1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thu thập chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự việt nam

86 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 0,94 MB

Cấu trúc

  • 1.1 Khái niệm thu thập chứng cứ (11)
  • 1.2 Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ (15)
  • 1.3 Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ đối với quá trình chứng minh vụ án hình sự (19)
  • 1.4 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về thu thập chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam (22)
    • 1.4.1 Giai đoạn từ Chế độ phong kiến đến trước Cách mạng Tháng 8 năm (22)
    • 1.4.2 Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành (24)
    • 1.4.3 Giai đoạn từ khi ban hành BLTTHS năm 1988 đến khi ban hành BLTHS (27)
  • CHƯƠNG 2: PHÁT LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG (11)
    • 2.1 Pháp luật thực định về thu thập chứng cứ (29)
      • 2.1.1 Chủ thể có quyền thu thập chứng cứ (29)
      • 2.1.2 Các hình thức thu thập chứng cứ (36)
      • 2.1.3 Các phương pháp thu thập chứng cứ (43)
    • 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về thu thập chứng cứ (48)
      • 2.2.1 Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về thu thập chứng cứ (0)
      • 2.2.2 Những hạn chế trong hoạt động thu thập chứng cứ và nguyên nhân (52)
        • 2.2.2.1 Những hạn chế (52)
        • 2.2.2.2 Nguyên nhân (61)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ (29)
    • 3.1 Nhu cầu nâng cao hiệu quả (65)
    • 3.2 Các giải pháp cụ thể (67)
      • 3.2.1 Các giải pháp về mặt pháp luật (67)
      • 3.2.2 Các giải pháp khác (75)
  • KẾT LUẬN (81)

Nội dung

Khái niệm thu thập chứng cứ

Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn và hoạt động tố tụng khác nhau, trong đó hoạt động chứng minh là cốt lõi không thể thiếu Hoạt động này bao gồm việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ nhằm nhận thức tính chân lý khách quan của vụ án Việc thu thập chứng cứ là một hoạt động tố tụng bắt buộc, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội và các tình tiết liên quan Hoạt động này chủ yếu diễn ra trong giai đoạn điều tra và kéo dài đến khi xét xử kết thúc Để làm rõ khái niệm thu thập chứng cứ, cần xác định những gì cần thu thập, phương pháp và hoạt động thu thập cụ thể, từ đó giúp xác định đặc điểm và vai trò của hoạt động này trong toàn bộ quy trình tố tụng.

Trong lịch sử phát triển của khoa học luật tố tụng hình sự, học giả R.X Benkin người Nga đã đề xuất hai quan điểm khác nhau về khái niệm thu thập chứng cứ.

Theo quan điểm thứ nhất, khái niệm thu thập chứng cứ không bao gồm hoạt động phát hiện chứng cứ Thay vào đó, phát hiện, thu thập và củng cố chứng cứ được coi là những khái niệm độc lập với nhau.

Quan điểm thứ hai cho rằng, thu thập chứng cứ là tổng hợp các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ [18-tr.120,121]

Thạc sỹ Nguyễn Văn Cừ nhận định rằng thu thập chứng cứ là quá trình mà người có thẩm quyền sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm ghi nhận và thu giữ các chứng cứ cần thiết.

Theo tác giả Nguyễn Văn Cừ, hoạt động thu thập chứng cứ chỉ bao gồm giai đoạn ghi nhận và thu giữ, không bao gồm giai đoạn phát hiện chứng cứ Ông tách giai đoạn phát hiện chứng cứ thành một giai đoạn độc lập, đóng vai trò mở đầu cho hoạt động chứng minh vụ án, nhằm đảm bảo giá trị chứng minh và hiệu lực sử dụng của chứng cứ.

Thạc sỹ Đỗ Văn Đương và Thạc sỹ Nguyễn Duy Thuân có cách nhìn nhận khác nhau về việc thu thập chứng cứ trong điều tra hình sự Theo Thạc sỹ Đỗ Văn Đương, quá trình này bao gồm việc phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ, được thực hiện bởi điều tra viên và những người có thẩm quyền, bằng các phương pháp và biện pháp hợp pháp, không vi phạm pháp luật.

Theo Thạc sỹ Nguyễn Duy Thuân, thu thập chứng cứ là quá trình phát hiện và thu giữ các sự kiện chứng minh tội phạm, tức là tìm kiếm và lưu giữ những thông tin có giá trị chứng minh Quan điểm này tương đồng với ý kiến của học giả R.X Benkin về nội hàm thu thập chứng cứ theo nghĩa rộng.

Hai cuốn giáo trình Luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và trường Đại học Luật Hà Nội cung cấp những nhận định chi tiết về việc thu thập chứng cứ Theo giáo trình của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, thu thập chứng cứ được định nghĩa là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền, thực hiện theo các biện pháp quy định bởi Luật tố tụng hình sự.

Thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện, thu giữ và bảo quản thông tin, tư liệu liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật TTHS Theo giáo trình Luật Hà Nội, hoạt động này chỉ dừng lại ở việc xử lý thông tin, trong khi các thông tin này chỉ là nguồn chứng cứ Tác giả cho rằng cần phân biệt rõ giữa bản chất của hoạt động thu thập chứng cứ và việc thu thập nguồn chứng cứ.

Để thu thập chứng cứ đầy đủ, cần khai thác thông tin, tư liệu và vật chứng có giá trị từ nguồn chứng cứ ban đầu Việc này không chỉ dừng lại ở việc thu thập mà còn phải tìm kiếm thêm các nguồn chứng cứ khác và khai thác thông tin có sẵn Chỉ khi thông tin thỏa mãn ba thuộc tính: khách quan, liên quan và hợp pháp, chúng mới được công nhận là chứng cứ Do đó, việc thu thập và khai thác chứng cứ một cách triệt để giúp cơ quan chức năng và những người tham gia điều tra dễ dàng tìm ra sự thật và giải quyết vụ án đúng người đúng tội.

Qua việc phân tích và đánh giá những hạn chế từ các quan điểm đã nêu, tác giả định nghĩa thu thập chứng cứ như sau:

Thu thập chứng cứ là quá trình tổng hợp các hoạt động từ phát hiện, ghi nhận, thu giữ đến bảo quản chứng cứ Các hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan và chủ thể có thẩm quyền thông qua các biện pháp pháp lý.

Theo tác giả, thu thập chứng cứ bao gồm các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm, không chỉ dừng lại ở việc thu thập nguồn chứng cứ Các hoạt động này có mối quan hệ biện chứng, tương tác và thống nhất với nhau, được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật TTHS Nếu thiếu một trong các khâu này, hiệu quả chứng minh của hoạt động thu thập chứng cứ sẽ bị ảnh hưởng.

Phát hiện chứng cứ là quá trình tìm kiếm các sự vật, hiện tượng và tài liệu chứa thông tin giá trị nhằm chứng minh các sự kiện và tình tiết của vụ án Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng trong việc thu thập chứng cứ, vì chỉ khi phát hiện ra chứng cứ, người ta mới có thể tiến hành thu thập Việc phát hiện chứng cứ không chỉ giúp xác định các yếu tố liên quan mà còn đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng hồ sơ vụ án.

Bốn khâu quan trọng mở ra hướng giải quyết hiệu quả cho vụ án yêu cầu điều tra viên và các cơ quan có thẩm quyền phải có trình độ nghiệp vụ cao, nắm vững thông tin vụ án và hiểu biết về khoa học điều tra hình sự Việc xác định phạm vi và vị trí của các dấu vết, thông tin tại hiện trường là rất cần thiết Điều tra viên cần áp dụng các phương pháp quan sát và phát hiện chứng cứ khác nhau, tùy thuộc vào từng sự vật, hiện tượng, nhằm ghi nhận và thu giữ chứng cứ phục vụ cho việc chứng minh sau này Bên cạnh đó, thông tin từ những người chứng kiến vụ việc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho việc tìm kiếm và phát hiện các loại chứng cứ cần thiết.

Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ

Thu thập chứng cứ là giai đoạn quan trọng và liên tục trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, không chỉ diễn ra trong giai đoạn điều tra mà còn ở các giai đoạn truy tố và xét xử Nếu người thực thi tố tụng chỉ chú trọng vào việc thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra mà bỏ qua ở các giai đoạn sau, sẽ khó đảm bảo vụ án được giải quyết đúng người đúng tội Khi CQĐT chuyển hồ sơ cho VKS mà không rà soát lại, VKS sẽ quyết định truy tố mà không xem xét kỹ lưỡng, dẫn đến việc Hội đồng xét xử chỉ dựa vào các biên bản có sẵn mà không thu thập thêm chứng cứ Điều này dễ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm và oan sai, làm mờ nhạt vai trò của VKS và Tòa án, trong khi trách nhiệm lại đổ dồn về CQĐT.

Sau khi CQĐT thu thập và đánh giá chứng cứ, KSV cần xem xét không chỉ bản kết luận điều tra mà còn phải thu thập thêm chứng cứ nếu cần thiết để quyết định truy tố, đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung Trong giai đoạn xét xử, Tòa án không được hoàn toàn dựa vào các chứng cứ và kết luận từ giai đoạn điều tra, mà chỉ coi đó là cơ sở để tiến hành xét xử Tòa án có quyền đánh giá vụ án một cách độc lập.

Quá trình thu thập chứng cứ diễn ra độc lập thông qua việc xét hỏi và tranh luận, cho phép yêu cầu xác minh và bổ sung thông tin, tình tiết mới Hoạt động này sẽ tiếp tục diễn ra nếu bản án hoặc quyết định của Tòa án bị kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp.

Tính nhanh chóng và kịp thời

Tính nhanh chóng và kịp thời trong hoạt động thu thập chứng cứ là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo nguyên vẹn và giá trị chứng minh của chứng cứ Việc thu thập cần được tiến hành ngay khi nhận được thông tin về hành vi phạm tội, bao gồm tổ chức khám nghiệm hiện trường và giám định các dấu vết, tài liệu liên quan Điều này giúp ngăn chặn việc xóa bỏ hiện trường và mất mát chứng cứ Việc lấy lời khai cũng phải diễn ra khẩn trương để tránh cho nghi phạm có thời gian sắp xếp đối phó Một số dấu vết có thể không đủ chứng minh nhưng vẫn cần được thu giữ để nghiên cứu sau này Tuy nhiên, cần tránh việc thu thập chứng cứ tràn lan, mà phải tập trung vào các đối tượng chứng minh cụ thể và phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng ngay từ đầu để đảm bảo hiệu quả trong việc thu thập chứng cứ.

Tính khách quan và toàn diện

Thuộc tính khách quan của chứng cứ là yếu tố then chốt trong việc xác định giá trị chứng minh, góp phần vào việc giải quyết chính xác các vụ án hình sự Do đó, quá trình thu thập chứng cứ cần phải tuân thủ sự thật khách quan, yêu cầu sự nhận định và phản ánh chứng cứ đúng với bản chất của nó, nhằm tránh những sai lệch do tư duy chủ quan.

Trong quá trình thu thập chứng cứ, các vi phạm liên quan đến tính khách quan thường xảy ra, bao gồm việc khám nghiệm hiện trường không chính xác, ghi nhận phương tiện gây tai nạn sai lệch, và quá trình xét hỏi có dấu hiệu bức cung, mớm cung, hay nhục hình Những hành vi này thể hiện sự thiếu trung thực và vô tư, dẫn đến việc ghi nhận nội dung theo ý muốn của người thực hiện thu thập chứng cứ.

Hoạt động thu thập chứng cứ cần phải toàn diện, xem xét mọi mối liên hệ để đảm bảo không bỏ sót chứng cứ gỡ tội hay chứng cứ giảm nhẹ Chứng cứ thu thập một cách khách quan và nhanh chóng nhưng không đầy đủ sẽ khó có giá trị chứng minh sự thật của vụ án, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố và xét xử sau này Để thực hiện yêu cầu này, việc thu thập chứng cứ phải do những người có thẩm quyền thực hiện, họ cần nâng cao chuyên môn, tuân thủ quy trình và tôn trọng quyền đưa ra chứng cứ của các bên liên quan.

Thu thập chứng cứ là một hoạt động nhận thức quan trọng, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức được xem là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người dựa trên thực tiễn Cấu trúc của nhận thức rất phức tạp và có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau như nguồn gốc, trình độ và các giai đoạn của quá trình nhận thức Trong bối cảnh điều tra, hoạt động thu thập chứng cứ không chỉ là một phần của quá trình chứng minh mà còn được coi là một dạng hoạt động nhận thức ngay từ giai đoạn đầu.

Hoạt động thu thập chứng cứ phản ánh các khách thể đang hiện hữu, khác với hoạt động chứng minh chỉ phản ánh quá khứ Đây là một đặc điểm quan trọng của thu thập chứng cứ trong quá trình nhận thức Nếu không dựa vào lý luận nhận thức, sẽ khó giải thích các quy luật hình thành chứng cứ và hiểu rõ hiệu quả của hoạt động điều tra.

Dấu vết tội phạm phản ánh thực tế khách quan nhưng chưa đủ để trở thành chứng cứ cho CQĐT, VKS và Tòa án Để được sử dụng làm chứng cứ, các dấu vết này cần được thu thập và ghi nhận theo quy trình pháp luật, đảm bảo phản ánh đúng sự thật Quá trình chuyển hóa dấu vết thành chứng cứ là cần thiết, giúp làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án Đây là một quá trình khách quan, tuân thủ các quy luật nhận thức và được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Theo quy định của BLTTHS, chỉ có các chủ thể là cơ quan THTT và người THTT mới có thẩm quyền thu thập chứng cứ

Theo Điều 33 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, các cơ quan thực thi tố tụng bao gồm Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án Những người có quyền thu thập chứng cứ gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm Trong số đó, Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán là những chủ thể chính thực hiện việc thu thập chứng cứ và giải quyết các vụ án hình sự.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003, một số cơ quan như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các đơn vị khác thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được phép thực hiện các hoạt động điều tra và thu thập chứng cứ Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và phù hợp với tính đặc thù của các ngành nghề này.

Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ đối với quá trình chứng minh vụ án hình sự

Là cơ sở tiền đề để thực hiện các hoạt động chứng minh tiếp theo

Chứng minh trong tố tụng hình sự (TTHS) bao gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, tạo thành một quá trình liên kết chặt chẽ Sự thiếu hụt trong giai đoạn thu thập chứng cứ sẽ dẫn đến việc không thể thực hiện các bước kiểm tra và đánh giá hiệu quả.

Hoạt động thu thập chứng cứ từ khi phát hiện đến khi ghi nhận, thu giữ và bảo quản cần đảm bảo tính nhanh chóng, khách quan và toàn diện để công tác kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ sau này đạt hiệu quả cao Các cơ quan có thẩm quyền cần chú trọng giai đoạn này, vì nếu chỉ tập trung vào chứng cứ trực tiếp mà bỏ qua các loại chứng cứ liên quan khác, dễ dẫn đến việc bỏ sót tội phạm và gây oan sai Nếu trong các giai đoạn sau phát hiện chứng cứ trực tiếp là giả mạo hoặc xuất hiện tình tiết mới, quá trình kiểm tra và đánh giá chứng cứ sẽ trở nên vô nghĩa Các chứng cứ thu thập được có thể mất giá trị chứng minh, làm giảm khả năng làm sáng tỏ vụ án, dẫn đến việc phải quay lại thu thập thêm chứng cứ, trong khi giai đoạn điều tra lại sẽ gặp nhiều khó khăn do tính chất thay đổi và biến dạng tự nhiên của chứng cứ.

10 hành vi phạm tội cố tình tẩu tán, xóa dấu tích và tiêu hủy chứng cứ khiến chúng không còn đảm bảo tính nguyên vẹn ban đầu

Là cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can hay đình chỉ giải quyết vụ án hình sự

Theo Điều 163 BLTTHS 2003, khi có đủ chứng cứ xác định tội phạm, CQĐT lập bản kết luận điều tra để đề nghị truy tố đến VKS Bản kết luận này trình bày diễn biến hành vi phạm tội, các chứng cứ chứng minh, ý kiến giải quyết vụ án, cùng lý do và căn cứ đề nghị truy tố Kiểm sát viên, sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận, sẽ nghiên cứu kỹ nội dung vụ án và chứng cứ để kiểm tra tính chính xác của đề nghị truy tố, đảm bảo rằng kết luận điều tra phản ánh đúng hồ sơ và quy trình thu thập chứng cứ, đồng thời phát hiện các vi phạm của CQĐT để yêu cầu khắc phục kịp thời.

Căn cứ theo Điều 166, 167, 168, 169 BLTTHS 2003:

Khi có đủ căn cứ để quyết định truy tố, Kiểm sát viên sẽ soạn thảo dự thảo Cáo trạng và trình lên Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng để được ký duyệt.

- Nếu có căn cứ xác định thuộc một trong những trường hợp qui định tại Điều

168 BLTTHS 2003 thì Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung

Nếu có căn cứ theo khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS 2003, hoặc theo Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS 2003, thì có thể ra quyết định đình chỉ vụ án Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, nếu căn cứ đình chỉ không liên quan đến tất cả các bị can, có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can riêng biệt.

Nội dung quyết định của Viện Kiểm sát (VKS) trong việc giải quyết vụ án hình sự phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thu thập chứng cứ và kết quả từ hoạt động điều tra.

Là cơ sở để Tòa án xét xử công bằng, đúng pháp luật

Công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự là quá trình liên tục mà các cơ quan tư pháp thực hiện để giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật Kết quả của các giai đoạn tố tụng trước đó là cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo Hoạt động chuẩn bị xét xử và xét xử của ngành TAND là bước cuối cùng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, yêu cầu đội ngũ Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ lưỡng các kết quả điều tra và truy tố để đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội và phù hợp với pháp luật.

Tòa án ở Việt Nam chủ yếu áp dụng mô hình tố tụng thẩm vấn, do đó, hoạt động xét xử phụ thuộc nhiều vào kết luận điều tra, quyết định truy tố và hồ sơ vụ án Nếu không có chứng cứ, cơ quan điều tra không thể hoàn thành bản kết luận, dẫn đến việc VKS không thể truy tố và Tòa án không có cơ sở để xét xử Độ chính xác của xét xử một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng giai đoạn điều tra Tuy nhiên, Tòa án có quyền đánh giá độc lập vụ án thông qua xét hỏi và tranh luận, cũng như yêu cầu thu thập thêm thông tin mới Việc thu thập chứng cứ phải đầy đủ, bao gồm cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội, xác định rõ ràng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giúp Tòa án ra quyết định chính xác.

Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về thu thập chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam

Giai đoạn từ Chế độ phong kiến đến trước Cách mạng Tháng 8 năm

Hoạt động thu thập chứng cứ trong pháp luật TTHS đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, bắt đầu từ thời kỳ phong kiến cho đến khi Bộ luật TTHS Việt Nam năm 1988 được ban hành Trong giai đoạn này, mặc dù đã có những văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên đề cập đến việc thu thập chứng cứ, nhưng nội dung chủ yếu chỉ ghi nhận một số cách thức thu thập một cách rời rạc mà chưa quy định cụ thể về các hình thức thu thập chứng cứ và các chủ thể có thẩm quyền, như đã được quy định trong BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003.

Trong triều đại phong kiến nhà Lê, hệ thống pháp luật phát triển mạnh mẽ nhất với Quốc triều hình luật, được coi là bộ luật chính thống có giá trị lịch sử quan trọng trong lập pháp Việt Nam Việc thu thập chứng cứ trong thời kỳ này được quy định rải rác, tuy nhiên đã có những quy định cụ thể như tại Điều 667, yêu cầu quan án phải xem xét kỹ lời khai của tù nhân để tìm ra sự thật Mặc dù nghĩa vụ thu thập chứng cứ từ lời khai đã được đặt ra, nhưng hoạt động này vẫn mang tính chủ quan và có thể dẫn đến việc buộc tội Điều 668 cho thấy rằng vật chứng có thể được xem trọng hơn lời khai, cho phép xử phạt ngay cả khi kẻ phạm tội không nhận tội, thể hiện vai trò của vật chứng ngang hàng với lời khai trong việc định tội.

13 sự chú trọng của pháp luật triều Lê trong việc thu thập vật chứng làm chứng cứ buộc tội

Bộ luật Gia Long, được ban hành năm 1815 dưới triều Nguyễn, được coi là bộ luật hoàn chỉnh nhất trong lịch sử pháp luật cổ Việt Nam Mặc dù vậy, tính pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ trong bộ luật này chưa được quy định rõ ràng mà chỉ được đề cập một cách ngầm, đặc biệt là trong Điều 369.

Bộ luật Gia Long quy định rằng trong quá trình điều tra, việc lấy cung có thể bao gồm các hình thức tra khảo như đánh roi, gậy, hay kìm kẹp phạm nhân Điều này cho thấy Bộ luật đã ghi nhận việc thu thập chứng cứ là một bước quan trọng trong quá trình chứng minh.

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, miền Bắc Việt Nam áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) do thực dân Pháp xây dựng, với quy định quan trọng về việc lưu giữ, bảo quản chứng cứ trong quá trình điều tra Cụ thể, Điều 40 quy định rằng tang vật do người đương sự hoặc viên chức khám nghiệm thu giữ phải được lưu giữ cẩn thận để phục vụ cho các phiên tòa sau này Tương tự, chính quyền Sài Gòn đã ban hành BLTTHS Việt Nam Cộng Hòa, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu thập vật chứng tại hiện trường để tránh mất mát Điều 48 yêu cầu hình cảnh phải kịp thời đến hiện trường, thực hiện các hành vi kiểm chứng cần thiết và bảo lưu các dấu vết có thể biến mất, nhằm làm rõ sự thật vụ án và thu thập mọi tang vật liên quan.

Ngoài ra, Điều 5 của Bộ luật cũng quy định thêm về chế độ bảo quản bắt buộc như tiến

Khi thu thập vật chứng, việc lập biên bản và niêm phong là rất quan trọng Tất cả các vật dụng và tài liệu bị sai áp phải được liệt kê và niêm phong ngay lập tức Nếu không thể thực hiện việc lập biên bản tại chỗ, cần đưa chúng vào nơi có khóa niêm phong tạm thời cho đến khi có thể thực hiện việc liệt kê và niêm phong chính thức, với sự hiện diện của những người có mặt trong quá trình khám xét.

Nhận thức về thu thập chứng cứ bao gồm các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ Bộ luật Tố tụng hình sự do thực dân Pháp xây dựng áp dụng tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ không chỉ ghi nhận tầm quan trọng của việc thu thập vật chứng mà còn quy định phương pháp thu giữ và bảo quản vật chứng để tránh mất mát và tiêu hủy, phục vụ cho việc chứng minh sau này Điều này đánh dấu sự tiến bộ trong lập pháp và mở ra hướng hoàn thiện chế định pháp lý về hoạt động thu thập chứng cứ trong các giai đoạn tiếp theo.

Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành

Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, vào năm 1954, khi đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, pháp luật tố tụng của nước ta đã ban hành một số văn bản quy định về hoạt động thu thập chứng cứ, đồng thời phân chia rõ ràng các đối tượng thu thập.

Thu thập chứng cứ từ lời khai của của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Thông tư số 2225/HCTP ngày 24/10/1956 của Bộ Tư pháp đã lần đầu tiên quy định về quyền bào chữa của bị can, nhấn mạnh việc thu thập và kiểm tra chứng cứ từ lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, và bị cáo Cụ thể, trong quá trình điều tra và xét xử, không được phép mớm cung, bức cung hay sử dụng bất kỳ hình thức nào để ép buộc bị can nhận tội Lời thú tội của bị can phải được xác minh bằng chứng trước khi được sử dụng làm cơ sở kết tội Tòa án chỉ căn cứ vào những sự việc đã được xác minh rõ ràng trong phiên tòa để đưa ra kết luận Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao cũng đã quy định trình tự thu thập chứng cứ từ lời khai.

Chủ tọa phiên tòa cần cho bị cáo trình bày toàn bộ hành vi bị truy tố, và nếu có điểm nào không rõ ràng, sẽ đặt câu hỏi bổ sung Trong trường hợp vụ án phức tạp hoặc bị cáo bị truy tố nhiều tội, có thể tách ra để hỏi riêng từng vấn đề Hội đồng xử án phải lắng nghe lời khai của bị cáo và chủ tọa cần căn cứ vào chứng cứ vững chắc để chỉ ra những điểm không đúng trong lời khai, tránh tranh cãi trực tiếp với bị cáo Nếu bị cáo từ chối cãi, cần yêu cầu đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu thêm hoặc chuyển sang vấn đề khác.

Ngay từ năm 1956, Nhà nước đã ban hành văn bản pháp luật quy định về việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ từ lời khai của bị can, bị cáo Điều này nghiêm cấm mọi hình thức bức cung, mớm cung hay trấn áp đối tượng Bên cạnh đó, không nên quá coi trọng lời khai của bị can, mà cần tiến hành xem xét, xác minh và so sánh với các chứng cứ khác trong vụ án.

Thu thập chứng cứ từ lời khai của các bên liên quan như người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là một bước quan trọng trong quá trình điều tra Những lời khai này cung cấp thông tin cần thiết để làm rõ sự việc và xác định trách nhiệm pháp lý Việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện một cách cẩn thận và khách quan để đảm bảo tính chính xác và hợp pháp của thông tin.

Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 ra đời, Công văn số 98-NCPL ngày 02/3/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu thập chứng cứ từ lời khai của người làm chứng Cụ thể, lời khai của nhân chứng, dù trực tiếp hay gián tiếp, cần phải được xác minh để đảm bảo tính chính xác, vì có thể gặp phải các vấn đề như trí nhớ kém, thiếu sót do thời gian trôi qua, hoặc sự ngại ngùng trong việc cung cấp thông tin đầy đủ.

Thực tiễn xét xử cho thấy rằng nhân chứng có thể đưa ra những lời khai khác nhau tại các cơ quan như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và phiên tòa Việc xác minh tính xác thực của lời khai từ nhân chứng là rất quan trọng, nhằm xác định lời khai nào đáng tin cậy và có thể làm cơ sở cho việc đánh giá chứng cứ.

Trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình sự, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu thập và kiểm tra chứng cứ từ các bên liên quan trong vụ án Cần xem xét tính xác thực của lời khai từ người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và nhân chứng, tránh trường hợp khai báo sai do cảm xúc cá nhân hoặc động cơ không chính đáng Đồng thời, yêu cầu bồi thường của người bị hại và nguyên đơn cũng phải được hỗ trợ bởi các chứng cứ và tài liệu cụ thể, không chỉ dựa vào lời khai.

Mặc dù các tài liệu hiện hành chưa quy định chi tiết về việc thu thập chứng cứ từ lời khai của nhân chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng chúng đã định hướng cho những người thực thi công vụ trong việc xác định các phương pháp thu thập chứng cứ trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Thu thập chứng cứ từ vật chứng, kết luận giám định, biên bản điều tra và xét xử, cùng các tài liệu, đồ vật khác liên quan đến vụ án là một bước quan trọng trong quá trình điều tra và xử lý vụ án.

Công văn số 98-NCPL ngày 02/3/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn các Tòa án địa phương về quy trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ từ vật chứng trong các vụ án.

Khi nghiên cứu vật chứng trong vụ án, cán bộ xét xử cần chú ý đến việc xem xét kỹ lưỡng các hiện vật, xác định đặc điểm của chúng và đối chiếu với tài liệu có trong hồ sơ, bao gồm biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu liên quan khác.

Trong quá trình xem xét lời khai của bị cáo, cần kiểm tra xem chúng có phù hợp với vật chứng hay không, cũng như xác định các đặc điểm có thể mâu thuẫn Vật chứng có thể bao gồm nhiều loại nguồn chứng cứ khác nhau, từ những vật cụ thể đến các yếu tố giả mạo nhằm đánh lạc hướng điều tra.

Kết luận giám định là yếu tố quan trọng trong quá trình xét xử của Tòa án, theo Công văn số 98-NCPL, vì nó cung cấp cơ sở khoa học để xem xét vật chứng Kết luận này, khi kết hợp với các chứng cứ khác, giúp Tòa án xác định chính xác nội dung vụ án Tuy nhiên, Tòa án không nhất thiết phải tuân theo kết luận của giám định viên, do có khả năng kết luận này không chính xác hoặc không phù hợp với các chứng cứ khác Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu giám định viên khác để đảm bảo tính chính xác của việc giám định.

Theo Công văn số 98-NCPL, biên bản hoạt động điều tra và các tài liệu liên quan đến vụ án sẽ khác nhau tùy thuộc vào loại tội phạm Hồ sơ vụ án có thể bao gồm biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, cùng với các tài liệu do Ủy ban hành chính xã hoặc đồn Công an lập khi xảy ra vụ phạm pháp Ngoài ra, hồ sơ còn có thể chứa giấy chứng nhận thương tích, đơn thuốc, sổ sách, hóa đơn và chứng từ kế toán liên quan.

PHÁT LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Pháp luật thực định về thu thập chứng cứ

2.1.1 Chủ thể có quyền thu thập chứng cứ

Theo Điều 10 BLTTHS 2003, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội Nghĩa vụ chứng minh nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong vụ án hình sự, và việc quy định này cho các cơ quan tố tụng là hợp lý, xuất phát từ quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước trong việc đấu tranh chống tội phạm Bị can, bị cáo thường ở vị trí bị động và có sự chênh lệch về địa vị xã hội cũng như năng lực, do đó, nếu giao nghĩa vụ chứng minh cho họ mà không thực hiện được, sẽ dẫn đến việc phải chịu trách nhiệm hình sự, trái với nguyên tắc Suy đoán vô tội Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, với thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự, có nghĩa vụ chứng minh sự thật vụ án dựa trên quyền năng được giao Với trình độ chuyên môn cao và sự hỗ trợ từ đội ngũ cán bộ chuyên trách, việc giao trách nhiệm chứng minh cho các cơ quan tố tụng hiện nay là hợp lý và khoa học.

Thu thập chứng cứ là một hoạt động quan trọng trong việc chứng minh theo pháp luật Tố tụng hình sự Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh cũng chính là chủ thể phải thu thập chứng cứ Nhằm đảm bảo quy trình này, Nhà nước đã quy định rõ ràng tại Điều 65 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Năm 2003, các cơ quan THTT như CQĐT, VKS và Tòa án đều có quyền thu thập chứng cứ Trong đó, Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng CQĐT ở các cấp, cùng với Viện trưởng và Phó Viện trưởng cũng được trao quyền này.

Viện trưởng VKS và Chánh án các cấp có quyền ra lệnh áp dụng các hình thức thu thập chứng cứ trong quá trình điều tra Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội thẩm và Thẩm phán là những người trực tiếp tham gia giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình tố tụng.

Ngoài các đối tượng được liệt kê tại Điều 65 BLTTHS 2003, một số cơ quan khác cũng được Nhà nước giao thẩm quyền khởi tố và thực hiện các hoạt động điều tra ban đầu, bao gồm việc thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 111 BLTTHS 2003 Những cơ quan này bao gồm Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, cùng với các cơ quan khác thuộc Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.

Để đảm bảo sự nhất quán trong quá trình sửa đổi, tác giả đề xuất bổ sung các cơ quan có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu vào Điều 65 BLTTHS 2003, nhằm tạo điều kiện cho họ trở thành chủ thể có thẩm quyền thu thập chứng cứ.

Người bào chữa cũng là một chủ thể quan trọng trong việc thu thập chứng cứ, nhưng pháp luật TTHS hiện hành không cho phép họ thực hiện hoạt động điều tra như Điều tra viên, mà chỉ được thu thập tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án Với vai trò thiết yếu của người bào chữa, câu hỏi đặt ra là liệu có nên giao cho họ quyền thu thập chứng cứ hay không, vấn đề này sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo.

Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, mỗi giai đoạn có vai trò thu thập chứng cứ khác nhau từ các chủ thể có thẩm quyền Tuy nhiên, sự tương tác và phối hợp giữa các giai đoạn là rất quan trọng để đảm bảo quá trình chứng minh vụ án diễn ra hiệu quả và nhanh chóng.

Khởi tố là giai đoạn đầu tiên trong quá trình điều tra vụ án hình sự, theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Các cơ quan như Công an điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án, cùng với các cơ quan khác như Hải quan, Kiểm lâm, và Bộ đội biên phòng đều có thẩm quyền tham gia vào quyết định khởi tố vụ án Do đó, các cơ quan tố tụng cần phối hợp hỗ trợ lẫn nhau để thu thập chứng cứ một cách nhanh chóng và chính xác.

Sau khi nhận được thông tin từ các cơ quan, tổ chức hoặc tố giác tội phạm từ công dân, cơ quan điều tra (CQĐT) sẽ thực hiện việc thu thập tài liệu và thông tin sơ bộ theo quy định tại Điều 104 BLTTHS 2003 Mục tiêu của giai đoạn này là xác minh có dấu hiệu phạm tội hay không để đưa ra quyết định khởi tố, đồng thời ngăn chặn việc tẩu tán vật chứng và xóa dấu vết hiện trường Theo Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ, trong giai đoạn này, các CQĐT thường áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để đảm bảo tính hiệu quả của quá trình điều tra.

Các cơ quan, tổ chức xã hội và công dân cần cung cấp tài liệu cần thiết và giải thích các vấn đề liên quan đến việc xử lý tin báo tội phạm, bao gồm lời khai, vật chứng và các tài liệu khác.

- Thông báo rộng rãi cho quần chúng nhân dân biết để họ cung cấp tài liệu, tin tức cần thiết nhằm làm rõ sự việc;

Trong quá trình điều tra, lực lượng chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường và bắt giữ người trong các tình huống khẩn cấp Họ tiếp nhận những người bị bắt do phạm tội quả tang và thực hiện khám người trong những trường hợp này Ngoài ra, việc khám xét cũng được thực hiện khi không thể trì hoãn, cùng với việc lấy lời khai từ những cá nhân liên quan đến sự việc.

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan tự kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan thanh tra có thẩm quyền tiến hành thanh tra làm rõ sự việc;

Tiến hành các thủ tục hành chính bao gồm việc kiểm tra giấy tờ tùy thân, hộ tịch, hộ khẩu, tạm trú và hoạt động kinh doanh sản xuất.

Theo Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Viện Kiểm sát có trách nhiệm phối hợp với Cơ quan điều tra để chuyển ngay các tin báo và tin tố giác về tội phạm, cùng với kiến nghị khởi tố và các tài liệu liên quan.

VKS đóng vai trò giám sát quan trọng trong quá trình điều tra, theo dõi các hoạt động của CQĐT ngay khi có dấu hiệu phạm tội và khởi tố vụ án Đây là giai đoạn đầu tiên để VKS thu thập chứng cứ, đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả của quá trình điều tra.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:33

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
12. Nguyễn Văn Cừ - Chứng minh trong Luật Tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Tư pháp, Hà nội 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chứng minh trong Luật Tố tụng hình sự Việt nam
Nhà XB: Nxb Tư pháp
13. Nguyễn Ngọc Duy - Phương pháp nghiên cứu đánh giá chứng cứ trong Tố tụng hình sự và kỹ năng áp dụng pháp luật hình sự, Nxb Hồng Đức, Hà Nội 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp nghiên cứu đánh giá chứng cứ trong Tố tụng hình sự và kỹ năng áp dụng pháp luật hình sự
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
14. Đỗ Văn Đương - Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
17. Nguyễn Duy Thuân - Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự, Tp.Hồ Chí Minh 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự
18. Trần Quang Tiệp - Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
19. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Khoa học điều tra hình sự
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
20. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
21. Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt nam, Tp.Hồ Chí Minh 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam
Nhà XB: Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt nam
23. Ban soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự, Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội, tháng 10-2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự
24. Nguyễn Huy Giảng - Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan khác được giam nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, Tạp chí khoa học kiểm sát số 2/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan khác được giam nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
25. Nguyễn Đức Hạnh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực nghiệm điều tra, Tạp chí khoa học kiểm sát số 8/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực nghiệm điều tra
26. Nguyễn Viết Hoạt - Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý số 3/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự
27. Nguyễn Trung Kiên - Nâng cao chất lượng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự, Tạp chí khoa học kiểm sát số 9/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự
29. Lê Minh Long - Việc thu thập và sử dụng chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học kiểm sát số 2/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việc thu thập và sử dụng chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
30. Võ Thị Kim Oanh và Nguyễn Ngọc Kiện - Thực trạng pháp luật và thực tiễn về người bị tình nghi trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Tạp chí khoa học pháp lý số 6/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng pháp luật và thực tiễn về người bị tình nghi trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003
31. Hồ Sỹ Sơn - Các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự nhìn từ góc độ cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự nhìn từ góc độ cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
32. Bùi Thế Tỉnh - Địa vị pháp lý của Điều tra viên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí khoa học pháp lý số 5/2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa vị pháp lý của Điều tra viên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
35. Viện kiểm sát Tp.HCM, Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2014. Luận văn thạc sĩ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2014
37. Lương Quốc Phòng - Kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, 2010.Các trang website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w