QUYỀN YÊU CẦU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
Căn cứ thực hiện quyền yêu cầu
1.1.1 Quy định của pháp luật Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 LTCVKSND 2014, Điều 21 BLTTDS
Vào năm 2015, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) được xác định rõ ràng VKSND có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, quyền con người và quyền công dân, đồng thời bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đặc biệt là trong việc giải quyết các vụ án dân sự, VKSND đảm bảo rằng các vụ án tại Tòa án Nhân dân (TAND) được xử lý kịp thời và đúng pháp luật, đồng thời yêu cầu thi hành nghiêm chỉnh các bản án và quyết định đã có hiệu lực.
Quyền yêu cầu trong kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự là một phương thức quan trọng để giám sát hoạt động tư pháp, được thực hiện thường xuyên trong quá trình kiểm sát của TAND Theo Từ điển Tiếng Việt, quyền yêu cầu được định nghĩa là việc nêu ra điều gì với ai đó, thể hiện mong muốn người đó thực hiện, vì đó là nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn của họ.
“nêu lên một điều gì đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy” 2
Quyền yêu cầu là một trong ba quyền năng quan trọng mà Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) thực hiện trong việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Theo Điều 4 của Luật Tổ chức VKSND 2014, VKSND có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng hoạt động tư pháp; tự kiểm tra hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả; cung cấp hồ sơ, tài liệu để kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định trong hoạt động tư pháp; cũng như yêu cầu, kiến nghị xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong hoạt động này.
1 Trung tâm từ điển học (2014), Từ điển tiếng việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.1506
Vũ Thị Hồng Vân (2018) trong bài viết “Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của VKSND trong tố tụng dân sự” đăng trên Tạp chí khoa học Kiểm sát, số 06, trang 4, đã phân tích các khía cạnh quan trọng liên quan đến quyền yêu cầu và quyền kiến nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân trong quá trình tố tụng dân sự Bài viết nêu bật vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và đảm bảo tính công bằng trong xét xử.
Khoản 1 Điều 21 BLTTDS 2015 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật
Dựa trên quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Chương III Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC đã làm rõ quyền yêu cầu của Viện trưởng và Kiểm sát viên trong việc kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự Các quyền này bao gồm: yêu cầu theo các khoản 3, 6 và 8 Điều 58, khoản 4 Điều 326, điểm c khoản 1 Điều 254, Điều 255, và Điều 258 của Bộ luật; yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án theo các Điều 4, 5, 6 của Thông tư liên tịch; yêu cầu sao chụp bản sao đơn khởi kiện và tài liệu liên quan khi đơn bị trả lại theo Điều 21 của Thông tư; yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo khoản 2 Điều 329 và Điều 357; và yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu về giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Điều 515 và khoản 3 Điều 34 của Thông tư liên tịch.
Theo Điều 5 và Điều 13 QĐ 458/QĐ-VKSTC, Kiểm sát viên (KSV) có quyền yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh và thu thập tài liệu, chứng cứ trước phiên tòa dân sự sơ thẩm nếu cần thiết Quy định này nhấn mạnh vai trò quan trọng của KSV trong việc đảm bảo tính minh bạch và công bằng của quá trình tố tụng.
Quyền yêu cầu của Viện Kiểm sát (VKS) trong tố tụng dân sự (TTDS) là quyền pháp định nhằm đảm bảo rằng Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật Khi phát hiện những sai sót hoặc thiếu sót trong quá trình tố tụng, VKS có quyền yêu cầu các bên liên quan khắc phục để đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự được chính xác và hợp lý Thông qua hoạt động kiểm sát, VKS góp phần nâng cao hiệu quả xét xử tại Tòa án Nhân dân (TAND) và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong quá trình tố tụng.
VKSND hai cấp tỉnh Bình Thuận đã thực hiện quyền yêu cầu trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự một cách kịp thời và chất lượng, góp phần đảm bảo các vụ án được giải quyết toàn diện, khách quan và đúng quy định pháp luật Các yêu cầu của VKS đều tuân thủ căn cứ, hình thức và thời hạn, và phần lớn yêu cầu này được Thẩm phán và Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm.
Trong vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Đ và các bị đơn, VKSND huyện TL đã phát hiện hồ sơ vụ án còn thiếu tài liệu và chứng cứ, có nhiều mâu thuẫn cũng như một số nội dung chưa được làm rõ Do đó, VKSND huyện TL đã ban hành yêu cầu xác minh và thu thập chứng cứ với ba nội dung cụ thể.
Tòa án cần tiến hành lấy lời khai của các đồng nguyên đơn, vì trong quá trình tố tụng, TAND huyện TL chưa thực hiện việc này Đồng thời, các đồng nguyên đơn cũng chưa ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng thay cho mình.
Bà Trần Thị Thủy, vợ ông Nguyễn Văn Tường, được Tòa án công nhận là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án Đề nghị Tòa án xác minh địa chỉ của bà Thủy và tiến hành lấy lời khai, thực hiện các thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà.
Khi xác minh thời điểm ông Tường bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, cần làm rõ ông có tài sản gì hay không Nếu ông có tài sản, câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người trông coi và quản lý những tài sản đó?
Sau khi nhận được yêu cầu xác minh và thu thập chứng cứ từ Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, TAND huyện Tánh Linh đã tiến hành xác minh và thông báo không mở phiên tòa sơ thẩm vào lúc 7h30 ngày 27/4/2021 Tòa án nhận thấy yêu cầu của Viện kiểm sát là có căn cứ, nhằm đảm bảo việc xét xử vụ án được chính xác và khách quan.
Ngày 22/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh đã ban hành yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ số 152/YC-VKS-DS Vụ án sẽ được mở lại xét xử khi Tòa án thu thập đầy đủ chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát Sau khi tiến hành xác minh và thu thập bổ sung tài liệu, Tòa án đã tiến hành xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thời hạn thực hiện quyền yêu cầu
1.2.1 Quy định của pháp luật
Theo Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2015, thời hạn được xác định là khoảng thời gian từ thời điểm này đến thời điểm khác, với thời điểm bắt đầu và kết thúc rõ ràng Thời hạn thực hiện quyền yêu cầu của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) trong việc kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự là khoảng thời gian mà VKS có thể thực hiện các thao tác nghiệp vụ để yêu cầu Tòa án, đặc biệt là trước khi Tòa án mở phiên tòa.
Theo Điều 220 BLTTDS 2015, Tòa án phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện Kiểm sát (VKS) trong vòng 03 ngày làm việc Nếu VKS tham gia phiên tòa, Tòa án cần gửi hồ sơ vụ án kèm theo quyết định cho VKS cùng cấp Sau khi nhận hồ sơ, VKS có 15 ngày để nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Theo Điều 13 Quy chế 364, Kiểm sát viên (KSV) và Kiểm tra viên có trách nhiệm kiểm tra quy trình và nguồn gốc của tài liệu, chứng cứ để đảm bảo tính hợp pháp, khách quan và đầy đủ trong việc thu thập, phục vụ cho việc giải quyết vụ án đúng pháp luật Nếu tài liệu, chứng cứ chưa đủ để giải quyết vụ án, theo Điều 14, KSV và Kiểm tra viên cần báo cáo lãnh đạo VKS để yêu cầu Tòa án thực hiện việc xác minh, thu thập bổ sung tài liệu theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.
Khoản 1 Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu KSV xét thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật thì KSV gửi văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS
Khoản 2 Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định: Trước khi mở phiên tòa, phiên họp, KSV gửi văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ cho Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự
Quyền yêu cầu xác minh và thu thập chứng cứ của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) chủ yếu diễn ra sau khi Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho VKS để nghiên cứu và tham gia phiên tòa Trước khi nhận hồ sơ vụ án, việc kiểm sát và thu thập chứng cứ của Tòa án gần như không thể thực hiện.
Việc yêu cầu Tòa án xác minh và thu thập chứng cứ là không cần thiết cho đến khi Kiểm sát viên (KSV) nhận được hồ sơ vụ án Chỉ khi có hồ sơ đầy đủ, KSV mới có thể nắm rõ các tình tiết và nội dung vụ án, từ đó kiểm tra và đánh giá tài liệu, chứng cứ để đưa ra quyết định chính xác về kết quả của vụ án.
Với quy định về thời hạn nghiên cứu, trả lại hồ sơ cho Tòa án như trên, tác giả nhận thấy:
Chỉ khi có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát (VKS) tại phiên tòa, Tòa án mới tiến hành gửi hồ sơ vụ án cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho VKS.
Quy định của VKS về thời gian nghiên cứu hồ sơ chỉ 15 ngày, bao gồm cả ngày nghỉ, đã tạo ra khó khăn cho Kiểm sát viên (KSV) trong việc thực hiện công tác kiểm sát, nghiên cứu hồ sơ vụ án, cũng như thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh và thu thập chứng cứ.
Pháp luật hiện hành không quy định trách nhiệm của Tòa án trong trường hợp không thực hiện đúng thời hạn chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát để nghiên cứu.
Thời hạn chuẩn bị cho phiên tòa sơ thẩm thường là 01 tháng, bao gồm cả thời gian Viện Kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án Điều này gây khó khăn cho Tòa án và Viện Kiểm sát trong việc đánh giá, xác minh và thu thập chứng cứ, đặc biệt đối với các vụ án cần tài liệu từ cơ quan chức năng hoặc phải thực hiện ủy thác.
Dựa trên quy định pháp luật, ngành Kiểm sát địa phương đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự Kiểm sát viên (KSV) chủ động nghiên cứu hồ sơ vụ án và đánh giá khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, từ đó kịp thời phát hiện những thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ của Tòa án Điều này giúp đảm bảo rằng vụ án được giải quyết một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
Vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa Công Ty ĐN và ông Nguyễn V, được TAND tỉnh BT chuyển đến vào ngày 09/7/2019, là một vụ án phức tạp với nhiều mối quan hệ tranh chấp Nhờ vào sự chủ động và kinh nghiệm của KSV trong việc nghiên cứu hồ sơ, đã kịp thời phát hiện rằng các tài liệu chứng cứ chưa đủ để giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm KSV đã có văn bản yêu cầu Tòa án xác minh và thu thập thêm chứng cứ, và TAND tỉnh BT đã chấp nhận thực hiện theo yêu cầu này.
Thời hạn thực hiện quyền yêu cầu Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ và yêu cầu thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định gặp một số bất cập trong thực tiễn áp dụng.
Thứ nhất, thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của VKS là quá ngắn so với nhiệm vụ mà VKS phải thực hiện
Theo quy định tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Viện Kiểm sát có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ và trả lại cho Tòa án trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
QUYỀN KIẾN NGHỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
Căn cứ thực hiện quyền kiến nghị
2.1.1 Quy định của pháp luật
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiến nghị được định nghĩa là việc nêu ý kiến đề nghị về một vấn đề chung với cơ quan có thẩm quyền Trong bối cảnh pháp lý, kiến nghị là hành động mà các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân gửi đến cơ quan tiến hành tố tụng nhằm yêu cầu khắc phục vi phạm và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Trong Tố tụng dân sự (TTDS), kiến nghị là hành động của Viện kiểm sát nhân dân (VKS) nhằm đề xuất Tòa án thực hiện các biện pháp khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự Theo Điều 22 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (LTCVKSND) 2002, VKS có quyền kiến nghị với Tòa án về các vi phạm pháp luật trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động, và nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm thì khởi tố hình sự Tuy nhiên, quy định này chưa làm rõ sự phân biệt giữa quyền kháng nghị và quyền kiến nghị của VKS Để nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp và khắc phục những hạn chế của LTCVKSND 2002, LTCVKSND 2014 đã quy định chi tiết hơn về quyền kiến nghị của VKSND.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 và khoản 7 Điều 27 LTCVKSND 2014, trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án dân sự, nếu phát hiện hành vi hoặc quyết định vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng mà không thuộc trường hợp kháng nghị, VKSND sẽ kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục vi phạm và xử lý nghiêm người vi phạm Ngoài ra, nếu có sơ hở trong quản lý, VKSND cũng sẽ kiến nghị các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm Các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét và trả lời kiến nghị của VKSND theo quy định pháp luật.
22 Trung tâm từ điển học (2014), tlđd (1), tr.679
23 Vũ Thị Hồng Vân (2018), tlđd (2), tr.4
Khoản 1 Điều 21 BLTTDS 2015 quy định: “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật” Điều 20 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định: Viện trưởng VKS quyết định thực hiện các quyền kiến nghị, quy định tại BLTTDS và Thông tư liên tịch này; KSV quyết định thực hiện các quyền kiến nghị: Kiến nghị quy định tại các khoản 3, 6 và 8 Điều 58, khoản 4 Điều 236, điểm c khoản 1 Điều
Theo Điều 254, Điều 255, và Điều 258 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Viện kiểm sát có quyền kiến nghị về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa, cũng như việc trả lại đơn khởi kiện và đơn yêu cầu Điều 6 Quy chế 364 quy định rằng trong quá trình kiểm sát vụ việc dân sự, nếu phát hiện vi phạm pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan liên quan, Viện kiểm sát phải thực hiện quyền kiến nghị khắc phục vi phạm theo Điều 5 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Điều 21 BLTTDS Kiến nghị này có thể áp dụng cho từng vi phạm cụ thể hoặc tổng hợp nhiều vi phạm, nhưng cần phải kịp thời Theo điểm a khoản 3 Điều 5 Quyết định số 399/QĐ-VKSTC ngày 06/9/2019, đối với các vi phạm ít nghiêm trọng, công chức có thể đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm cho từng vụ án hoặc tổng hợp vi phạm để ban hành kiến nghị chung.
Theo quy định, kiến nghị là quyền của VKS yêu cầu Tòa án và người tiến hành tố tụng khắc phục vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự Hoạt động này áp dụng đối với các hành vi, quyết định vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa án và người tiến hành tố tụng Kiến nghị là phương thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của VKSND, với mục đích chỉ ra các hành vi và quyết định vi phạm để yêu cầu khắc phục, đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự đúng đắn và chính xác.
Trong giai đoạn 2016-2020, VKSND tỉnh Bình Thuận đã ban hành 85 kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm trong công tác giải quyết các vụ án dân sự Hầu hết các kiến nghị này đều được Tòa án chấp nhận, thực hiện kiểm điểm, rút kinh nghiệm và đã tiến hành khắc phục hiệu quả.
TT NĂM SỐ LƢỢNG KIẾN NGHỊ
Qua tổng kết công tác kiến nghị tại địa phương, tác giả nhận thấy:
Nội dung kiến nghị của VKSND hai cấp tại tỉnh Bình Thuận chủ yếu tập trung vào việc khắc phục vi phạm về thời hạn tố tụng theo quy định của BLTTDS 2015 Việc vi phạm thời hạn gây ra sự kéo dài trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên liên quan Các kiến nghị cụ thể bao gồm yêu cầu khắc phục vi phạm trong việc chuyển giao văn bản tố tụng và hồ sơ vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thực hiện thủ tục tố tụng, xác định chưa đúng luật nội dung, cũng như việc miễn, giảm và tính án phí.
Hai, kết quả công tác kiến nghị hầu hết được Tòa án chấp nhận và khắc phục
Ví dụ 10: Kiến nghị số 389/KN-VKSBB ngày 15/11/2019 của VKSND huyện BB 25
VKSND huyện BB đã kiến nghị TAND huyện BB khắc phục một số vi phạm tố tụng, bao gồm việc sửa chữa và bổ sung quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình, cũng như về quy trình nhận và xử lý hồ sơ.
24 Báo cáo thống kê kết quả kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự các năm từ 2016 – 2020 của VKSND tỉnh Bình Thuận
Vào ngày 15/11/2019, Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Bắc Bình đã ban hành Kiến nghị số 389/KN-VKS.BB liên quan đến việc khởi kiện, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ Kiến nghị này cũng đề cập đến thông báo kết quả của phiên họp kiểm tra nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình tố tụng.
Sau khi nhận kiến nghị từ Viện Kiểm sát, vào ngày 03/12/2019, Tòa án Nhân dân huyện BB đã có văn bản phúc đáp, xác nhận rằng kiến nghị số 26 của Viện Kiểm sát là đúng Tòa án huyện BB cam kết sẽ nghiêm túc rút kinh nghiệm và khắc phục những sai sót được chỉ ra bởi Viện Kiểm sát.
Vào ngày 05/01/2019, VKSND tỉnh BT đã gửi kiến nghị số 08/KN-VKS đến TAND thành phố PT nhằm khắc phục vi phạm trong việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm không đúng quy định của BLTTDS 2015 Cụ thể, TAND thành phố PT đã điều chỉnh thời gian tính lãi từ 03/01/2018 đến 30/11/2018 thành 10 tháng 27 ngày với lãi suất 0,83%/tháng, và sau đó đính chính thành 27 tháng với lãi suất 0,75%/tháng Việc sửa chữa này đã làm tăng số tiền lãi mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 286 BLTTDS 2015 vì đây là sửa chữa nội dung vụ án chứ không phải do tính toán nhầm Ngày 10/01/2019, TAND thành phố PT đã có văn bản chấp nhận khắc phục vi phạm và nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Trong quá trình thực hiện quyền kiến nghị khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, tác giả nhận thấy tồn tại nhiều hạn chế và bất cập cần được khắc phục.
Một, chưa có tiêu chí về xác định mức độ vi phạm để Viện kiểm sát thống nhất thực hiện quyền kháng nghị hoặc kiến nghị
Khoản 2 Điều 5; Khoản 7 Điều 27 LTCVKSND 2014 và Quy chế 364 quy định: trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng, không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật
Hiện nay, TAND tối cao và VKSND tối cao chưa ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về các hành vi và quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
26 Văn bản số 344/VP-TA ngày 03/12/2019 của TAND huyện Bắc Bình
27 Kiến nghị số 08/KN-VKS ngày 05/01/2019 của VKSND tỉnh Bình Thuận
Thời hạn trả lời, giải quyết kiến nghị
2.2.1 Quy định của pháp luật
Khoản 2 Điều 5 LTCVKSND 2014 quy định: Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND theo quy định của pháp luật
BLTTDS 2015 quy định về thời hạn giải quyết, trả lời kiến nghị tại các Điều
Theo quy định tại Điều 41 BLTTDS, Viện kiểm sát (VKS) có quyền kiến nghị chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền, và Chánh án Tòa án phải giải quyết kiến nghị này trong vòng 03 ngày Điều 141 BLTTDS yêu cầu Chánh án Tòa án xem xét kiến nghị của VKS về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn 03 ngày làm việc Theo Điều 194 BLTTDS, Thẩm phán phải mở phiên họp giải quyết kiến nghị của VKS về việc trả lại đơn khởi kiện trong vòng 05 ngày, và Chánh án Tòa án cấp trên có 10 ngày để ra quyết định Cuối cùng, theo khoản 2 Điều 319 BLTTDS, Chánh án Tòa án phải đưa ra quyết định về việc xét xử theo thủ tục rút gọn trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được kiến nghị.
Theo Điều 35 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC, Tòa án có trách nhiệm xem xét và phản hồi bằng văn bản cho VKS trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được kiến nghị về khiếu nại, tố cáo Nếu vụ việc phức tạp và cần thêm thời gian, Tòa án phải thông báo lý do cho VKS và gửi phản hồi trong thời gian 30 ngày.
Với các quy định như trên về thời hạn giải quyết, trả lời kiến nghị của VKS, tác giả nhận thấy:
Thời hạn giải quyết và trả lời kiến nghị trong tố tụng hiện nay chưa được quy định đầy đủ và toàn diện Hơn nữa, pháp luật về tố tụng dân sự cũng chưa có sự thống nhất và đồng bộ trong việc xác định thời hạn này.
Nội dung kiến nghị của VKSND chủ yếu tập trung vào việc khắc phục các vi phạm liên quan đến thời hạn tố tụng, quy trình và thủ tục tố tụng Đặc biệt, trong việc áp dụng pháp luật, không có quy định cụ thể về thời hạn giải quyết và trả lời.
Theo quy định pháp luật về quyền kiến nghị trong việc kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự và việc xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân, ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận đã thực hiện quyền kiến nghị một cách hiệu quả trong thời gian qua.
Vụ án "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" liên quan đến nguyên đơn ông Nguyễn Văn Tâm và bà Lê Thị Kim Hòa, cùng bị đơn ông Hoàng Trúc và bà Hà Thị Thúy Hằng.
Bản án số 50/2018/DS-ST của TAND thành phố PT ngày 30/11/2018 và Quyết định số 03/QĐ-ST sửa chữa bản án ngày 13/12/2018 đã chỉ ra rằng Thẩm phán đã thực hiện việc sửa chữa, bổ sung bản án không đúng quy định tại khoản 1 Điều 286 BLTTDS 2015 Do đó, VKSND tỉnh BT đã ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm này TAND thành phố PT đã chấp nhận kiến nghị và gửi công văn trả lời vào ngày 10/01/2019, chỉ sau 5 ngày kể từ khi VKS ban hành kiến nghị.
Ví dụ 17: Vụ án “Ly hôn, chia tài sản chung, nợ chung” của TAND huyện HTB 38
Vào ngày 26/12/2019, TAND huyện HTB thông báo hoãn phiên tòa xét xử dự kiến vào ngày 27/12/2019, với thời gian và địa điểm mở lại sẽ được thông báo sau Đến ngày 06/02/2020, Tòa án HTB thông báo mở lại phiên tòa vào ngày 03/03/2020, dẫn đến thời gian hoãn phiên tòa kéo dài 02 tháng 05 ngày, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 233 BLTTDS 2015 VKSND huyện HTB đã ban hành Kiến nghị số 22/KN-VKS vào ngày 17/02/2020, yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm TAND huyện HTB đã chấp nhận kiến nghị và gửi công văn trả lời vào ngày 20/02/2020, chỉ sau 03 ngày kể từ khi VKS ban hành kiến nghị Những kiến nghị này có căn cứ pháp lý rõ ràng, phân tích cụ thể các nội dung vi phạm của Tòa án và chỉ ra sai phạm một cách chính xác.
Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn trong việc kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, tác giả đã chỉ ra một số tồn tại và vướng mắc cần được khắc phục.
Thứ nhất, Tòa án không thống nhất về thời hạn giải quyết kiến nghị và trả lời cho VKS kết quả thực hiện quyền kiến nghị
Thứ hai, một số Tòa án không xem xét, trả lời hoặc chỉ trả lời sau khi được VKSND và Tòa cấp trên đề nghị, nhắc nhở
36 VKSND tỉnh Bình Thuận, ttđd (27)
37 TAND thành phố Phan Thiết, tlđd (28)
38 Kiến nghị số 22/KN-VKS ngày 17/02/2020 của VKSND huyện Hàm Thuận Bắc
39 Công văn số 46/CVTA ngày 20/02/2020 của TAND huyện Hàm Thuận Bắc
Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn bà Cao Thị Kim Tuyến và bị đơn ông Phan Duy Hùng cùng bà Nguyễn Thị Thanh Loan đã thu hút sự chú ý.
TAND huyện HTB đã xét xử sơ thẩm và ban hành Bản án số 16/2020/DS-ST vào ngày 17/9/2020 Sau khi phát hiện vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung và tố tụng, VKSND tỉnh BT đã ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục Tuy nhiên, 18 ngày sau khi kiến nghị được ban hành, vào ngày 11/12/2020, VKSND tỉnh BT mới nhận được công văn trả lời từ TAND huyện HTB, được gửi ngày 07/12/2020.
Bản án số 17/2015/HNGĐ-ST ngày 09/6/2015 của TAND huyện HTN và Bản án số 15/HNGĐ-PT ngày 22/8/2016 của TAND tỉnh BT đã bị phát hiện vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử VKSND tỉnh BT đã ban hành Kiến nghị số 924/KN.VKS.P9 ngày 04/10/2016 yêu cầu khắc phục vi phạm TAND tỉnh BT đã phản hồi kiến nghị này vào ngày 31/10/2016, sau 27 ngày kể từ khi nhận được kiến nghị.
Ví dụ 20: Vụ án “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung” 43
Thông qua công tác kiểm sát, VKSND tỉnh BT phát hiện TAND huyện HT không xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự Ngày 08/7/2019, VKSND tỉnh BT đã ban hành Kiến nghị số 737/KN-VKS yêu cầu TAND huyện HT khắc phục vi phạm và trả lời bằng văn bản Tuy nhiên, TAND huyện HT không thực hiện việc trả lời kịp thời Sau khi VKSND tỉnh BT phản ánh, TAND tỉnh BT đã có Văn bản số 179/TABT-KTNV ngày 26/7/2019, và đến ngày 05/8/2019, TAND huyện HT mới có công trả lời kiến nghị, sau 28 ngày trễ hạn.
Vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đã được VKSND tỉnh BT xem xét, và nhận thấy Bản án số 15/2016/DS-ST ngày 28/7/2016 của TAND huyện TL không tuân thủ quy định pháp luật về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, đồng thời tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về mặt hình thức.
BT đã ban hành kiến nghị đối với TAND huyện TL và yêu cầu trả lời kết quả khắc
40 VKSND tỉnh Bình Thuận, tlđd (32)
41 TAND huyện Hàm Thuận Bắc, tlđd (33)
42 Công văn số 366/TDS ngày 31/10/2016 của TAND tỉnh Bình Thuận
43 Kiến nghị số 737/KN-VKS ngày 08/7/2019 của TAND tỉnh Bình Thuận
44 Công văn số 233/BC-TA ngày 05/8/2019 của TAND huyện Hàm Tân
45 Kiến nghị số 816/KN/VKS-P9 ngày 16/7/2017 của VKSND tỉnh Bình Thuận phục vi phạm bằng văn bản cho VKSND tỉnh BT Tuy nhiên, đến nay TAND huyện
TL vẫn chưa xem xét, trả lời