Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước Trong các tác phẩm này, biện pháp tự vệ thương mại được xem là một khung pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của Tổ chức Thương mại Thế giới Một số tác phẩm tiêu biểu có thể được liệt kê.
The foreign works "International Trade Law: Theoretical and Practical Issues" by Raj Bhala and "The World Trade Organization: Law, Practice, and Policy" by Mitsuo Matsushita, Thomas J Schoenbaum, and Petros C provide in-depth insights into the complexities of international trade law These texts explore both theoretical foundations and real-world applications, offering valuable perspectives for understanding the regulatory framework and operational dynamics of the World Trade Organization.
Mavroidis discusses the political economy of the global trading system as explored by Bernard M Hoekman and Michel M Kostecki Additionally, the work of Petros C Mavroidis and Patrick A Messerlin on the law and economics of contingent protection within the WTO highlights critical aspects of trade regulations.
Trong lĩnh vực giáo dục pháp luật, một số tác phẩm nổi bật trong nước bao gồm “Giáo trình Luật thương mại quốc tế – Phần I” của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “Luật thương mại quốc tế” do Mai Hồng Quỳ và Trần Việt Dũng đồng tác giả, cùng với “Giáo trình Tổ chức Thương mại Thế giới” của Nguyễn Anh Tuấn Những tài liệu này cung cấp kiến thức sâu rộng về luật thương mại quốc tế và tổ chức thương mại toàn cầu.
Ngoài ra, có nhiều tác phẩm nghiên cứu sâu về biện pháp tự vệ thương mại, như "Tự vệ thương mại theo quy định WTO – Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam" của Châu Quý Quốc, "Pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam" của Lý Thúy Phượng, "Pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam" của Trịnh Văn Minh, và "Thực tiễn áp dụng biện pháp tự vệ thương mại của các thành viên WTO" của Nguyễn Thanh Phương.
Trong các tác phẩm nghiên cứu về biện pháp tự vệ thương mại, mỗi tác phẩm có cách tiếp cận riêng; một số chỉ tổng hợp quy định pháp luật của Tổ chức Thương mại Thế giới và Việt Nam, trong khi những tác phẩm khác phân tích nội dung dựa trên các vụ kiện cụ thể, từ đó đề xuất cải thiện pháp luật Việt Nam nhưng còn thiếu chi tiết Luận văn này kế thừa những thành tựu của các nghiên cứu trước, bao gồm tổng hợp quy định pháp luật và phân tích thực tiễn xét xử, đồng thời bổ sung những nội dung chưa được đề cập, như phân tích toàn diện điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại theo pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới và xem xét pháp luật Việt Nam thông qua vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu.
Nghiên cứu so sánh các quy định giữa hai hệ thống pháp luật, bài viết chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam so với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới Từ đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đây chính là điểm mới và nổi bật của đề tài.
Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định những quy định không phù hợp trong pháp luật Việt Nam so với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới về điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật tự vệ thương mại tại Việt Nam.
Luận văn tập trung vào hai đối tượng nghiên cứu chính: (1) điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới và (2) điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại theo pháp luật Việt Nam Tác giả chỉ xem xét các điều kiện nội dung mà không đi sâu vào quy trình thủ tục áp dụng.
Trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới, biện pháp tự vệ thương mại được chia thành hai loại: biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa và biện pháp tự vệ thương mại dịch vụ Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung nghiên cứu các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa.
Văn bản pháp luật của Tổ chức Thương mại Thế giới quy định biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa, đặc biệt là theo Điều XIX.1a của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 và Hiệp định Tự vệ thương mại Tại Việt Nam, các quy định liên quan đến biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa được điều chỉnh bởi Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 05 năm 2002 và Nghị định số 150/2003/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2003, quy định chi tiết việc thực hiện pháp lệnh này trong bối cảnh nhập khẩu hàng hóa nước ngoài Tác giả sẽ tập trung phân tích điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ theo các quy định nêu trên mà không đề cập đến các điều chỉnh riêng biệt khác.
Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Luận văn này được xây dựng dựa trên việc tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới và Biểu Cam kết gia nhập của Việt Nam, đồng thời thể hiện tư tưởng lãnh đạo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam hiện hành.
Phương pháp nghiên cứu trong luận văn này bao gồm tổng hợp và phân tích các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới và pháp luật Việt Nam Tác giả đã xem xét các phán quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp Tổ chức Thương mại Thế giới và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam để làm rõ nội dung của các quy định liên quan Bên cạnh đó, phương pháp so sánh cũng được sử dụng để đối chiếu pháp luật Việt Nam với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới, từ đó chỉ ra những điểm chưa phù hợp và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho các nghiên cứu khoa học liên quan đến biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa và điều kiện áp dụng của nó Bên cạnh đó, với những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam theo tiêu chuẩn của Tổ chức Thương mại Thế giới, tác giả hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung các quy định về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.
Bố cục của luận văn
Biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa là công cụ pháp lý quan trọng giúp bảo vệ ngành sản xuất trong nước khỏi tác động tiêu cực của sự gia tăng đột biến hàng hóa nhập khẩu Mặc dù có hiệu quả, biện pháp này lại mâu thuẫn với xu hướng toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại quốc tế Do đó, việc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại cần phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt và có điều kiện rõ ràng.
Trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới, các quốc gia thành viên có quyền thực hiện biện pháp tự vệ thương mại đối với hàng hóa khi có bằng chứng cho thấy sự gia tăng đột biến trong nhập khẩu gây ra hoặc có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa.
Pháp luật Việt Nam cho phép cơ quan chức năng áp dụng biện pháp tự vệ thương mại đối với hàng hóa khi có bằng chứng cho thấy sự gia tăng đột biến của sản phẩm nhập khẩu đang gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Cả pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới và pháp luật Việt Nam đều yêu cầu ba điều kiện cần chứng minh khi áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa: (1) sự gia tăng đột biến sản phẩm nhập khẩu; (2) sự gia tăng này gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa; (3) mối quan hệ nhân quả giữa sự gia tăng đột biến sản phẩm nhập khẩu và thiệt hại của ngành sản xuất trong nước Để đạt được mục tiêu của luận văn, tác giả sẽ làm rõ ba điều kiện này qua ba chương tiếp theo, so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới.
Chương 1: Xác định và đánh giá sự gia tăng đột biến sản phẩm nhập khẩu; Chương 2: Xác định và đánh giá thiệt hại của ngành sản xuất trong nước;
Chương 3: Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa sự gia tăng đột biến sản phẩm nhập khẩu và thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu Nội dung này sẽ phân tích tác động của nhập khẩu đối với sản xuất nội địa, làm rõ những ảnh hưởng tiêu cực và các yếu tố liên quan Bố cục của luận văn sẽ được xây dựng để trình bày một cách logic và thuyết phục về vấn đề này.
3 Điều XIX.1a Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994, Điều 2.1 Hiệp định Tự vệ thương mại
Theo Điều 6 của Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10, ngày 25 tháng 05 năm 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 10 quy định về quyền tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam Pháp lệnh này nhằm bảo vệ sản xuất trong nước trước tác động tiêu cực của hàng hóa nhập khẩu, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Các biện pháp tự vệ có thể được áp dụng khi hàng hóa nhập khẩu gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa đến ngành sản xuất trong nước Quy trình thực hiện các biện pháp tự vệ phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành và cam kết quốc tế của Việt Nam.
XÁC ĐỊNH VÀ ĐÁNH GIÁ SỰ GIA TĂNG ĐỘT BIẾN SẢN PHẨM NHẬP KHẨU
Sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu là kết quả của những diễn biến không lường trước được và của việc thực hiện những nghĩa vụ cam kết bởi một Thành viên theo GATT 1994, bao gồm cả nhân nhƣợng thuế quan
1.2.1 Quy định của pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
1.2.1.1 Mối quan hệ giữa Điều XIX.1a GATT 1994 và SA Ở một số vụ kiện trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 5 , Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) đã chứng minh mối quan hệ giữa Điều XIX.1a Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994) và Hiệp định Tự vệ thương mại (SA) bởi các điểm pháp lý sau:
Điều II của Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hay còn gọi là Hiệp định Marrakesh, được ký kết vào ngày 15 tháng 4 năm 1994 tại Maroc và chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Hiệp định Marrakesh là trung tâm của hệ thống pháp luật WTO, bao gồm bốn phụ lục: (1) thương mại hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí tuệ; (2) quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp; (3) cơ chế rà soát chính sách thương mại; và (4) thương mại nhiều bên Các Hiệp định trong phụ lục 1, 2, 3 được gọi là Hiệp định thương mại đa biên, có giá trị pháp lý ràng buộc đối với tất cả Thành viên WTO Ngược lại, Hiệp định thương mại nhiều bên chỉ tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các Thành viên chấp nhận chúng.
Phụ lục 1 chứa nhiều Hiệp định khác nhau, mỗi hiệp định điều chỉnh các vấn đề cụ thể khác nhau Để hiểu rõ hơn về cấu trúc phức tạp của hệ thống pháp luật WTO, tác giả đã tổng hợp và trình bày chúng dưới dạng sơ đồ.
Hình vẽ 1 Sơ đồ hệ thống pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
Argentina đã thực hiện biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu trong vụ kiện WT/DS121 năm 1999, nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước Tương tự, Hàn Quốc cũng đã áp dụng các biện pháp tự vệ đối với sữa nhập khẩu để bảo đảm sự cạnh tranh công bằng cho các nhà sản xuất nội địa Những vụ kiện này phản ánh sự quan tâm của các quốc gia trong việc bảo vệ nền kinh tế nội địa trước tác động của hàng hóa nhập khẩu.
The article discusses several significant trade disputes, including Korea's dairy safeguards case (WT/DS98) from 1999, the U.S measures against imported lamb (WT/DS177, 178) in 2001, Argentina's safeguards on imported peaches (WT/DS238) in 2003, and the U.S safeguards on imported steel (WT/DS248, 249, 251, 252, 253) These cases highlight the complexities of international trade regulations and the use of safeguard measures to protect domestic industries.
6 Điều II 2 Hiệp định Thành lập WTO
7 Điều II.3 Hiệp định Thành lập WTO
GATT 1994 và SA đều là các hiệp định thương mại đa biên, trong đó GATT 1994 cung cấp khung pháp lý chung về thuế quan và thương mại, còn SA là hiệp định bổ sung, quy định chi tiết về vấn đề tự vệ thương mại hàng hóa.
Theo Điều II.2 của Hiệp định thành lập WTO, Hiệp định thương mại đa biên là một phần không thể tách rời của Hiệp định này và có hiệu lực đối với tất cả các Thành viên Điều này có nghĩa rằng GATT 1994 và SA cũng là những thành phần không thể tách rời của Hiệp định thành lập WTO, ràng buộc tất cả các Thành viên Do đó, các quy định trong GATT 1994 và SA được coi là những điều khoản thuộc cùng một Hiệp định – Hiệp định Thành lập WTO.
Phụ lục 1C Thỏa thuận về Giải quyết Tranh chấp
Hiệp định Thương mại Nhiều bên
Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại Phụ lục 1A Phụ lục 1B
Phụ lục 1 Phụ lục 2 Phụ lục 3 Phụ lục 4
Hiệp định Thành lập WTO
Hiệp định Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Hiệp định Chống bán phá giá
HIệp định Định giá hải quan
Hiệp định Giám định hàng hóa trước khi xếp hàng
Hiệp định Quy tắc xuất xứ
Hiệp định Cấp phép nhập khẩu
Hiệp định Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Hiệp định Tự vệ thương mại
Hiệp định Hàng dệt may và may mặc
Hiệp định Các hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Hiệp định Các biện pháp kiểm dịch động thực vật thuộc WTO yêu cầu khi nghiên cứu điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa, cần chú ý đến Điều XIX.1a GATT.
1994 và SA như “một gói không thể tách rời các quyền lợi và nghĩa vụ” 8
Điều 1 SA thiết lập quy tắc áp dụng các biện pháp tự vệ theo Điều XIX của GATT 1994, trong khi Điều 11.1 (a) SA quy định các nguyên tắc cụ thể liên quan đến việc thực hiện những biện pháp này.
Một Thành viên chỉ được áp dụng hoặc tìm kiếm các hành động khẩn cấp liên quan đến việc nhập khẩu hàng hóa theo quy định tại Điều XIX GATT 1994 nếu những hành động này tuân thủ các quy định của Điều này và phù hợp với Hiệp định hiện hành.
Không có ngôn từ nào trong Điều 1 và Điều 11.1 (a) của SA chỉ ra rõ ràng ý định của các nhà đàm phán tại vòng đàm phán Uruguay liên quan đến nội dung của Điều XIX.1a GATT.
1994 đã được thể hiện trọn vẹn ở Điều 2.1 SA, bởi vậy cần phải chấm dứt sự áp dụng đối với Điều XIX.1a GATT 1994
Tại Điều 1 SA, các nhà đàm phán đã thống nhất mục đích của Hiệp định là thiết lập quy tắc áp dụng các biện pháp tự vệ, được hiểu theo nghĩa các biện pháp quy định tại Điều XIX của GATT 1994 Quy định này làm rõ nội dung của Điều XIX.1a GATT.
Năm 1994 có giá trị pháp lý tương đương với SA trong việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa Điều 11.1 (a) của SA làm rõ giá trị pháp lý này bằng cách nhấn mạnh rằng: “trừ khi hành động này phù hợp với những quy định của Điều này được áp dụng phù hợp với Hiệp định này.”
Điều 1 và Điều 11.1(a) của SA khẳng định ý định của các nhà đàm phán về việc áp dụng tích lũy Điều XIX.1a GATT 1994 và SA, trừ khi có mâu thuẫn giữa các quy định cụ thể Đồng thời, Cơ quan phúc thẩm trong vụ kiện Argentina về biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu cũng đã xem xét vấn đề này.
(Argentina – Footwear Safeguards, WT/DS121) khẳng định Điều XIX.1a GATT
Sự gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối
1.3.1 Quy định của pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
Cho đến nay, WTO chưa có văn bản pháp lý chính thức định nghĩa về sự gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối Tuy nhiên, khái niệm này có thể được hiểu thông qua thực tiễn giải quyết tranh chấp của DSB.
Tổng quan các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm cho thấy sự hiểu biết về sự gia tăng tuyệt đối và tương đối là tương đồng Để làm rõ khái niệm này, chúng ta sẽ xem xét vụ kiện cụ thể là Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu (Argentina – Footwear Safeguards, WT/DS121).
Trong vụ kiện này, Argentina sử dụng hai bảng số liệu làm cơ sở lý luận cho sự gia tăng hàng nhập khẩu của mình
Thứ nhất là bảng số liệu về tổng sản phẩm giày dép nhập khẩu vào Argentina từ năm 1991 đến năm 1996:
Bảng 1 Sản phẩm giày dép nhập khẩu vào Argentina từ 1991 đến 1996 19
Trị giá (triệu đô la)
Argentina đã trình bày trước Ban hội thẩm về sự gia tăng đáng kể trong tổng số lượng giày dép nhập khẩu, từ 8,86 triệu đôi vào năm 1991 lên 15,07 triệu đôi vào năm 1995 Đồng thời, tổng giá trị giày dép nhập khẩu cũng được so sánh, với con số đạt 44,41 triệu USD trong năm 1991.
19 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
Argentina đã xác định rằng có sự gia tăng đáng kể về giá trị giày dép nhập khẩu, với tổng giá trị đạt 114,22 tỷ đô la vào năm 1995 Điều này dẫn đến kết luận rằng sản phẩm nhập khẩu đã tăng trưởng một cách rõ rệt.
Cộng đồng Châu Âu (EC) phản đối Argentina sử dụng phương pháp so sánh
"EC công nhận và sử dụng bảng số liệu để tranh luận trước Ban hội thẩm, mặc dù các điểm kết thúc được đưa ra nhằm kết luận về sự gia tăng."
Ban hội thẩm đã sử dụng số liệu từ Bảng 1 để phân tích vấn đề, nhưng chỉ tập trung vào số lượng và bỏ qua giá trị, theo yêu cầu của Điều XIX.1a GATT 1994 và Điều 2.1, 4.2 (a) SA về việc chứng minh "sự gia tăng về số lượng" Tác giả có thể định nghĩa sự gia tăng tuyệt đối như là sự gia tăng cụ thể về khối lượng hàng hóa nhập khẩu, được thể hiện bằng tấn hoặc số lượng đơn vị hàng nhập khẩu.
Thứ hai là bảng số liệu về tỷ lệ tổng sản phẩm nhập khẩu/sản xuất nội địa:
Bảng 2 Tỷ lệ tổng sản phẩm nhập khẩu/sản xuất nội địa 24
Argentina đã sử dụng số liệu để chứng minh sự gia tăng tương đối Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Ban hội thẩm cũng chỉ dựa vào các số liệu liên quan.
20 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8145
21 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.144.
22 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.152
23 Đại học Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật thương mại quốc tế – Phần I, Nxb Hồng Đức,
24 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
Trong báo cáo WT/DS121/R (1999) về biện pháp bảo vệ giày dép của Argentina, tác giả đề cập đến khái niệm "sự gia tăng tương đối", định nghĩa là sự gia tăng khối lượng hàng nhập khẩu so với khối lượng hàng hóa sản xuất trong nước.
Pháp luật WTO không cung cấp định nghĩa rõ ràng về sự gia tăng tuyệt đối và tương đối, nhưng qua thực tiễn xét xử, có thể hiểu rằng sự gia tăng tuyệt đối đề cập đến việc tăng trưởng định lượng cụ thể của hàng nhập khẩu, tính bằng tấn hoặc số lượng đơn vị, trong khi sự gia tăng tương đối là sự tăng lên của khối lượng hàng nhập khẩu so với sản lượng hàng hóa sản xuất trong nước.
1.3.2 So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
Khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 2002 quy định: “Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa nhập khẩu gia tăng đột biến một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước”
VCAD cần chứng minh sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu, bao gồm khối lượng, số lượng hoặc trị giá, theo hai khái niệm: gia tăng tuyệt đối và gia tăng tương đối Sự gia tăng tuyệt đối đề cập đến sự tăng lên không thay đổi về khối lượng hoặc trị giá, trong khi gia tăng tương đối liên quan đến sự tăng trưởng so với một thời điểm hoặc đối tượng khác.
Sau khi xem xét các văn bản pháp luật liên quan đến tự vệ thương mại hàng hóa, tác giả nhận định rằng các nhà làm luật Việt Nam đã không chú ý đến khái niệm sự gia tăng tuyệt đối và tương đối Trong vụ kiện dầu thực vật, VCAD đã giải thích khái niệm này thông qua các bảng biểu minh họa.
Một là bảng biểu thể hiện sự gia tăng tuyệt đối:
Bảng 3 Sản lượng hàng hóa thuộc đối tượng điều tra nhập khẩu vào Việt Nam giai đoạn 2009 – 2012 27
25 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.152
26 Đại học Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật thương mại quốc tế – Phần I, Nxb Hồng Đức,
Báo cáo sơ bộ của VCAD, số 12-KN-TVE-01, năm 2013, đã tiến hành điều tra việc áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu vào Việt Nam Nội dung báo cáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước tác động của hàng hóa nhập khẩu.
Dầu nành tinh luyện tấn 162 487 172 3.876
Tốc độ tăng/giảm nhập khẩu so với năm trước đó % 200,62 -64.68 2.153,49
Dầu cọ tinh luyện tấn 269.492 314.230 389.932 565.020
Tốc độ tăng/giảm nhập khẩu so với năm trước đó % 16,60 24,09 44,90
Tổng lượng nhập khẩu tấn 269.654 314.717 390.104 568.896
Tốc độ tăng/giảm nhập khẩu so với năm trước đó % 16,71 23,95 45,83
Biểu đồ 1 Hàng hóa thuộc đối tượng điều tra nhập khẩu vào Việt Nam 28
Trong giai đoạn 2009 – 2012, lượng nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng điều tra đã có sự gia tăng đáng kể Cụ thể, năm 2009, lượng nhập khẩu đạt 269 nghìn tấn, và vào năm 2010, con số này tăng 16,71% lên 314 nghìn tấn Đến năm 2011, lượng nhập khẩu tiếp tục tăng thêm 75 nghìn tấn so với năm 2010.
Theo báo cáo sơ bộ của VCAD về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu vào Việt Nam, trong năm 2012, lượng nhập khẩu đã tăng 45,83% so với năm 2011, đạt hơn 23,95%.
Như vậy, gia tăng tuyệt đối là sự gia tăng mang tính định lượng cụ thể bằng tấn hàng nhập khẩu hoặc số lượng đơn vị hàng nhập khẩu 30
Hai là bảng thể hiện sự gia tăng tương đối:
Bảng 4 Gia tăng của hàng nhập khẩu so với ngành sản xuất nội địa 31 Đơn vị 2009 2010 2011 2012
Tỷ lệ tăng/giảm nhập khẩu % 16,71 23,95 45,83
Ngành sản xuất trong nước Tấn 100 98 113 99.5
Tỷ lệ tăng/giảm ngành sản xuất trong nước % -2,11 15,25 -11,78
Tỷ lệ tăng tương đối của nhập khẩu % 18,82 8,70 57,61
Số liệu trên cho thấy, lượng nhập khẩu có sự gia tăng tương đối trong giai đoạn
Phân tích khuynh hướng của sản phẩm nhập khẩu
1.4.1 Quy định của pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
1.4.1.1 Phương pháp so sánh “các điểm kết thúc” (“end-point-to-end-point”)
Trong vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards, WT/DS121), Argentina kết luận sản phẩm nhập
Báo cáo sơ bộ của VCAD về điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu vào Việt Nam, mã số 12-KN-TVE-01, đã được công bố vào năm 2013, cung cấp thông tin quan trọng về tình hình và tác động của việc nhập khẩu sản phẩm này.
Báo cáo sơ bộ của VCAD về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm dầu thực vật tinh luyện nhập khẩu vào Việt Nam (12-KN-TVE-01, 2013) chỉ ra rằng trong giai đoạn điều tra, lượng nhập khẩu dầu thực vật tăng cả về tuyệt đối lẫn tương đối so với sản xuất nội địa.
Từ năm 1991 đến 1995, tổng số lượng giày dép nhập khẩu đã tăng đáng kể, với 15,07 triệu đôi vào năm 1995 so với 8,86 triệu đôi vào năm 1991 Tỷ lệ tổng sản phẩm nhập khẩu so với sản xuất nội địa cũng cao hơn, đạt 25% vào năm 1995 so với 12% vào năm 1991 Phương pháp so sánh "các điểm kết thúc" được áp dụng để rút ra kết luận về sự gia tăng này, chỉ dựa vào số liệu ở điểm đầu và điểm cuối của giai đoạn điều tra.
Ban hội thẩm nhận thấy rằng phương pháp đánh giá phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn điểm đầu và điểm cuối của giai đoạn điều tra Khi thay đổi điểm đầu từ năm 1991 sang năm 1992, kết quả cho thấy sự giảm sút cả về số lượng và tỷ lệ sản phẩm nhập khẩu Cụ thể, tổng số giày dép nhập khẩu năm 1995 là 15,07 triệu đôi, thấp hơn so với 16,63 triệu đôi của năm 1992 Tương tự, tỷ lệ tổng sản phẩm nhập khẩu so với sản xuất nội địa năm 1995 chỉ đạt 25%, thấp hơn tỷ lệ 22% của năm 1992 Khi điểm cuối được thay đổi từ năm 1995 sang năm 1996, tất cả các năm khác ngoài năm 1991 cũng cho thấy kết luận về sự gia tăng của Argentina bị đảo ngược.
Phương pháp so sánh “các điểm kết thúc” cho phép cơ quan điều tra chủ động tạo ra sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu bằng cách cài đặt điểm đầu và điểm cuối trong những năm hợp lý Điều này dẫn đến việc sự gia tăng không còn mang tính khách quan như yêu cầu của Điều XIX.1a GATT 1994 và Điều 2.1, 4.2 (a) SA.
Trong vụ kiện Hoa Kỳ – Biện pháp tự vệ đối với thép nhập khẩu (U.S – Steel
Cơ quan phúc thẩm đã chỉ ra rằng việc chứng minh sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu không thể chỉ dựa vào phương pháp so sánh “các điểm kết thúc” Phương pháp này cho phép cơ quan điều tra dễ dàng đưa ra kết luận về sự gia tăng hoặc giảm sút của sản phẩm nhập khẩu so với sản xuất nội địa, tùy thuộc vào việc lựa chọn thời điểm bắt đầu hoặc kết thúc của giai đoạn điều tra Chẳng hạn, nếu điểm bắt đầu được chọn trong giai đoạn mà mức nhập khẩu rất thấp, khả năng chứng minh sự gia tăng sẽ cao hơn.
34 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
Trong vụ tranh chấp Argentina – Giày dép, WT/DS121/R (1999), đoạn 8.154 đến 8.155, Cơ quan phúc thẩm đã chỉ ra rằng sự gia tăng áp dụng biện pháp bảo vệ không phản ánh đúng bản chất theo Điều XIX.1a của GATT 1994 và SA 35.
Mặt khác, viện dẫn đến nguồn tiếng Anh của Điều 4.2 (a) SA:
In assessing whether heightened imports are causing or pose a risk of serious harm to a domestic industry under this Agreement, the relevant authorities will analyze all significant, objective, and measurable factors related to the industry's condition This includes a detailed examination of the rate and volume of the increase in imports of the specific product, both in absolute and relative terms.
Khi đánh giá sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu, cơ quan chức năng cần xem xét cả số lượng và tỷ lệ sản phẩm nhập khẩu so với sản xuất nội địa Trong vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu, Ban hội thẩm nhấn mạnh rằng tỷ lệ không chỉ bao gồm tốc độ mà còn cả khuynh hướng của sản phẩm.
Bài viết yêu cầu xem xét "tốc độ" và "khuynh hướng" gia tăng sản phẩm nhập khẩu trong suốt giai đoạn điều tra, thay vì chỉ so sánh "các điểm kết thúc" Khuynh hướng gia tăng có thể xảy ra tích cực nhưng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các khuynh hướng giảm sút Khi có sự kết hợp giữa khuynh hướng gia tăng và giảm sút, cơ quan chức năng cần phân tích cả hai, trong đó khuynh hướng giảm sút tạm thời là điều kiện cần để xác nhận sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu Để hiểu rõ hơn về khuynh hướng can thiệp giảm tạm thời, chúng ta sẽ phân tích lập luận về sự gia tăng của Argentina trong tranh chấp với EC liên quan đến biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu.
Từ năm 1991 đến 1995, tổng số lượng giày dép nhập khẩu vào thị trường Argentina đã được ghi nhận, cùng với tỷ lệ giữa tổng sản phẩm nhập khẩu và sản xuất nội địa.
35 Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm, vụ kiện Hoa Kỳ – Biện pháp tự vệ đối với thép nhập khẩu (U.S
– Steel Safeguards), WT/DS248, 249, 251, 252, 253, 254, 258, 259/AB/R, (2003), đoạn 354, 355
36 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.159
37 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
Theo báo cáo WT/DS121/R (1999) về biện pháp tự vệ thương mại đối với ngành giày dép tại Argentina, số liệu cho thấy sự gia tăng nhập khẩu chỉ diễn ra từ năm 1991 đến 1993, sau đó liên tục giảm trong các năm 1994, 1995, và đặc biệt vào năm 1996, sau giai đoạn điều tra Ban hội thẩm đã nhận định rằng đây là một sự thay đổi dài hạn, không phải là sự suy giảm tạm thời Mục tiêu của biện pháp tự vệ thương mại là hỗ trợ ngành công nghiệp trong nước thích nghi với sự cạnh tranh gia tăng từ nhập khẩu, do đó, xu hướng giảm sút kéo dài này được coi là không phù hợp.
Khi đánh giá sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu so với sản xuất nội địa, cơ quan chức năng cần xem xét toàn bộ xu hướng của sản phẩm nhập khẩu trong suốt giai đoạn điều tra, thay vì chỉ so sánh số liệu tuyệt đối hoặc tương đối tại "các điểm kết thúc" Điều này giúp nhận diện rõ hơn về khuynh hướng giảm sút tạm thời của sản phẩm nhập khẩu.
1.4.1.2 Tính chất của khuynh hướng gia tăng
Tính chất của khuynh hướng gia tăng được quy định tại Điều XIX.1a GATT
1994, Điều 2.1, 4.2 (a) SA Nhìn vào ngôn ngữ của các điều khoản này, ta cần phải làm rõ nội hàm một số cụm từ sau đây:
Cụm từ “đang được nhập khẩu… với số lượng gia tăng” trong vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu (Argentina – Footwear Safeguards, WT/DS121) đã được Cơ quan phúc thẩm hiểu là thể hiện xu hướng gia tăng sản phẩm nhập khẩu, đồng thời yêu cầu tính “bất ngờ” và “gần đây” của sự gia tăng này.
Tính chất “gần đây” được làm rõ qua các vụ kiện như Hoa Kỳ – Biện pháp tự vệ đối với thép nhập khẩu (U.S – Steel Safeguards, WT/DS248, 249), cho thấy sự quan trọng của các biện pháp bảo vệ ngành công nghiệp trong bối cảnh thương mại toàn cầu.
251, 252, 253, 254, 258, 259), Hoa Kỳ – Biện pháp tự vệ đối với ống dẫn nhập khẩu (U.S – Line Pipe Safeguards, WT/DS202)…
38 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.160
39 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.162
40 Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu (Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/AB/R, (1999), đoạn 129
41 Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu (Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/AB/R, (1999), đoạn 130
Giai đoạn điều tra
1.5.1 Quy định của pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
Trong vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
Argentina đã tiến hành điều tra sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu trong khoảng thời gian 5 năm, theo quy định của pháp luật quốc gia Thời gian này được xác định là 5 năm gần nhất trước ngày nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa Cơ quan lập pháp Argentina cho rằng Điều XIX.1a GATT 1994 và SA không quy định cụ thể về độ dài giai đoạn điều tra, do đó, Argentina có quyền chọn khoảng thời gian mà họ cho là phù hợp để chứng minh sự gia tăng hàng nhập khẩu so với sản xuất nội địa, và 5 năm được xem là khoảng thời gian hợp lý.
Theo quy định pháp luật của Argentina, cơ quan chức năng có quyền lựa chọn khoảng thời gian 5 năm để áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, có thể là từ năm nộp đơn hoặc bất kỳ 5 năm liên tiếp trong quá khứ, tùy thuộc vào đánh giá của cơ quan áp dụng Khi chứng minh sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu, ngoài số liệu trong giai đoạn điều tra từ 1991 đến 1995, Argentina còn đưa ra số liệu năm 1996, cho thấy sự linh hoạt trong việc lựa chọn thời gian điều tra.
1995 chỉ phản ánh sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu diễn ra ở quá khứ
52 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.148
Ban hội thẩm đã đồng ý với quan điểm của Argentina rằng 5 năm dữ liệu lịch sử là thời gian cần thiết để cơ quan thẩm quyền có đủ thông tin cho việc phân tích và ra quyết định.
Cơ quan phúc thẩm đã đảo ngược kết luận của Ban hội thẩm, cho rằng không thể xem xét các xu hướng sản phẩm nhập khẩu trong 5 năm qua để kết luận về sự gia tăng sản phẩm này Quan điểm này dựa trên phân tích cụm động từ “đang được nhập khẩu” trong Điều XIX.1a GATT 1994 và Điều 2.1 SA, cho thấy sự gia tăng sản phẩm nhập khẩu phải mang tính “bất ngờ” và “gần đây” Do đó, giai đoạn điều tra sự gia tăng không thể kéo dài 5 năm.
Trong vụ kiện Hoa Kỳ – Biện pháp tự vệ đối với ống dẫn nhập khẩu (U.S –
Ban hội thẩm trong vụ kiện Line Pipe Safeguards (WT/DS202) đã kết luận rằng Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) không vi phạm Điều XIX.1a GATT 1994 và Điều 2.1 SA khi quyết định giai đoạn điều tra kéo dài hơn 5 năm 6 tháng Lý do là do pháp luật WTO không quy định cụ thể về độ dài của giai đoạn điều tra, thời gian này cho phép USITC tập trung vào các sản phẩm nhập khẩu gần đây, và cuối cùng, thời gian lựa chọn này đủ dài để chứng minh sự gia tăng hàng nhập khẩu so với sản xuất nội địa.
Trong vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với đào nhập khẩu (Argentina –
Ban hội thẩm trong vụ kiện Peach Safeguards (WT/DS238) đã nhấn mạnh rằng độ dài của giai đoạn điều tra không nhất thiết phải là 5 năm cố định hoặc bất kỳ khoảng thời gian cố định nào khác Thay vào đó, giai đoạn này chỉ cần phản ánh đúng tinh thần của Điều XIX.1a GATT.
Điều XIX.1a GATT 1994 và SA không quy định cụ thể về độ dài của giai đoạn điều tra, do đó, các nước Thành viên có quyền tự quyết định thời gian cho giai đoạn này.
53 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu
(Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/R, (1999), đoạn 8.166
54 Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với giày dép nhập khẩu (Argentina – Footwear Safeguards), WT/DS121/AB/R, (1999), đoạn 130
55 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Hoa Kỳ – Biện pháp tự vệ đối với ống dẫn nhập khẩu (U.S –
Line Pipe Safeguards), WT/DS202/R, (2001), đoạn 7.201
56 Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ kiện Argentina – Biện pháp tự vệ đối với đào nhập khẩu
Trong vụ tranh chấp Argentina – Peach Safeguards (WT/DS238/R, 2003), đoạn 7.52, giai đoạn điều tra cần tập trung vào các sản phẩm nhập khẩu gần đây và phải kéo dài đủ lâu để phân tích "khuynh hướng" gia tăng của chúng.
1.5.2 So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Tổ chức Thương mại Thế giới
Khoản 5 Điều 6 Nghị định số 150/2003/NĐ-CP quy định đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa phải có nội dung: “Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá của hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra của năm hiện tại và từng năm trong giai đoạn 3 năm liên tiếp trước khi có yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ”
Giai đoạn điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại hàng hóa theo pháp luật Việt Nam kéo dài 4 năm, bắt đầu từ năm có đơn yêu cầu.
VCAD đã xác định giai đoạn điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại đối với dầu nành tinh luyện và dầu cọ tinh luyện từ năm 2009 đến 2012.
Bộ Công Thương nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của Tổng Công ty
Vào ngày 30 tháng 11 năm 2012, ngành công nghiệp dầu thực vật Việt Nam đã áp dụng các nguyên tắc của WTO trong việc xác định giai đoạn điều tra sản phẩm nhập khẩu Các nhà đàm phán WTO không quy định độ dài cụ thể cho giai đoạn điều tra, cho phép các nước Thành viên tự quyết định miễn là tuân thủ nguyên tắc chung Điều này cho thấy pháp luật Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy định của WTO trong lĩnh vực này.
Theo quan điểm của tác giả, điều khoản yêu cầu "giai đoạn điều tra phải tập trung vào sản phẩm nhập khẩu gần đây và đủ dài để phân tích đưa ra kết luận về sự gia tăng" là hợp lý Điều này là do thời gian cần thiết cho việc điều tra có thể khác nhau tùy thuộc vào loại sản phẩm, mùa vụ và thủ tục hải quan.