THẨM QUYỀN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, "thẩm quyền" được định nghĩa là tổng hợp các quyền chính thức để xem xét, quyết định một vấn đề Thẩm quyền không chỉ là quyền được trao mà còn đi kèm với trách nhiệm thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể theo quy định của pháp luật.
Khởi tố vụ án hình sự đánh dấu giai đoạn đầu tiên trong quy trình tố tụng hình sự, khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm Dựa trên các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, cơ quan này sẽ xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự do cơ quan có thẩm quyền ban hành đánh dấu sự khởi đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là quyền của một số chủ thể nhất định được phép ban hành “Quyết định khởi tố vụ án hình sự” khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Tại Việt Nam, thẩm quyền này được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát có đặc điểm sau:
Viện kiểm sát có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, thực hiện chức năng quyền công tố, thể hiện quyền lực Nhà nước Quyền này được Nhà nước trao cho Viện kiểm sát nhằm quyết định khởi động quá trình tố tụng hình sự để chứng minh và xử lý các hành vi phạm tội.
1 Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp, tr 701
2 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, tr 261
3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB CAND, tr 233
Viện kiểm sát thực hiện quyền khởi tố vụ án với vai trò là cơ quan thực hành quyền công tố, đồng thời kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, không phải là cơ quan điều tra có trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội.
- Việc thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát phải đáp ứng yêu cầu là đảm bảo tính có căn cứ, chính xác, kịp thời
Thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát có ý nghĩa pháp lý và chính trị sâu sắc, phù hợp với mô hình tố tụng hình sự mà Đảng và Nhà nước đang xây dựng, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị Việc này nhằm đảm bảo phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội, ngăn ngừa tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội Hơn nữa, thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự còn tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát trong việc kiểm soát tuân thủ pháp luật trong tố tụng hình sự.
Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên được ban hành vào năm 1988, Viện kiểm sát đã được giao thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự Khi phát hiện dấu hiệu tội phạm, Viện kiểm sát có trách nhiệm khởi tố vụ án trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình Điều 81 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định rõ rằng khi xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Viện kiểm sát có quyền tự khởi tố vụ án hình sự và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát rất rộng, cho phép họ ra quyết định khởi tố khi phát hiện bất kỳ hành vi nào có dấu hiệu tội phạm.
Theo BLTTHS năm 2003 thì phạm vi thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát được thu hẹp hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988;
4 Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”
5 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
6 Luật tổ chức VKSND (năm 2014) Khoản 3 Điều 14
7 BLTTHS (năm 1988),Điều 13; BLTTHS (năm 2003), Điều 13; BLTTHS năm 2015 (Điều 18)
9 BLTTHS (năm 1988), Điểm a khoản 3 Điều 141
Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp chính: Thứ nhất, khi Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố của Cơ quan điều tra; thứ hai, khi Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Một số ý kiến cho rằng Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án trong quá trình điều tra, dựa trên khoản 1 Điều 112 BLTTHS năm 2003 Tuy nhiên, cách hiểu này là sai vì điều này chỉ quy định thẩm quyền chung, và việc khởi tố phải tuân theo quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 104 BLTTHS Thực tế, một số Viện kiểm sát địa phương đã hiểu sai và thực hiện quyền khởi tố không đúng quy định pháp luật Vấn đề này đã được cải thiện trong BLTTHS năm 2015, tại Điều 165, quy định rõ rằng Viện kiểm sát chỉ khởi tố vụ án hình sự “trong các trường hợp do Bộ luật này quy định”.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát chỉ được thực hiện trong giai đoạn điều tra 11
BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát tại khoản 3 Điều 153:
Viện kiểm sát có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự trong các trường hợp sau: thứ nhất, hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra; thứ hai, trực tiếp giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; và thứ ba, phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát so với BLTTHS năm 2003 Cụ thể, Viện kiểm sát hiện có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong 04 trường hợp khác nhau.
Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra Khi ra quyết định không khởi tố, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định và tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát trong vòng 24 giờ Nếu quyết định này không có căn cứ, Viện kiểm sát sẽ hủy bỏ và ra quyết định khởi tố vụ án Để phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật, liên ngành trung ương đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP, quy định rằng Viện kiểm sát chỉ khởi tố vụ án khi đã có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ quyết định không khởi tố nhưng không được thực hiện.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử phát hiện có tội phạm chưa được khởi tố trong quá trình xét xử, họ có quyền yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án Nếu yêu cầu này có căn cứ, Viện kiểm sát sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyển các tài liệu liên quan đến vụ án.
Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự Để nâng cao hiệu quả công tác này, cần áp dụng các giải pháp như tăng cường đào tạo chuyên môn cho cán bộ, cải thiện quy trình làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ vụ án Bên cạnh đó, việc tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng cũng là yếu tố then chốt giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác khởi tố.
1.2.1 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1.1 Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, Viện kiểm sát các cấp đã nâng cao vai trò và trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố, thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự Việc áp dụng quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc, giúp Viện kiểm sát tăng cường hoạt động khởi tố, đảm bảo xử lý kịp thời và nghiêm minh các hành vi phạm tội, từ đó hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm.
24 BLTTHS (năm 2015), Điểm d khoản 1 Điều 161, khoản 3 Điều 165, khoản 4 Điều 236
25 BLTTHS (năm 2003), Điều 109 và Điều 112
Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhấn mạnh việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra Chỉ thị này nhằm gắn kết công tố với các hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hiệu quả hơn.
Theo thống kê của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, tình hình khởi tố vụ án hình sự tại các cấp Viện kiểm sát trong những năm qua có sự biến động Cụ thể, năm 2015 có 25 quyết định khởi tố, năm 2016 giảm xuống còn 21 quyết định, năm 2017 tăng nhẹ lên 22 quyết định, nhưng năm 2018 lại giảm xuống còn 20 quyết định Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2019, Viện kiểm sát đã ra 9 quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Theo khảo sát của tác giả từ năm 2015 đến nay, Viện kiểm sát tại một số địa phương có số lượng quyết định khởi tố vụ án hình sự tương đối ít, cụ thể như Viện kiểm sát Bình Thuận ra 04 quyết định, thành phố Hồ Chí Minh 13 quyết định, Lâm Đồng 03 quyết định, Đắc Lăk 01 quyết định, Quảng Ngãi 01 quyết định và Cần Thơ 01 quyết định Phần lớn các quyết định khởi tố được đưa ra khi Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố của Cơ quan điều tra Nguyên nhân chính là do sự phối hợp chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm Cả hai bên đều thực hiện quy chế phối hợp theo Thông tư liên tịch số 04/2018 và xây dựng quy chế riêng để thống nhất trong việc xử lý các vụ án hình sự Mặc dù số lượng quyết định khởi tố ít, nhưng chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ lọt tội phạm và đảm bảo xử lý các hành vi phạm tội bằng biện pháp hình sự.
Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân trong các năm 2015-2019 cho thấy rằng Viện kiểm sát chỉ có thể hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra khi đã có văn bản yêu cầu và Cơ quan điều tra không thực hiện, nhằm tránh bỏ lọt tội phạm Nếu Viện kiểm sát không thực hiện tốt chức năng của mình, có thể dẫn đến việc không khởi tố các hành vi phạm tội Ngược lại, khi quyết định khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát có căn cứ, sẽ giúp khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm do Cơ quan điều tra gây ra.
VKSND huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình Thuận đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với Lê Ngọc S về tội "Dâm ô đối với trẻ em" theo Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999.
Vào ngày 24/9/2017, Lê Ngọc S, 21 tuổi, trú tại xã Hàm Cần, huyện Hàm Thuận N, tỉnh BT, đã có hành vi xâm hại tình dục đối với cháu Đỗ Ngọc V, sinh ngày 20/4/2012 Kết luận giám định pháp y số 41/2017/TD ngày 03/10/2017 của Trung tâm Giám định pháp y tỉnh BT cho thấy tình trạng của cháu V có màng trinh phù, tím nề, cùng với một vết xước chưa tới chân màng và vết xước mới ở tầng sinh môn có rướm ít máu Vụ việc hiện đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận N tiến hành điều tra.
N đã quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 251 vào ngày 07/02/2018, căn cứ vào khoản 2 Điều 157 BLTTHS năm 2015 Lý do là mặc dù Lê Ngọc S có hành vi dùng tay chọc vào âm đạo của cháu V, nhưng S khai rằng hành vi này chỉ nhằm mục đích dọa dẫm để cháu V ngừng nghịch ngợm, không phải để thỏa mãn tình dục.
Vào ngày 18/6/2015, VKSND huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 01/QĐ-VKS liên quan đến tội “Dâm ô đối với trẻ em” Tuy nhiên, VKSND huyện Hàm Thuận Nam nhận định rằng hành vi của Lê Ngọc S thể hiện rõ ý thức chủ quan nhằm thỏa mãn dục vọng, do đó cần khởi tố vụ án để điều tra và xử lý nghiêm theo pháp luật Ngày 06/3/2018, VKSND huyện Hàm Thuận N đã thông báo không đồng ý với quyết định không khởi tố và yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra hủy bỏ quyết định này, nhưng cơ quan điều tra không thực hiện Đến ngày 18/6/2018, VKSND huyện Hàm Thuận N đã hủy bỏ quyết định không khởi tố và ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/QĐ-VKS về tội “Dâm ô đối với trẻ em” theo Điều 116 BLHS năm 1999, đồng thời chuyển hồ sơ cho cơ quan chức năng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận N đã tiến hành điều tra và ra quyết định khởi tố bị can đối với Lê Ngọc S vào ngày 16/10/2018 Hành vi của Lê Ngọc S bị truy cứu theo tội danh “Dâm ô đối với trẻ em” theo quy định của pháp luật.
116 BLHS năm 1999 Ngày 26/11/2018, TAND huyện Hàm Thuận N đã tuyên phạt Lê Ngọc S 12 tháng tù về tội “ Dâm ô đối với trẻ em” theo Điều 116 BLHS năm 1999
Hoặc như trường hợp VKSND huyện Đạ T, tỉnh LĐ ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội: “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS năm 2015 29 :
Nội dung vụ án: Khoảng 20 giờ ngày 16/4/2018, Trịnh Ngọc B sinh năm
Vào năm 1990, Trịnh Ngọc M (sinh năm 1985) và Trương Công T (sinh năm 1998) đã xảy ra mâu thuẫn trong lúc nhậu tại xã Đak L, huyện Tân P, tỉnh ĐN Cả hai đã cùng nhau đánh anh V, gây tổn thương cơ thể cho anh với tỷ lệ 15% Ngày 15/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đạ T đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 46/QĐ, căn cứ vào khoản 2 Điều 8 BLTTHS năm 2015, với lý do tỷ lệ tổn thương cơ thể do Trịnh Ngọc B gây ra là 10% và của Trịnh Ngọc M là 6%.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/QĐ-VKSĐT ngày 29/10/2015 của VKSND huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng đã xác định rằng hành vi đánh anh V của Trịnh Ngọc M, Trịnh Ngọc B và Trương Công T không cấu thành tội phạm Mặc dù anh V bị đánh nhưng không để lại thương tích, và mức thương tích cho từng đối tượng gây ra đều dưới 11% Hơn nữa, anh V cũng không có yêu cầu khởi tố vụ án đối với hành vi gây thương tích cho mình.
Vào ngày 21/9/2018, VKSND huyện Đạ T, tỉnh LĐ đã gửi Công văn số 01/CV-VKS yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đạ T hủy bỏ Quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi tố vụ án đối với Trịnh Ngọc M, Trịnh Ngọc B và Trương Công T về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS năm 2015 Lý do là do việc Cơ quan điều tra tách riêng tỷ lệ tổn thương cơ thể do từng bị can gây ra.
Trịnh Ngọc M, Trịnh Ngọc B và Trương Công T đã cùng nhau thực hiện hành vi tấn công Vũ Đình V, gây ra tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15% Hành vi này vi phạm quy định pháp luật về đồng phạm, do đó cả ba phải chịu trách nhiệm chung về hậu quả tội phạm Với các yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, cần khởi tố điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật.
THẨM QUYỀN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử, bao gồm cả các vụ án hình sự Qua hoạt động xét xử, Tòa án xem xét và đánh giá toàn diện các chứng cứ, từ đó quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Tòa án không chỉ đóng vai trò “trọng tài” mà còn chủ động xác định sự thật vụ án, đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm đảm bảo xử lý công minh và kịp thời mọi hành vi vi phạm Đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khi cơ quan điều tra và viện kiểm sát không phát hiện hoặc xử lý bỏ sót tội phạm Hội đồng xét xử, bao gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, là chủ thể thực hiện quyền năng pháp lý của Tòa án trong phiên tòa hình sự.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử có những đặc điểm là:
Hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, là quyền lực được Nhà nước trao cho Tòa án để khởi động tiến trình tố tụng hình sự Quyền này cho phép Hội đồng xét xử tiến hành chứng minh và xử lý các hành vi phạm tội Sau khi thực hiện thẩm quyền khởi tố, các bước tiếp theo trong quy trình tố tụng sẽ được tiến hành.
35 Hiến pháp (năm 2013), Khoản 1 Điều 102; Luật tổ chức TAND (năm 2014), Khoản 1 Điều 2
36 Tìm hiểu Luật tố tụng hình sự Việt Nam – NXB Trẻ năm 2010 (tr 324)
Theo điểm d khoản 3 Điều 2 của Luật tổ chức TAND năm 2014, Hội đồng xét xử không còn tồn tại sau khi đã hoàn tất việc xét xử vụ án hình sự, do đó không còn vai trò trong các bước tố tụng tiếp theo.
Hội đồng xét xử, mặc dù có chức năng xét xử, nhưng cũng được giao quyền khởi tố vụ án hình sự, thực hiện vai trò công tố thay mặt Nhà nước để buộc tội cá nhân hoặc pháp nhân vi phạm pháp luật Đây là đặc điểm nổi bật của mô hình tố tụng hiện hành tại Việt Nam.
Hội đồng xét xử cần thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án một cách có căn cứ, chính xác và kịp thời để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong quá trình tố tụng.
Việc quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự mang ý nghĩa pháp lý và chính trị quan trọng, phù hợp với mô hình tố tụng hình sự mà Đảng và Nhà nước đang thực hiện Trao quyền khởi tố cho Hội đồng xét xử nhằm kiểm soát tình hình tội phạm, đảm bảo xử lý kịp thời các hành vi phạm tội theo quy định pháp luật, từ đó hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm Thẩm quyền này không chỉ nâng cao vai trò và trách nhiệm của Tòa án trong công tác phòng chống tội phạm mà còn thể hiện sự nghiêm minh trong hoạt động xét xử.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử được quy định rõ ràng trong Bộ luật tố tụng hình sự, từ Bộ luật đầu tiên năm 1988 đến Bộ luật hiện hành năm 2015 Tòa án có trách nhiệm pháp lý trong việc đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm Cụ thể, Điều 13 BLTTHS năm 1988 và 2003 đều xác định rằng khi phát hiện dấu hiệu tội phạm, Tòa án phải khởi tố vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình Điều 18 BLTTHS năm 2015 tiếp tục nhấn mạnh trách nhiệm này, quy định rằng các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm cả Tòa án, đều phải khởi tố vụ án khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm.
Hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 1988, nêu rõ rằng "Toà án ra quyết định khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra." Điều này nhấn mạnh vai trò của tòa án trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trong quá trình xét xử.
Theo quy định tại Điều 2003, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa phát hiện có tội phạm hoặc người phạm tội mới cần điều tra Tương tự, khoản 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định rằng Hội đồng xét xử có trách nhiệm khởi tố hoặc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm trong quá trình xét xử.
Nghiên cứu các quy định trong các Bộ luật tố tụng hình sự cho thấy thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử ít có sự thay đổi về phạm vi, chủ thể, cũng như trình tự và thủ tục thực hiện.
Hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự chỉ khi phiên tòa đã được mở và đang diễn ra Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu phát hiện tội phạm mới, hồ sơ phải được trả lại cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung Mặc dù các Bộ luật tố tụng hình sự không chỉ rõ cấp nào có thẩm quyền khởi tố, nhiều quan điểm cho rằng chỉ Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm mới có quyền này Tuy nhiên, theo tác giả, bất kể cấp xét xử nào, nếu phát hiện "bỏ lọt tội phạm" trong quá trình xét xử tại phiên tòa, đều có quyền khởi tố vụ án hình sự.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự chỉ thuộc về Hội đồng xét xử trong quá trình xét xử, khác với các cơ quan tố tụng khác ở các giai đoạn khác Đây là điểm khác biệt nổi bật về chủ thể thực hiện thẩm quyền khởi tố Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định rằng Tòa án ra quyết định khởi tố vụ án, nhưng với quy định thực hiện “qua xét xử tại phiên tòa”, chủ thể thực hiện phải là Hội đồng xét xử Các Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và 2015 đã khẳng định rõ ràng vai trò của Hội đồng xét xử trong việc khởi tố vụ án.
Theo quy định tại Điều 179 BLTTHS năm 2003 và Điều 280 BLTTHS năm 2015, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thuộc về Hội đồng xét xử Quyết định khởi tố vụ án phải tuân theo thủ tục nghị án, tức là được thông qua bởi sự đồng thuận của đa số thành viên trong Hội đồng xét xử.
Hội đồng xét xử có quyền khởi tố vụ án hình sự dựa trên các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, 2003 và 2015 Theo BLTTHS năm 1988 và 2003, khi phát hiện tội phạm hoặc người phạm tội mới, cần tiến hành điều tra Trong khi đó, BLTTHS năm 2015 nhấn mạnh việc khởi tố khi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm Tội phạm mới được hiểu là những hành vi chưa bị khởi tố, còn người phạm tội mới là những cá nhân chưa bị phát hiện hoặc có thể là đồng phạm trong vụ án đang xét xử "Bỏ lọt tội phạm" là tình huống mà người hoặc pháp nhân có hành vi phạm tội nhưng không bị xử lý hình sự Do đó, căn cứ để Hội đồng xét xử thực hiện quyền khởi tố vụ án là sự phát hiện tội phạm và việc bỏ lọt tội phạm theo quy định của BLTTHS.
2015 có nội hàm rộng hơn so với quy định của các BLTTHS năm 1988 và năm
Theo quy định tại Điều 2003, khi phát hiện hành vi phạm tội chưa được xử lý bằng biện pháp hình sự, Hội đồng xét xử có quyền khởi tố vụ án hình sự, bất kể liên quan hay không đến vụ án hiện tại Điều này cũng bao gồm quyền trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung theo Điều 280 BLTTHS năm 2015, nếu có căn cứ cho thấy bị can thực hiện hành vi phạm tội khác hoặc có đồng phạm chưa bị khởi tố Do đó, Hội đồng xét xử có thể quyết định trả hồ sơ hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyển cho Viện kiểm sát để tiến hành điều tra.
Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
vụ án hình sự của Hội đồng xét xử và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
2.2.1 Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
2.2.1.1 Những kết quả đạt được
Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, một số Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của BLTTHS về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, góp phần đấu tranh hiệu quả với tội phạm và ngăn chặn việc bỏ sót tội phạm Điển hình là vụ án Phạm Công Danh và đồng phạm về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" và "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng" Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã làm rõ hành vi của ông Hoàng Văn Toàn và các thành viên Ngân hàng Đại Tín trong việc cấp tín dụng gây thiệt hại 470.780.960.000 đồng, cùng với hành vi của bà Phạm Thị Trang và bà Hứa Thị Phấn có dấu hiệu vi phạm trong quản lý ngân hàng Từ đó, Hội đồng xét xử đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 03.
Vào ngày 09/9/2016, các tội danh liên quan đến "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" theo Điều 165 và "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng" theo Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được xem xét Trong quá trình xét xử các vụ án tham nhũng lớn, Hội đồng xét xử đã quyết định khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi phạm tội mới Điển hình là vụ án của Trịnh Xuân Thanh, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC), cùng với đồng phạm bị truy tố về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND cấp cao tại Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án về tội "Tham ô tài sản" theo Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999.
Năm 1999, Trịnh Xuân Thanh, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC), cùng với các cá nhân như Nguyễn Ngọc Sinh, Đào Duy Phong và nhiều người khác đã bị điều tra về hành vi thông đồng chuyển nhượng cổ phần của Công ty PVP Land tại dự án Nam Đàn Plaza với giá thấp hơn giá thực tế, gây thiệt hại 87 tỷ đồng cho PVP Land Đồng thời, trong vụ án liên quan đến Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên) về các tội danh lừa đảo, trốn thuế và kinh doanh trái phép tại Ngân hàng Á Châu (ACB), TAND thành phố Hà Nội đã quyết định khởi tố vụ án liên quan đến hành vi phát hành trái phiếu tại các công ty con không có chức năng đầu tư tài chính, với sự giúp sức của một số cá nhân tại ACB và VietBank.
47 Các Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 03,04,05 ngày 09/9/2016 của TAND thành phố Hồ Chí Minh
Bà Huỳnh Thị Bảo Ngọc, phó Phòng quản lý quỹ của Ngân hàng Đông Á, đã bị khởi tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 do liên quan đến việc thỏa thuận lãi suất vượt trần với Huỳnh Thị Huyền Như tại VietinBank, gây thiệt hại 3,7 tỷ đồng Trong vụ án “Vô ý làm chết người” xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình, bác sĩ Hoàng Công Tình bị xác định thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra thiết bị y tế, dẫn đến cái chết của 09 người, và đã bị khởi tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 Đồng thời, trong vụ án Dương Tự Trọng và các đồng phạm về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”, một số cá nhân trong cơ quan bảo vệ pháp luật đã bị phát hiện “mật báo” thông tin, dẫn đến việc khởi tố về tội “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” theo Điều 263 Bộ luật hình sự năm 1999.
Các Hội đồng xét xử đã thể hiện vai trò tích cực trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thông qua việc khởi tố các vụ án hình sự Họ không chỉ thể hiện sự nghiêm minh trong hoạt động xét xử mà còn góp phần nâng cao uy tín của Tòa án, tạo được sự đồng tình cao trong dư luận xã hội.
2.2.1.2 Những tồn tại, hạn chế
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử đã được quy định từ BLTTHS năm 1988, nhưng tính khả thi của quy định này rất hạn chế Trong thực tiễn, Hội đồng xét xử hiếm khi thực hiện quyền này để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự Khảo sát của tác giả tại một số Tòa án cho thấy tình trạng này.
49 https://tuoitre.vn/khoi-to-vu-an-tai-acb-va-vietbank-612055.htm
50 https://kiemsat.vn/hoang-cong-luong-bi-phat-42-thang-tu-51688.html
Từ năm 2015 đến tháng 5/2019, nhiều Tòa án cấp tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Nam, Ninh Bình, Lâm Đồng, Đăk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đồng Nai và Đồng Tháp, cùng với Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, không có trường hợp nào Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án Chỉ một số ít địa phương như Tây Ninh, Cần Thơ, và Lạng Sơn đã ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự Tại phiên chất vấn của Đại biểu Quốc hội Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình đã thông báo rằng Tòa án chỉ khởi tố 12 vụ án trong giai đoạn này.
Bộ luật tố tụng hình sự không cấm Thẩm phán hay Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án mà họ đã ra quyết định khởi tố Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng điều này có thể ảnh hưởng đến tính khách quan trong xét xử Ví dụ, trong vụ án Hứa Thị Phấn tại TAND thành phố Hồ Chí Minh, luật sư bào chữa đã yêu cầu thay đổi Hội đồng xét xử vì 3/5 thành viên đã tham gia khởi tố vụ án, dẫn đến nghi ngờ về sự vô tư và khách quan trong quá trình xét xử.
Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế:
Do các quy định pháp luật tố tụng hình sự chưa thật sự thuận lợi, Hội đồng xét xử gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền khởi tố vụ án Trong quá trình điều tra và truy tố, cơ quan điều tra cùng Viện kiểm sát đã dành nhiều thời gian để tiến hành các hoạt động điều tra và thu thập chứng cứ nhằm xác định hành vi phạm tội và đối tượng phạm tội Do đó, các căn cứ để xử lý vụ án đã được chuẩn bị tương đối đầy đủ.
52 http://media.chinhphu.vn/video/chanh-an-toa-an-nhan-dan-toi-cao-nguyen-hoa-binh-tra-loi-chat-van-tai-ky- hop-thu-4-quoc-hoi-khoa-xiv-8897
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các Thẩm phán có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án và nếu phát hiện có trường hợp bỏ lọt tội phạm, họ có thể quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung Ngay cả khi đang xét xử tại phiên tòa, nếu phát hiện ra tội phạm bị bỏ lọt, Hội đồng xét xử cũng có quyền khởi tố vụ án hình sự Tuy nhiên, số trường hợp Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án là rất ít, thường xảy ra khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu Viện kiểm sát khắc phục nhưng không được thực hiện, hoặc theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa Ví dụ điển hình là vụ án Hứa Thị Phấn, nơi TAND thành phố Hồ Chí Minh đã ra các Quyết định khởi tố vụ án hình sự vào ngày 09/9/2016 về các tội danh liên quan đến việc làm trái quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế.
“Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” theo Điều
Hội đồng xét xử TAND thành phố Hòa Bình đã quyết định khởi tố vụ án đối với bác sĩ Hoàng Công Tình về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" Đồng thời, vụ án Dương Tự Trọng cũng bị khởi tố về tội "Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước" theo đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đòi hỏi một quá trình thu thập, xác minh và thẩm tra chứng cứ kỹ lưỡng, tốn nhiều thời gian Các hoạt động như khám nghiệm hiện trường, tử thi, giám định và định giá cần tính chuyên môn cao và sự hỗ trợ của các chuyên gia cùng phương tiện khoa học kỹ thuật Tuy nhiên, thời gian xét xử tại phiên tòa có hạn, khiến cho các thành viên Hội đồng xét xử gặp khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ này.
Các thành viên Hội đồng xét xử nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc thực hiện tốt hoạt động xét xử trong vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố Họ cam kết tập trung nỗ lực để đảm bảo quy trình xét xử diễn ra công bằng và hiệu quả.
54 Điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS năm 2015
Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 03, 04, 05 ngày 09/9/2016 của TAND TP Hồ Chí Minh nêu rõ rằng nếu Hội đồng xét xử quyết định khởi tố, hoạt động điều tra và truy tố sẽ hoàn toàn do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát kiểm soát, ảnh hưởng đến kết quả điều tra Nếu Viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu hủy bỏ quyết định khởi tố và được Tòa án cấp trên chấp thuận, hoặc trong quá trình điều tra, vụ án bị đình chỉ do không có sự việc phạm tội, điều này sẽ tác động tiêu cực đến uy tín của các thành viên Hội đồng xét xử Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự cho phép Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố, dẫn đến xu hướng này thường xuyên xảy ra.
2.2.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
-Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:
Việc giao thẩm quyền khởi tố vụ án cho Hội đồng xét xử hiện đang gặp nhiều bất cập và khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật Thực tế cho thấy, rất ít trường hợp Hội đồng xét xử quyết định khởi tố vụ án hình sự, dẫn đến tính khả thi của quy định này không cao và không phát huy hiệu quả Để đảm bảo chức năng xét xử được thực hiện đúng đắn và tính vô tư, khách quan trong hoạt động xét xử, cần xem xét việc bỏ quy định giao thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cho Hội đồng xét xử Đồng thời, cũng nên loại bỏ trách nhiệm của Tòa án trong việc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2015 Tuy nhiên, để tránh việc bỏ lọt tội phạm, cần quy định rằng nếu trong phiên tòa phát hiện tội phạm bị bỏ lọt, Hội đồng xét xử có thể kiến nghị Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự, theo quy định tại khoản 3 Điều 144 BLTTHS năm 2015, và giải quyết kiến nghị này theo trình tự giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Cụ thể tác giả kiến nghị sửa đổi BLTTHS năm 2015 như sau:
- Điều 18 Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự: