1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong tố tụng dân sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

125 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quyền Tự Định Đoạt Của Đương Sự Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam
Tác giả Đinh Kim Huệ
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Cường
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự và Tố Tụng Dân Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 125
Dung lượng 1,82 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ (14)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt của đương sự với các quy định khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự (14)
    • 1.2. Sự hình thành và phát triển của những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay (22)
    • 1.3. Quyền tự định đoạt của đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới (29)
  • CHƯƠNG 2. NỘI DUNG QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH (41)
    • 2.1. Quyền đƣa ra yêu cầu, giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự (41)
    • 2.2. Quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh; Quyền cử người đại diện theo ủy quyền; Quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (50)
    • 2.3. Quyền đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyền đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng và đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (56)
    • 2.4. Quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc yêu cầu Tòa án trƣng cầu giám định, định giá, thẩm định giá tài sản (58)
    • 2.7. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự (77)
  • CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN (80)
    • 3.1. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền tự định đoạt của đương sự (80)
    • 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự (95)
  • PHỤ LỤC (125)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt của đương sự với các quy định khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự

1.1.1 Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ dân sự kéo theo sự gia tăng xung đột và mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể Khi thiết lập quan hệ dân sự, các bên thường hướng tới việc đảm bảo lợi ích thông qua thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ Tuy nhiên, khi một bên cảm thấy lợi ích của mình không được bảo đảm do vi phạm từ bên kia, mâu thuẫn có thể phát sinh và trở nên gay gắt hơn Trong trường hợp này, khởi kiện tại Tòa án trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả Do đó, pháp luật tố tụng dân sự cần xây dựng quy định cụ thể về trình tự và thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án, bao gồm cả quyền tự định đoạt của các đương sự.

Trong tố tụng dân sự (TTDS), các chủ thể tham gia có quyền và nghĩa vụ nhất định, với quyền luôn đi đôi với nghĩa vụ Khi quyền được pháp luật TTDS công nhận, chúng cần phải được tôn trọng và bảo vệ Quyền tự định đoạt, một quyền đặc thù của đương sự, được thể hiện qua các quyền cụ thể trong quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa án Việc thừa nhận quyền tự định đoạt phản ánh sự tôn trọng quyền con người, được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia, không chỉ trong TTDS mà còn trong Hiến pháp - văn bản pháp luật tối cao Ví dụ, Hiến pháp Cộng Hòa Ba Lan quy định rằng các đạo luật không được cản trở quyền khởi kiện của cá nhân tại tòa án.

Văn phòng Quốc Hội (2011) đã công bố Tuyển tập Hiến pháp một số nước, trong đó nêu rõ rằng việc xâm phạm tự do hoặc các quyền cá nhân sẽ bị coi là vi phạm Các bên liên quan có quyền kháng cáo đối với các phán quyết và quyết định tại giai đoạn sơ thẩm, và các ngoại lệ cũng như quy trình kháng cáo sẽ được quy định bởi pháp luật.

Theo Hiến pháp Liên Bang Nga, mọi người đều có quyền được bảo vệ quyền và tự do của mình tại Tòa án, và không ai bị tước quyền xét xử bởi các thẩm phán có thẩm quyền Tại Việt Nam, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 khẳng định rằng các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và bảo vệ, đồng thời chỉ có thể bị hạn chế trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đạo đức và sức khỏe cộng đồng.

Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được hiểu là quyền của họ trong việc tự quyết định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại Tòa án Điều này bao gồm quyền khởi kiện vụ án dân sự, rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện, và hòa giải với bên đối diện Quyền này phản ánh sự tự chủ và trách nhiệm của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp pháp lý.

Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) được hiểu là quyền quyết định về quyền lợi và lựa chọn biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của họ Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, quyền này được quy định tại Điều 5, khẳng định nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Điều này cho phép đương sự tự mình lựa chọn các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2 Văn phòng Quốc Hội, Trung tâm thông tin, thƣ viện và nghiên cứu khoa học (2011), tlđd 1, tr 109

3 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Công an nhân dân, Hà

4 Nguyễn Công Bình chủ biên (2005), Giáo trình luật tố tụng dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 47- 48

Quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc đặc thù trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) Đương sự có quyền quyết định khởi kiện và yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, và Tòa án chỉ thụ lý khi có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu từ đương sự Trong quá trình tố tụng, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu, hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, miễn là không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội Quyền tự định đoạt bắt đầu từ khi khởi kiện cho đến khi vụ việc dân sự kết thúc, nhưng không hoàn toàn tuyệt đối, vì phải tuân thủ quy định của pháp luật và không xâm phạm quyền lợi của bên khác Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự, vì mọi hành vi định đoạt chỉ có giá trị pháp lý khi được Tòa án chấp nhận.

Dựa trên nghiên cứu các khái niệm liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự, có thể tóm gọn rằng quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện khả năng và quyền hạn của họ trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân trong quá trình tố tụng.

Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án và trọng tài là cơ chế hiện hữu nhằm bảo vệ quyền dân sự Nguồn thông tin này được trình bày chi tiết trong tác phẩm của Nguyễn Thị Hoài Phương, xuất bản năm 2011, tại NXB Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh.

Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) là quyền lựa chọn và quyết định các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Quyền này được quy định trong pháp luật TTDS, và Tòa án có trách nhiệm đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.

1.1.2 Đặc điểm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Từ khái niệm về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS thì quyền tự định đoạt có những đặc điểm sau:

Quyền tự định đoạt là quyền cơ bản của công dân, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, bao gồm cả pháp luật dân sự và tố tụng dân sự (TTDS) Trong TTDS, đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự, vì họ là những người thiết lập giao dịch nhằm phục vụ lợi ích cá nhân Kết quả giải quyết vụ việc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến họ, do đó, đương sự có quyền tự định đoạt các hành vi tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Nếu không thể tự tham gia tố tụng, đương sự có quyền ủy quyền cho người khác đại diện Đối với những đương sự không có năng lực hành vi tố tụng, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án sẽ được thực hiện bởi người đại diện hợp pháp.

Nhà nước tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình theo quy định pháp luật Quyền tự định đoạt của đương sự, được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự, cho phép họ lựa chọn các hành vi tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, trong khi các chủ thể khác phải tôn trọng quyền này Tuy nhiên, quyền tự định đoạt không được xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác, cũng như của Nhà nước và xã hội Tòa án có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt này, đồng thời phải chịu sự giám sát của Viện kiểm sát Quyền tự định đoạt chỉ thực sự có ý nghĩa khi được áp dụng hiệu quả trong thực tiễn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện xuyên suốt trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khi khởi kiện cho đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm Mỗi hành vi định đoạt của đương sự mở ra các thủ tục tố tụng tương ứng, như quyền kháng cáo dẫn đến thủ tục phúc thẩm và quyền đề nghị kháng nghị mở ra thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Ngoài ra, một số quyền tự định đoạt như quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh và quyền tự thỏa thuận trong việc giải quyết vụ án cũng được duy trì từ giai đoạn sơ thẩm đến phúc thẩm.

Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền đặc thù mà chỉ đương sự mới có, khác với quyền của những người tham gia tố tụng khác như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch Điều này có nghĩa là chỉ đương sự mới có khả năng quyết định về quyền lợi và lợi ích của mình, trong khi những người tham gia tố tụng khác không có quyền này theo quy định pháp luật.

Quyền tự định đoạt trong Luật Tố tụng Dân sự (TTDS) khác biệt rõ rệt so với quyền này trong Luật Tố tụng Hành chính và Luật Tố tụng Hình sự Trong tố tụng hành chính, đương sự được phân loại thành “người khởi kiện” và “người bị kiện”, với chủ thể bị kiện thường là cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hành chính Điều này dẫn đến việc quyền tự định đoạt của đương sự bị hạn chế, ví dụ như trong TTDS, các bên có thể tự thỏa thuận giải quyết vụ việc qua hòa giải tại Tòa án, trong khi trong tố tụng hành chính, chỉ có đối thoại mà không có thủ tục hòa giải Đối với tố tụng hình sự, khái niệm “đương sự” không được sử dụng, mà thay vào đó là các thuật ngữ như bị can, bị cáo, và quyền tự định đoạt cũng bị giới hạn, đặc biệt trong việc thu thập chứng cứ, khi trách nhiệm chứng minh tội lỗi hoàn toàn thuộc về cơ quan điều tra.

1.1.3 Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Sự hình thành và phát triển của những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay

1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Năm 1945 đánh dấu sự kiện lịch sử quan trọng với thành công của Cách mạng tháng Tám và việc lãnh tụ Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 02/9, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Từ đó, Nhà nước được thành lập và bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc Hội thông qua vào ngày 09/11/1946 Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về thẩm quyền các tòa án, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về tổ chức tòa án và thủ tục tố tụng, cùng Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 quy định thủ tục ly hôn.

Theo Khoản 1 Điều 3 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Ban tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các vụ việc dân sự và thương sự Nếu hòa giải thành công, ban tư pháp sẽ lập biên bản hòa giải có chữ ký của các ủy viên và những người liên quan Sắc lệnh này nhấn mạnh vai trò của hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp và sự cần thiết của biên bản hòa giải trong quá trình này.

Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 nhấn mạnh vai trò của hòa giải trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và thương mại, với quy định rằng Ban tư pháp xã có trách nhiệm hòa giải và biên bản hòa giải thành sẽ có hiệu lực như một chứng thư Điều 9 của sắc lệnh cũng yêu cầu thẩm phán sơ cấp phải triệu tập các bên liên quan để thử hòa giải khi nhận được đơn khiếu nại Điều này cho thấy quyền khởi kiện của đương sự đã được công nhận Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 tiếp tục củng cố những quy định này, nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa giải trong hệ thống tư pháp.

Tòa án nhân dân huyện có trách nhiệm họp Hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả các vụ kiện dân sự và thương sự, bao gồm cả ly hôn, trừ những vụ không có quyền điều đình theo luật Biên bản hòa giải thành được coi là chứng thư có thể thi hành ngay, nhưng Biện lý có quyền yêu cầu sửa đổi hoặc bác bỏ nếu vi phạm trật tự chung trong thời hạn 15 ngày Điều này thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với hòa giải và quyền kháng cáo của đương sự Theo Sắc lệnh số 85, Tòa án nhân dân huyện có quyền xử lý các vụ án sơ thẩm bị kháng cáo và trong trường hợp khẩn cấp, có thể tuyên án các phương pháp bảo thủ Đối với lĩnh vực hôn nhân, Sắc lệnh 159 quy định rõ về ly hôn, phân biệt giữa ly hôn và thuận tình ly hôn, đồng thời khẳng định vai trò của hòa giải và tôn trọng ý chí của các bên Nếu sau một tháng hai vợ chồng vẫn giữ ý kiến xin ly hôn, Tòa án phải công nhận việc ly hôn đó.

Trong giai đoạn hiện tại, các Sắc lệnh của Chủ tịch nước quy định về thủ tục tố tụng dân sự (TTDS) đang thiếu tính rõ ràng và cụ thể, chủ yếu tập trung vào tổ chức và thẩm quyền của Tòa án, mặc dù đã đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự Tuy nhiên, những quy định này sẽ là nền tảng quan trọng cho việc phát triển các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong tương lai.

1.2.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 Ở giai đoạn này, Nhà nước ta hai lần sửa đổi Hiến pháp, theo đó, Hiến pháp năm 1959 ra đời thay thế cho Hiến pháp năm 1946 và tiếp sau Hiến pháp năm 1980 ra đời thay thế cho Hiến pháp 1959 Đồng thời, các Sắc lệnh trước đó cũng không còn hiệu lực, thay vào đó Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng nhƣ Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 cùng các Thông tƣ do Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tƣ pháp ban hành quy định về thủ tục TTDS, trong đó chứa đựng những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự

Pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hòa giải giữa các đương sự Thông tư số 614/DS ngày 24/4/1963 của Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định vai trò này trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Hòa giải của Tòa án nhân dân nhằm hỗ trợ các đương sự tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong tinh thần đoàn kết và tuân thủ pháp luật Để đảm bảo hiệu quả, cần có sự tự nguyện từ các bên, và nội dung thỏa thuận phải phù hợp với quy định pháp luật và chính sách Từ tính chất tư của quan hệ dân sự, việc tự thỏa thuận giữa các đương sự là mục tiêu chính mà pháp luật Tố tụng dân sự hướng tới.

Theo Thông tư số 614/DS ngày 24/4/1963, đương sự có quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện trước khi Tòa án ra quyết định Thông tư số 39/NCPL ngày 21/01/1972 quy định nguyên đơn phải có năng lực hành vi và quyền lợi bị xâm phạm, đồng thời có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình trong việc khởi kiện Thông tư số 96/NCPL ngày 08/02/1977 nhấn mạnh rằng Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi nguyên đơn khởi tố, trừ trường hợp luật pháp quy định quyền khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân, công dân, hợp tác xã hoặc đoàn thể nhân dân Thông tư này cũng quy định rõ quyền của đương sự trong quá trình khởi kiện.

Tòa án nhân dân có quyền cho phép các đương sự xem hoặc sao chép đơn từ, tài liệu của những người liên quan như nhân chứng và giám định viên, nếu điều này cần thiết để giúp họ chuẩn bị chứng cứ và lý lẽ bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời không gây cản trở cho quá trình điều tra và hòa giải.

- Đƣợc đề xuất yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc thay đổi yêu cầu của việc kiện

- Đƣợc đề xuất chứng cứ và những yêu cầu về điều tra hoặc về biện pháp khẩn cấp tạm thời cần đƣợc Tòa án nhân dân giải quyết

- Được xin thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hoặc người phiên dịch

- Đƣợc đề xuất những câu hỏi trong khi Tòa án nhân dân thẩm vấn tại phiên tòa và đƣợc tham gia cuộc tranh luận

- Đƣợc rút đơn kiện hoặc hòa giải với nguyên đơn, bị đơn về phần có liên quan đến mình

Người thứ ba có quyền kháng cáo và kháng án theo quy định của pháp luật, nhưng chỉ được thực hiện đối với những vấn đề liên quan đến quyền lợi của họ.

Quyền khởi kiện, quyền thay đổi yêu cầu và quyền rút đơn khởi kiện của đương sự đã được pháp luật tố tụng dân sự thừa nhận rõ ràng Một điểm mới quan trọng là pháp luật cho phép đương sự quyết định tự mình hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng Bên cạnh đó, đương sự còn có quyền đề xuất chứng cứ và yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Những quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự trong tương lai.

Ngày 24/7/1981, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 81/TANDTC, hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế với các quy định xác định di sản thừa kế, thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật Thông tư này tôn trọng quyền tự định đoạt của người lập di chúc, đồng thời bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế theo luật Việc công nhận quyền định đoạt của người lập di chúc giúp xây dựng cơ sở pháp lý cho người thừa kế khởi kiện tại Tòa án nhằm giải quyết tranh chấp liên quan đến di sản của người đã mất.

Từ năm 1960 đến 1989, Nhà nước chưa ban hành văn bản chính thức nào về thủ tục tố tụng dân sự (TTDS) Các vấn đề liên quan đến TTDS, bao gồm quyền tự định đoạt của đương sự, chỉ được quy định một cách rải rác trong các văn bản hướng dẫn, chủ yếu là các Thông tư của Tòa án nhân dân tối cao.

1.2.3 Giai đoạn từ năm 1990 đến nay Ở giai đoạn này, trước tiên phải kể đến sự ra đời của Pháp lệnh số 27/HĐNN ngày 07/12/1989 của Hội đồng nhà nước về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990 Nội dung của pháp lệnh này điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thẩm quyền của Tòa án; thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự; thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, trong đó chứa đựng những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự

Quyền tự định đoạt của đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới

1.3.1 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Theo pháp luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyền tự định đoạt của đương sự bao gồm nhiều quyền quan trọng như quyền đưa ra yêu cầu, quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu, quyền ủy nhiệm người đại diện, quyền cung cấp chứng cứ, quyền yêu cầu hòa giải, quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp bảo toàn tài sản và biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyền chống án bản án, tài định sơ thẩm và quyền yêu cầu tái thẩm bản án, tài định.

Theo Điều 52 và Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nguyên đơn có quyền từ bỏ, thay đổi hoặc rút yêu cầu tố tụng, trong khi bị đơn có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu này Ngoài ra, người thứ ba có quyền khởi tố nếu họ có lợi ích liên quan đến vụ án Để thực hiện quyền khởi tố, nguyên đơn cần nộp đơn cho Tòa án, trong đó phải ghi rõ họ tên, giới tính, tuổi, dân tộc, nghề nghiệp, địa chỉ của đương sự cùng với yêu cầu tố tụng, căn cứ sự thật và lý do, chứng cứ và thông tin nhân chứng Pháp luật cũng cho phép nguyên đơn khởi tố bằng lời nói, và Tòa án có trách nhiệm ghi biên bản Nguyên đơn còn phải nộp lệ phí thụ lý vụ án.

Theo Điều 131 Bộ luật Tố tụng Dân sự Trung Hoa, nếu nguyên đơn rút đơn kiện trước khi Tòa án tuyên án trong phiên tòa sơ thẩm, quyết định về việc này sẽ do Tòa án tự định đoạt.

Khi tham gia tố tụng tại Tòa án, đương sự có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia Nếu chọn ủy quyền, pháp luật cho phép đương sự chỉ định từ một đến hai người làm đại diện tố tụng.

Việc ủy nhiệm trong tố tụng dân sự theo Bộ luật Tố tụng Dân sự Trung Hoa phải được thực hiện bằng văn bản, gọi là thư ủy nhiệm, và cần có chữ ký hoặc dấu của người ủy nhiệm (Điều 59 BLTTDS Trung Hoa).

Theo Điều 125 BLTTDS Trung Hoa, đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ việc Tại phiên tòa, đương sự có thể đưa ra chứng cứ mới Nếu đương sự không thể tự thu thập chứng cứ, họ có quyền yêu cầu Tòa án thu thập Điều 64 BLTTDS Trung Hoa quy định rằng đương sự phải đưa ra chứng cứ cho các chủ trương của mình Trong trường hợp khách quan khiến đương sự hoặc người đại diện không thể tự sưu tầm chứng cứ, Tòa án có trách nhiệm điều tra và thu thập chứng cứ cần thiết cho việc xét xử.

Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thực hiện hòa giải, và quá trình này phải tuân theo nguyên tắc tự nguyện của các bên liên quan, theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo Điều 109 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Hoa, nguyên đơn cần nộp đơn khởi tố cho Tòa án nhân dân cùng với số bản sao tương ứng với số lượng bị đơn Nếu gặp khó khăn trong việc viết đơn, nguyên đơn có thể khởi tố bằng lời nói, và Tòa án sẽ ghi lại thành biên bản, đồng thời thông báo cho bên bị biết.

Theo quy định, hòa giải phải dựa trên sự tự nguyện của hai bên, không được ép buộc và nội dung thỏa thuận không được trái với pháp luật Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân có trách nhiệm lập bản hòa giải, trong đó ghi rõ yêu cầu tố tụng, các sự kiện liên quan đến vụ án và kết quả hòa giải Bản hòa giải sẽ có hiệu lực pháp luật ngay khi được ký bởi cả hai bên.

Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp bảo toàn tài sản và biện pháp khẩn cấp tạm thời Theo Điều 92, Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Hoa, biện pháp bảo toàn tài sản được áp dụng khi hành vi của một bên đương sự hoặc các nguyên nhân khác làm cho bản án không thể thi hành hoặc khó thi hành Tòa án sẽ căn cứ vào đơn yêu cầu của đương sự để ra quyết định về việc bảo toàn tài sản.

Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự Trung Hoa, biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm niêm phong, tạm giữ, phong tỏa và các biện pháp khác theo quy định pháp luật Biện pháp này áp dụng cho các vụ án liên quan đến truy thu tiền nuôi dưỡng, tiền thuốc men, hay tiền thù lao lao động Tuy nhiên, người yêu cầu phải có biện pháp bảo đảm, nếu không sẽ không được Tòa án chấp nhận Tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan rõ ràng, và không có biện pháp nào khác có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống hoặc sản xuất kinh doanh của người yêu cầu Ngoài ra, người bị yêu cầu cũng phải có khả năng thi hành quyết định Quyết định áp dụng biện pháp bảo toàn tài sản có thể bị khiếu nại, nhưng việc xem xét không ảnh hưởng đến việc thi hành quyết định.

Theo Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Hoa, nếu đương sự không chấp nhận bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương, họ có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Theo Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Hoa, đương sự không đồng ý với quyết định bảo toàn tài sản và biện pháp khẩn cấp tạm thời có quyền yêu cầu xem xét lại một lần trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận bản án, mà không làm đình chỉ việc thi hành quyết định Nếu không chấp nhận quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương, đương sự có thể kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong cùng thời hạn 15 ngày Sau khi nhận đơn kháng cáo, Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ gửi bản sao cho đương sự còn lại, và đương sự đó phải có bản đối đáp trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao (theo Điều 150 BLTTDS Trung Hoa).

Theo Điều 178 và Điều 180 Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đương sự có quyền yêu cầu tái thẩm bản án, tài định đã có hiệu lực pháp luật nếu cho rằng có sai lầm, và việc yêu cầu này không làm đình chỉ thi hành bản án Ngoài ra, nếu có chứng cứ chứng minh rằng bản hòa giả đã vi phạm nguyên tắc tự nguyện hoặc nội dung thỏa thuận hòa giải trái pháp luật, đương sự có quyền yêu cầu tái thẩm, và Tòa án sẽ xem xét, nếu đúng sự thật thì phải tiến hành tái thẩm.

Pháp luật Tố tụng Dân sự Trung Quốc quy định các trình tự xét xử khác nhau cho các vụ án dân sự, bao gồm trình tự xét xử đơn giản cho những vụ án có sự việc rõ ràng và tranh chấp không gay gắt, trình tự đặc biệt cho các vụ án liên quan đến tư cách cử tri, tuyên bố mất tích, và năng lực hành vi dân sự, cùng với trình tự đôn đốc cho các yêu cầu thanh toán từ chủ nợ Dù là trình tự nào, pháp luật đều công nhận quyền tự định đoạt của đương sự, yêu cầu Tòa án chỉ giải quyết khi có đơn yêu cầu cụ thể.

Sự ra đời của BLTTDS Liên bang Nga năm 2003 thay thế cho BLTTDS năm

NỘI DUNG QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:31

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
19. Nghị quyết số: 01/2005/NQ – HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những quy định chung
20. Nghị quyết số: 04/2005/NQ – HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chứng minh và chứng cứ
21. Nghị quyết số: 02/2006/NQ – HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai“Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm
22. Nghị quyết số: 05/2006/NQ – HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba“Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm
33. Nguyễn Công Bình chủ biên (2009), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Tác giả: Nguyễn Công Bình chủ biên
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2009
34. Nguyễn Hữu Chính (2012), “Những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt động hành nghề luật sƣ trong giai đoạn xét xử tại Tòa án và một số giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (19), tr. 15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt động hành nghề luật sƣ trong giai đoạn xét xử tại Tòa án và một số giải pháp hoàn thiện”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Nguyễn Hữu Chính
Năm: 2012
35. Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng (2013), “Cần có quy định thủ tục rút gọn trong bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (02), tr. 16, 17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cần có quy định thủ tục rút gọn trong bộ luật tố tụng dân sự”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng
Năm: 2013
36. Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên) (2012), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi
Tác giả: Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên)
Nhà XB: NXB Lao động – Xã hội
Năm: 2012
38. Dự án Vie/95/017 – Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam (2000), Kỷ yếu của dự án Vie về pháp luật tố tụng dân sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỷ yếu của dự án Vie về pháp luật tố tụng dân sự
Tác giả: Dự án Vie/95/017 – Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam
Năm: 2000
39. Đoàn cán bộ ngành Tòa án nhân dân (2012), “Một số vấn đề cơ bản về hệ thống Tòa án và pháp luật tố tụng của Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (15), tr. 40 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề cơ bản về hệ thống Tòa án và pháp luật tố tụng của Cộng hòa Pháp”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Đoàn cán bộ ngành Tòa án nhân dân
Năm: 2012
40. Đỗ Văn Đại, Nguyễn Văn Tiến (2010), Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự
Tác giả: Đỗ Văn Đại, Nguyễn Văn Tiến
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao Động
Năm: 2010
41. Nguyễn Phương Hạnh (2012), Tìm hiểu về Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu về Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Phương Hạnh
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia – sự thật
Năm: 2012
42. Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Minh Hằng
Nhà XB: NXB Chính trị - Hành chính
Năm: 2009
43. Phan Gia Ngọc, Nguyễn Thành Phấn (2012), “Các bên đương sự đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án có thể xét xử đƣợc hay không?”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (16), tr. 23, 24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các bên đương sự đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án có thể xét xử đƣợc hay không?”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Phan Gia Ngọc, Nguyễn Thành Phấn
Năm: 2012
44. Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên
Nhà XB: NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2012
45. Nguyễn Thị Hoài Phương (2011), Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài – Cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, NXB Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài – Cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự
Tác giả: Nguyễn Thị Hoài Phương
Nhà XB: NXB Lao động
Năm: 2011
47. Lê Văn Tâm (2006), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tƣ pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật
Tác giả: Lê Văn Tâm
Nhà XB: NXB Tƣ pháp
Năm: 2006
48. Trần Phương Thảo (2012), Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam
Tác giả: Trần Phương Thảo
Năm: 2012
49. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2006, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2006
Tác giả: Tòa án nhân dân tối cao
Năm: 2008
50. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Tài liệu tham khảo hội nghị triển khai công tác năm 2010 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu tham khảo hội nghị triển khai công tác năm 2010 của ngành Tòa án nhân dân
Tác giả: Tòa án nhân dân tối cao
Năm: 2010

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w