọng.

53 Nguyễn Anh Hùng (2009), Chế độ Tổng thống Mỹ, NXB Lao động, Hà Nội, tr 102

Quốc hội sẽ xem xét 21 nhiệm vụ liên quan đến kinh phí hoạt động của các Bộ, ngành trong lĩnh vực quản lý của họ, dựa trên bản đệ trình ngân sách hoạt động liên bang do Tổng thống đề xuất.

Tổng thống Hoa Kỳ, mặc dù không được Hiến pháp quy định là chủ thể có quyền lập pháp, nhưng vẫn có khả năng tác động đến chính sách lập pháp thông qua quyền đọc thông điệp liên bang và quyền sáng kiến lập pháp trong lĩnh vực ngân sách Sự phối hợp giữa Tổng thống và Quốc hội còn thể hiện qua quyền công bố luật của Tổng thống sau khi Quốc hội thông qua, và nếu Tổng thống không phủ quyết, đạo luật đó sẽ có hiệu lực Với vai trò là Nguyên thủ quốc gia, Tổng thống là người duy nhất có quyền công bố đạo luật, và chỉ những đạo luật được công bố bởi Tổng thống mới có giá trị thực thi.

Tại Hoa Kỳ, ngành tư pháp có một đặc điểm độc đáo là quyền giải thích luật của Tòa án, tạo ra khả năng lập chính sách thông qua việc xét xử các vụ việc thực tế Tuy nhiên, khác với Quốc hội và Chính phủ, Tòa án không có quyền khởi xướng mà chỉ có thể thiết lập tiền lệ pháp thông qua việc xem xét tính hợp hiến của các quyết định và đạo luật.

Bộ máy nhà nước Hoa Kỳ có sự phân công quyền lực rõ ràng giữa các nhánh quyền lực, với cơ chế kiềm chế đối trọng được thực hiện triệt để Tổng thống sở hữu quyền phủ quyết luật do Quốc hội thông qua, nhằm bảo vệ Hiến pháp, ngăn chặn sự độc đoán của Quốc hội và bảo vệ chính sách điều hành của mình Quyền phủ quyết không chỉ là công cụ từ chối luật mà còn giúp Tổng thống thể hiện quan điểm cá nhân về các đạo luật, yêu cầu các nhà lập pháp xem xét kỹ lưỡng hơn để đảm bảo phù hợp với đường lối hành pháp.

Theo Điều II Khoản 1 của Hiến pháp Hoa Kỳ, trước khi nhậm chức, Tổng thống phải tuyên thệ rằng sẽ giữ chức vụ với lòng trung thành và tận tâm bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ.

Cộng hòa Pháp

Pháp là quốc gia có hệ thống chính trị theo mô hình cộng hòa hỗn hợp, kết hợp các đặc điểm của chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị Mô hình này hiện nay được thể hiện qua nền cộng hòa thứ V, dựa trên Hiến pháp năm 1958 Sự hình thành của chính thể này nhằm khắc phục những điểm yếu của chính thể đại nghị và tận dụng những ưu điểm của chính thể tổng thống.

Trong chính thể cộng hòa hỗn hợp, bộ máy nhà nước bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và Tổng thống, người đứng đầu Chính phủ Tổng thống và Nghị viện đều được bầu ra bởi nhân dân, do đó chỉ chịu trách nhiệm trước họ, không phải trước nhau Điểm đặc biệt của chính thể này là bộ máy hành pháp lưỡng đầu với sự hiện diện của cả Tổng thống và Thủ tướng, trong đó Thủ tướng là thủ lĩnh của Đảng cầm quyền trong Nghị viện nhưng không phải là người đứng đầu Chính phủ Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước cả Tổng thống và Nghị viện, tạo nên cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp đặc biệt, được nhiều quốc gia như Pháp, Đức, Ý, Nga và Hàn Quốc áp dụng Cơ chế này ở Pháp cụ thể như sau:

Nước Pháp hiện đang ở nền cộng hòa thứ V, được thiết lập theo bản Hiến pháp năm 1958, tạo ra một chế độ cộng hòa hỗn hợp.

57 Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr

Hiến pháp năm 1958 đã thay đổi cấu trúc quyền lực tại Pháp, bãi bỏ địa vị ưu thế của Nghị viện và trao thêm quyền hạn cho Tổng thống và Thủ tướng để quản lý đất nước hiệu quả hơn Mặc dù Nghị viện vẫn giữ chức năng lập pháp, nhưng quyền hạn này chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực quan trọng như quyền công dân, quốc tịch, hình sự hóa tội phạm, thuế và chế độ bầu cử Các lĩnh vực khác thuộc quyền lập quy của Chính phủ, phản ánh kinh nghiệm từ hệ thống chính trị của chính thể cộng hòa đại nghị Điều này dẫn đến việc Nghị viện không thể theo kịp sự thay đổi của xã hội, khiến Chính phủ cần có quyền ban hành văn bản pháp luật để đáp ứng thực tiễn Tuy nhiên, quyền lập quy của Chính phủ vẫn phải nằm trong phạm vi quyền lập pháp của Nghị viện và cần sự cho phép từ Nghị viện cùng ý kiến của Tòa Hành chính tối cao.

Nghị viện Pháp được cấu thành từ hai viện: Hạ viện (Quốc hội Pháp) và Thượng viện Hạ viện không vượt quá số lượng thành viên quy định.

Quốc hội gồm 577 thành viên, trong đó Hạ viện có tối đa 348 đại biểu được bầu trực tiếp, còn Thượng viện được thành lập thông qua bầu cử gián tiếp Hai viện này có quyền lực ngang nhau trong việc lập pháp, với mọi dự thảo luật phải được cả hai viện thông qua trước khi trình Tổng thống Tuy nhiên, Hạ viện hiện đang có ưu thế hơn Thượng viện Nếu có sự bất đồng trong quá trình biểu quyết, một Ủy ban hỗn hợp sẽ được thành lập để giải quyết Nếu vẫn không đạt được thỏa thuận, Chính phủ có thể yêu cầu Nghị viện xem xét lại và Hạ viện sẽ đưa ra quyết định cuối cùng.

58 Điều 34 Hiến pháp năm 1958, Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên Thế giới, NXB Thống kê, Hà Nội,

Trong cuốn sách "Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do Trần Ngọc Đường chủ biên (2011), tác giả phân tích các khía cạnh quan trọng liên quan đến việc phân công và phối hợp quyền lực trong hệ thống nhà nước pháp quyền Nội dung cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực nhằm đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm trong quản lý nhà nước, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.

25 ba số phiếu biểu quyết đồng ý trở lên 60

Hiến pháp năm 1958 quy định quy trình sửa đổi Hiến pháp với các thủ tục chặt chẽ, trong đó Tổng thống có quyền đề nghị sửa đổi theo kiến nghị của Thủ tướng hoặc các thành viên Nghị viện Tuy nhiên, các sửa đổi chỉ có hiệu lực khi được nhân dân phê duyệt qua cuộc trưng cầu dân ý, điều này nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước và thực hiện phân công quyền lực thông qua Hiến pháp, do đó, mọi thay đổi liên quan đến Hiến pháp cần phản ánh ý chí của họ Đến nay, đã có hai cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức để sửa đổi Hiến pháp năm 1958.

Hiến pháp năm 1958 quy định rằng Tổng thống có thể sửa đổi Hiến pháp mà không cần trưng cầu dân ý nếu nhận được ít nhất ba phần năm số phiếu ủng hộ từ Hội nghị lập hiến, gồm các Nghị sĩ ở cả hai Viện Điều này phản ánh lo ngại của tướng De Gaulle về khả năng các Nghị sĩ có thể làm suy yếu Hiến pháp và tâm lý ngần ngại đối với trưng cầu dân ý Trong bối cảnh đa đảng tại Pháp, việc đạt được số phiếu cần thiết ở cả hai Viện là một thách thức lớn.

Thứ hai, Hiến pháp quy định rõ về thẩm quyền quyền lập pháp và lập quy của

Việc phối hợp chặt chẽ giữa Nghị viện và Chính phủ là điều tất yếu trong hệ thống chính trị Pháp, nơi cơ chế lưỡng đầu bao gồm Tổng thống và Thủ tướng Tổng thống, theo Hiến pháp, không có quyền trình sáng kiến pháp luật, mà quyền này thuộc về Thủ tướng và Nghị viện Tuy nhiên, Tổng thống vẫn có thể tác động đến hoạt động lập pháp thông qua thông điệp đầu năm, nơi ông truyền đạt các nội dung chính sách quốc gia Với vai trò là Nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu Chính phủ, Tổng thống được trao quyền hoạch định chính sách, điều này tạo nền tảng cho việc thực thi các chính sách của Chính phủ Những nội dung trong thông điệp đầu năm vì vậy mang ý nghĩa quan trọng đối với mục tiêu mà Chính phủ cần đạt được.

60 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, Tp HCM, tr.125

61 Điều 39 Hiến pháp 1958, Văn phòng Quốc hội (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên Thế giới,

NXB Thống kê, Hà Nội, tr 160

Tại Pháp, Nghị sĩ trình bày sáng kiến lập pháp thông qua kiến nghị về luật (proposition de loi), trong khi Chính phủ thực hiện điều này thông qua dự thảo về luật hay dự án luật (project de loi).

Tổng thống Pháp có quyền lựa chọn Thủ tướng dựa trên kết quả bầu cử tại Hạ viện, nơi thủ lĩnh của phe chiếm đa số sẽ trở thành Thủ tướng Trong trường hợp Thủ tướng không đồng thuận với Tổng thống, Tổng thống có thể giải tán Nghị viện để tổ chức bầu cử lại hoặc chấp nhận tình trạng "sống chung" Ngược lại, nếu có sự đồng thuận cao giữa Thủ tướng và Tổng thống, Tổng thống có thể thông qua Thủ tướng để trình các dự thảo luật lên Nghị viện xem xét.

Thủ tướng Pháp nắm giữ nhiều quyền hạn trong lĩnh vực lập pháp, không chỉ với quyền sáng kiến lập pháp mà còn trong việc điều hành các vấn đề kinh tế và xã hội Ông có quyền lập quy để điều chỉnh các vấn đề phát sinh, mặc dù chưa có luật cụ thể để điều chỉnh Thủ tướng được coi là nhà lập pháp thứ hai bên cạnh Nghị viện, với khả năng đề nghị họp bất thường và giải quyết bất đồng giữa Thượng viện và Hạ viện Để một dự luật trở thành luật, nó cần được cả hai viện thông qua và không bị Tổng thống phủ quyết Quy trình lập pháp tương tự như trong chính thể cộng hòa tổng thống, với yêu cầu ý kiến từ Tham chính viện trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng Dự luật sẽ được chuyển đến viện phù hợp dựa trên nội dung, ví dụ như các dự án liên quan đến thuế phải qua Hạ viện trước Sau khi được thông qua, luật sẽ được Tổng thống công bố, với quyền lực được ghi nhận trong Hiến pháp.

63 Điều 38 Hiến pháp 1958, Văn phòng Quốc hội (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên Thế giới,

NXB Thống kê, Hà Nội, tr 160

64 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.123

65 Nguyễn Văn Cương, Vài nét về quy trình xây dựng luật ở Pháp, xem thêm tại: http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID33

27 chuẩn y và công bố luật trước khi luật được đưa vào cuộc sống

Sau khi Hiến pháp năm 1958 được thông qua, quyền lực của Chính phủ đối với Nghị viện Pháp trở nên rất mạnh mẽ Khi Thủ tướng đề xuất một dự thảo luật không được Nghị viện thông qua, Tổng thống có thể đặt ra vấn đề tín nhiệm để củng cố uy tín và thúc đẩy dự luật Nếu Nghị viện tín nhiệm, dự luật sẽ trở thành luật; ngược lại, Thủ tướng có thể từ chức hoặc yêu cầu Tổng thống giải tán Hạ viện để tổ chức bầu cử sớm Tuy nhiên, việc yêu cầu giải tán Hạ viện có thể gây rủi ro trong bối cảnh đa đảng phái của chính trị Pháp Sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp ở Pháp được hình thành từ kinh nghiệm của cả hai thể chế cộng hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống, nhưng cũng chịu ảnh hưởng từ các yếu tố chính trị đảng phái.

Tổng thống Pháp, giống như ở Hoa Kỳ, có quyền phủ quyết và yêu cầu Nghị viện xem xét lại các dự luật trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được Ngoài Tổng thống, quyền đề nghị này cũng thuộc về Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện, hoặc một nhóm 60 Nghị sĩ Đặc biệt, Hội đồng Bảo hiến có thể xem xét tính hợp hiến của dự luật ngay cả khi nó chưa trở thành luật, giúp ngăn ngừa hậu quả nghiêm trọng từ các đạo luật vi hiến Hiến pháp cũng cho phép Tổng thống giải tán Hạ viện, nhưng không thể giải tán Thượng viện Nghị viện có quyền không thông qua chương trình chính sách của Chính phủ, dẫn đến khả năng Thủ tướng từ chức, và cũng có quyền luận tội Tổng thống cùng các thành viên Chính phủ nếu bị cáo buộc phạm tội Hệ thống tư pháp tại Cộng hòa Pháp độc lập, được chia thành Tòa án tư pháp và Tòa án hành chính.

66 Điều 10 Hiến pháp 1958, Văn phòng Quốc hội (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên Thế giới,

NXB Thống kê, Hà Nội, tr 150

67 Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí, (2014), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp: Kinh nghiệm Thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.126

68 Điều 12 Hiến pháp 1958, Văn phòng Quốc hội (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên Thế giới,

NXB Thống kê, Hà Nội, tr 151

Nhận xét chung về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lập pháp ở một số các quốc gia trên thế giới

Nhu cầu phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền lập pháp, là rất quan trọng trong các nhà nước dân chủ hiện đại Các ý tưởng và học thuyết phân quyền đã thúc đẩy cơ chế này, giúp thực hiện quyền lập pháp hiệu quả hơn Qua việc nghiên cứu quy định trong Hiến pháp và luật pháp của một số quốc gia tiêu biểu, tác giả rút ra nhận xét về việc thực hiện quyền lập pháp ở các chính thể khác nhau, từ đó liên hệ đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Quyền lực nhà nước được hình thành từ quyền lực của nhân dân, trong đó nhân dân chỉ ủy quyền một phần quyền lực cho nhà nước để thực hiện nhiệm vụ thay mặt cho mình Do đó, quyền lập pháp cần phải được giới hạn và có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước Nghiên cứu các quốc gia điển hình cho thấy sự cần thiết của việc này trong các chính thể trên thế giới.

69 Văn phòng Quốc hội (2009), Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên Thế giới, NXB Thống kê, Hà Nội, tr

Ở Anh và Pháp, sự phân công và phối hợp trong lập pháp diễn ra một cách linh hoạt, với quyền lập pháp thuộc về Nghị viện Tuy nhiên, vai trò của Chính phủ trong quy trình này và sự độc lập trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật rất quan trọng Hiến pháp sẽ ghi nhận sự phân công và phối hợp này bằng cách xác định các lĩnh vực cụ thể mà Quốc hội có quyền làm luật và Chính phủ có quyền lập quy.

Nhà nước Liên bang Hoa Kỳ có sự phân công quyền lực giữa Quốc hội ở cấp liên bang và tiểu bang, trong khi các quốc gia có cấu trúc đơn nhất phân chia quyền lực giữa chính quyền Trung ương và lãnh thổ tự trị Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, trong khi Tổng thống thực hiện quyền sáng kiến lập pháp qua thông điệp liên bang hàng năm và quyền phủ quyết luật, nhằm duy trì cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Mô hình Nghị viện ở các quốc gia trên thế giới, dù là lưỡng viện hay đơn viện, đều có quy trình lập pháp phức tạp với sự phối hợp của nhiều cơ quan khác nhau Điều này đảm bảo chất lượng đạo luật, tránh sự nóng vội và độc đoán trong quá trình làm luật, đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước Quy trình làm luật được thiết kế chặt chẽ, trải qua nhiều công đoạn và được xem xét cẩn trọng, góp phần vào việc thực hiện quyền lập pháp một cách hiệu quả.

Thứ ba, trừ nước Anh, Nguyên thủ quốc gia chỉ mang tính chất tượng trưng

Nguyên thủ quốc gia ở nhiều quốc gia có quyền phủ quyết các đạo luật do Nghị viện ban hành, nhằm kiểm soát quyền lực và đảm bảo sự cân bằng trong hệ thống nhà nước Mặc dù Thủ tướng Anh không có quyền phủ quyết, nhưng ảnh hưởng của họ trong quá trình xây dựng và ban hành luật là rất lớn, có thể ngăn cản dự luật trở thành luật Sự phối hợp giữa Nguyên thủ quốc gia và Nghị viện cần được thực hiện nghiêm túc, nhưng Nghị viện vẫn có khả năng vượt qua quyền phủ quyết nếu đạt được sự đồng thuận cao, thường là từ hai phần ba số Nghị sĩ của mỗi viện.

Việc thông qua 30 biểu quyết là một yếu tố quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam Điều này thể hiện sự tăng cường quyền lực cho Nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu ngành hành pháp, nhằm nâng cao khả năng phối hợp và kiểm soát quyền lập pháp.

Mỗi quốc gia đều có cơ chế bảo vệ quyền lập pháp, đảm bảo không xâm phạm quyền của nhân dân được ghi nhận trong Hiến pháp Quyền lập pháp xuất phát từ quyền lực của nhân dân, vì vậy nó không thể vi phạm quyền lợi của họ Chế định Hội đồng bảo hiến hoặc Tòa án tối cao có quyền tuyên bố một đạo luật vi hiến là cần thiết, góp phần xây dựng cơ chế bảo hiến hiệu quả Điều này sẽ giúp đảm bảo sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước theo quy định của Hiến pháp được thực hiện một cách hiệu quả.

Việc áp dụng học thuyết phân quyền tại mỗi quốc gia cần được điều chỉnh để phù hợp với cách tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước Hiểu rõ nội dung của học thuyết này và nhu cầu hình thành cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực là yếu tố quan trọng để xây dựng nhà nước mà nhân dân làm chủ Quốc hội, với vai trò là cơ quan lập pháp, cần được chú trọng trong việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quy trình lập pháp Tác giả đã phân tích các quốc gia điển hình để rút ra những đặc điểm trong cơ chế phân công và kiểm soát quyền lập pháp, từ đó đề xuất kiến nghị về quy định pháp luật liên quan tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP VÀ KIỂM SOÁT THỰC HIỆN QUYỀN LẬP PHÁP GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:22

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
24. Nguyễn Minh Đoan chủ biên (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Minh Đoan chủ biên
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2016
25. Cao Anh Đô (2013), Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam
Tác giả: Cao Anh Đô
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2013
26. Trần Ngọc Đường chủ biên (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tác giả: Trần Ngọc Đường chủ biên
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2011
27. Lê Quốc Hùng (2004), Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam, NXB Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Tác giả: Lê Quốc Hùng
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2004
29. Đỗ Minh Khôi (2014), Chế định nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam
Tác giả: Đỗ Minh Khôi
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2014
30. Vũ Văn Nhiêm (2015), Bình luận khoa học các Điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, NXB Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học các Điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
Tác giả: Vũ Văn Nhiêm
Nhà XB: NXB Hồng Đức
Năm: 2015
31. Trần Quốc Bình (2010), “Bàn về một số rủi ro khi dự luật xuất phát từ đại biểu Quốc hội”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (5) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về một số rủi ro khi dự luật xuất phát từ đại biểu Quốc hội
Tác giả: Trần Quốc Bình
Năm: 2010
32. Nguyễn Đăng Dung (2011), “Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Khoa học pháp lý (04) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung
Năm: 2011
33. Nguyễn Sĩ Dũng (2007), “Thử bàn về việc đổi mới hoạt động lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (03) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thử bàn về việc đổi mới hoạt động lập pháp
Tác giả: Nguyễn Sĩ Dũng
Năm: 2007
34. Nguyễn Sĩ Dũng (2017), “Về quyền lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (1+2) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về quyền lập pháp
Tác giả: Nguyễn Sĩ Dũng
Năm: 2017
35. Nguyễn Minh Đoan (2010), “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và việc thực hiện quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (21) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và việc thực hiện quyền lực nhà nước
Tác giả: Nguyễn Minh Đoan
Năm: 2010
36. Bùi Xuân Đức (2006), “Chính phủ trong cơ chế quyền lực nhà nước Việt Nam – Quá trình xây dựng, phát triển và những vấn đề cần tiếp tục đổi mới”, Tạp chí Luật học (02) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính phủ trong cơ chế quyền lực nhà nước Việt Nam – Quá trình xây dựng, phát triển và những vấn đề cần tiếp tục đổi mới
Tác giả: Bùi Xuân Đức
Năm: 2006
37. Bùi Xuân Đức (2003), “Hoạt động giám sát của Quốc hội với văn bản pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (01) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động giám sát của Quốc hội với văn bản pháp luật
Tác giả: Bùi Xuân Đức
Năm: 2003
38. Bùi Xuân Đức (2010), “Một số vấn đề đặt ra về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (23) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề đặt ra về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
Tác giả: Bùi Xuân Đức
Năm: 2010
39. Trần Ngọc Đường (2010), “Tiếp tục đổi mới Quốc hội theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (5) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp tục đổi mới Quốc hội theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Tác giả: Trần Ngọc Đường
Năm: 2010
40. Đinh Thị Cẩm Hà (2013), “Sửa đổi, bổ sung các luật về Quốc hội đảm bảo hiệu quả triển khai thi hành những nội dung mới của Hiến pháp năm 2013”, Tài liệu Hội thảo khoa học Triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sửa đổi, bổ sung các luật về Quốc hội đảm bảo hiệu quả triển khai thi hành những nội dung mới của Hiến pháp năm 2013
Tác giả: Đinh Thị Cẩm Hà
Năm: 2013
41. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), “Kiểm soát quyền lập pháp với việc đảm bảo quyền con người”, Tạp chí Khoa học pháp lý (02) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm soát quyền lập pháp với việc đảm bảo quyền con người
Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng
Năm: 2011
42. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), “Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 1946”, Tạp chí Khoa học pháp lý (04) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 1946
Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng
Năm: 2011
43. Nguyễn Mạnh Hùng (2013), “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (09) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng
Năm: 2013
44. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), “Nhân tố pháp quyền trong Hiến pháp năm 1946 và những giá trị cần kế thừa”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (7) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhân tố pháp quyền trong Hiến pháp năm 1946 và những giá trị cần kế thừa
Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng
Năm: 2011

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w