NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Khái quát về hoạt động mua lại doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm hoạt động mua lại doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm mua lại doanh nghiệp dưới góc độ kinh tế học
Vì thuật ngữ Acquisitions được dịch ra nhiều nghĩa khác nhau như “mua lại”,
Trong nghiên cứu về hoạt động thâu tóm doanh nghiệp, tác giả sử dụng cụm từ “mua lại doanh nghiệp” để phân tích dưới góc độ kinh tế và pháp lý Cách sử dụng thuật ngữ này phù hợp với quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành vào ngày 03 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2005.
Mua lại doanh nghiệp là thuật ngữ kinh tế được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau Theo Tiến sĩ Donald DePamphilis, mua lại doanh nghiệp được hiểu là việc một công ty khác tiếp quản quyền kiểm soát, sở hữu một công ty con hợp pháp hoặc mua lại tài sản của một công ty khác.
Theo David L Scott, "mua lại doanh nghiệp" là quá trình mua lại tài sản như máy móc, bộ phận hoặc toàn bộ công ty Chẳng hạn, công ty Unicharm Thái Lan, thuộc tập đoàn Unicharm Nhật Bản, đã thực hiện giao dịch mua lại 34,2% cổ phần.
6 Phạm Trí Hùng - Đặng Thế Đức (2011), M&A Sáp nhập và Mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội, tr.18, 19
7 Donald DePamphilis (2005), Mergers, Acquisitions, and Other Restructing Activities – An Integrated Approach to Process, Tools, Cases, and Solutions, NXB Elsevier Academic, Boston, tr.579
8 Andrew J.Sherman – Milledge A.Hart (2009), Mua lại và Sáp nhập từ A đến Z, NXB Tri thức, Hà Nội, tr.28
10 triệu cổ phiếu phổ thông (tức 95% số cổ phần) của công ty Diana Việt Nam và nắm vai trò điều hành Diana từ ngày 25/8/2011 9
Mua lại doanh nghiệp, theo định nghĩa từ Investopedia, là quá trình mà một công ty mua lại phần lớn hoặc toàn bộ tài sản của một công ty mục tiêu để nắm quyền kiểm soát Hoạt động này thường là một phần trong chiến lược phát triển của công ty thâu tóm, nhằm tối ưu hóa lợi ích từ việc tiếp nhận các hoạt động của công ty mục tiêu Thông thường, việc mua lại doanh nghiệp được thực hiện thông qua hình thức thanh toán bằng tiền mặt, cổ phiếu của công ty thâu tóm, hoặc sự kết hợp của cả hai.
Mua lại doanh nghiệp là khái niệm chỉ việc một doanh nghiệp kiểm soát doanh nghiệp khác thông qua việc mua lại toàn bộ hoặc một phần tài sản, nhằm khống chế các quyết định của doanh nghiệp đó Doanh nghiệp mua có thể xem doanh nghiệp mục tiêu là một phần của toàn thể, mặc dù về mặt pháp lý, cả hai vẫn độc lập Mục tiêu chính của doanh nghiệp mua là nâng cao lợi nhuận kinh tế thông qua quy mô, hiệu quả và khả năng chiếm lĩnh thị trường.
1.1.1.2 Khái niệm mua lại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động mua lại doanh nghiệp được phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó việc mua lại doanh nghiệp được coi là một trong những hành vi quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và tái cấu trúc doanh nghiệp.
9 Thanh Thương, “Diana bán 95% cổ phần cho Tập đoàn Unicharm”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online,
[http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/chungkhoan/60153/Diana-ban-95-co-phan-cho-Tap-doan- Unicharm.html] (truy cập ngày 21/5/2015)
10 “Acquisition Definition”, Investopedia, [http://www.investopedia.com/terms/a/acquisition.asp] (truy câp ngày 29/5/2015)
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, tập trung kinh tế được điều chỉnh bởi các quy định liên quan đến đầu tư ra nước ngoài Mua lại doanh nghiệp, theo Điều 17 Luật Cạnh tranh năm 2004, được định nghĩa là hành động một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác nhằm kiểm soát hoặc chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định về việc kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp theo Luật Cạnh tranh Cụ thể, một doanh nghiệp kiểm soát sẽ nắm giữ trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị của doanh nghiệp bị kiểm soát Điều này cho phép doanh nghiệp kiểm soát chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát, từ đó thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của họ.
Theo Điểm c Khoản 1 Điều 52 của Luật Đầu tư năm 2014, không có định nghĩa cụ thể về "mua lại doanh nghiệp", mà chỉ quy định rằng hoạt động này bao gồm việc "mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài" Đây là một trong những hình thức cho phép nhà đầu tư, bao gồm cả tổ chức và cá nhân, thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, bên cạnh việc thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
11 Khoản 3 Điều 16 Luật Cạnh tranh năm 2004
12 Điểm c Khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư năm 2014
13 Khoản 13 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) ở nước ngoài cho phép các bên tham gia thực hiện các hoạt động như mua bán chứng khoán, giấy tờ có giá và đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán cũng như các định chế tài chính trung gian khác Tất cả các hình thức đầu tư này phải tuân thủ quy định của pháp luật tại nước tiếp nhận đầu tư.
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, không quy định về hình thức "mua lại doanh nghiệp" mà chỉ cho phép bán doanh nghiệp tư nhân theo Điều 187 Việc bán doanh nghiệp tư nhân này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh năm 2004, vì Khoản 2 Điều 187 quy định rằng việc bán không bao gồm các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác, trừ khi có thỏa thuận khác Theo định nghĩa tại Điều 17 Luật Cạnh tranh, mua lại doanh nghiệp liên quan đến việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác, trong khi Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ công nhận các tài sản như vật, tiền và quyền tài sản, không bao gồm nợ và nghĩa vụ tài sản Mục đích của việc mua lại doanh nghiệp là nhằm kiểm soát và chi phối công ty mục tiêu, khác với mua bán tài sản thông thường, vốn là một hoạt động dân sự - thương mại giữa bên mua và bên bán dựa trên hợp đồng mua bán.
Việc mua lại tài sản của một doanh nghiệp khác chỉ cho phép chủ thể sở hữu tài sản mà không có quyền quản lý hay can thiệp vào hoạt động của công ty Để nắm quyền kiểm soát và chi phối công ty, chủ thể cần mua lại công ty, cho phép họ quyết định phương hướng phát triển và bổ nhiệm các chức danh chủ chốt Nếu chỉ mua tài sản mà không đủ để kiểm soát công ty mục tiêu, hoạt động này chỉ đơn thuần là mua tài sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh mà không bị điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh Do đó, trong nghiên cứu về mua lại doanh nghiệp, khái niệm này được hiểu là việc mua lại tài sản trí tuệ mà không phải là cổ phần hay toàn bộ doanh nghiệp, nhằm giành quyền kiểm soát và chi phối công ty mục tiêu.
1.1.2 Các hình thức mua lại doanh nghiệp
Việc kiểm soát công ty có thể đạt được thông qua tỷ lệ sở hữu vốn góp, cổ phần hoặc tài sản doanh nghiệp Có hai phương thức chính để thực hiện mua lại doanh nghiệp: (i) mua lại vốn góp, cổ phần và (ii) mua lại tài sản doanh nghiệp Bài viết này sẽ tập trung vào hình thức mua lại tài sản trí tuệ, liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Luật hiện hành quy định về kiểm soát hoạt động mua lại công ty, nhằm đảm bảo tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Nghiên cứu của Trần Anh Khoa (2006) tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra những điểm quan trọng trong việc áp dụng pháp luật này Các quy định cần thiết không chỉ giúp quản lý hiệu quả hoạt động mua bán doanh nghiệp mà còn tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng và ổn định.
14 doanh nghiệp dưới hình thức mua lại các tài sản khác như phần vốn góp, cổ phần sẽ không được đề cập
Mua lại doanh nghiệp chỉ được thực hiện qua hình thức mua lại tài sản, áp dụng cho công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chỉ có thể mua tài sản của các công ty khác, miễn là tài sản đủ để kiểm soát một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại theo quy định pháp luật cạnh tranh Hệ quả pháp lý của việc này là doanh nghiệp mục tiêu và doanh nghiệp mua lại vẫn giữ tính độc lập về mặt pháp lý Tuy nhiên, tác giả không đồng ý với quan điểm cho rằng giữa hai doanh nghiệp không có sự lệ thuộc nào về pháp lý; thực tế, doanh nghiệp mua lại vẫn có ảnh hưởng nhất định đến quyết định quản lý của doanh nghiệp mục tiêu do giá trị lớn của tài sản được mua lại Mục đích chính của việc mua tài sản theo hình thức này là để doanh nghiệp mua lại có thể tác động đến các quyết định điều hành của doanh nghiệp chuyển giao.
15 Nguyễn Đắc Bình (2014), Pháp luật về mua lại doanh nghiệp, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, tr.24
Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1 Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 07 (TĐGVN 07) được ban hành theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC, tài sản của doanh nghiệp được phân loại thành tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính Tài sản hữu hình bao gồm các tài sản cụ thể như đất đai, nhà cửa, máy móc, trong khi tài sản vô hình không có hình thái vật chất nhưng có khả năng tạo ra quyền lợi kinh tế, như tài sản trí tuệ và cơ sở dữ liệu Truyền thống cho rằng tài sản hữu hình là chủ yếu và quyết định khả năng cạnh tranh của công ty, nhưng gần đây, nhờ vào sự phát triển của công nghệ và ngành dịch vụ, tài sản vô hình đã trở nên quan trọng hơn Ví dụ, giá trị nhãn hiệu của Coca Cola, IBM và Microsoft lần lượt được ước tính là 80,7 tỷ USD, 107,5 tỷ USD và 90,2 tỷ USD Trong nghiên cứu về tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ sẽ được phân tích chi tiết hơn.
16 Lâm Nghi, “Định giá 10 thương hiệu đắt nhất thế giới”, Doanh nhân Sài Gòn điện tử,
[http://www.doanhnhansaigon.vn/marketing-pr/dinh-gia-10-thuong-hieu-dat-nhat-the-gioi/1081535/] (truy cập ngày 18/7/2015)
17 “Công nghiệp dược đang phát triển ở Việt Nam”, Mạng Thông tin Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh , [http://www.cesti.gov.vn/the-gioi-du-lieu/cong-nghiep-duoc-dang-phat-trien-o-viet-nam.html] (truy cập ngày 18/7/2015)
Quyền sở hữu trí tuệ là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình sáng tạo, sử dụng, định đoạt và bảo vệ tài sản trí tuệ Nó được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, thương mại và đầu tư Công ước Thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), ký tại Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm 1967 và sửa đổi vào ngày 28 tháng 9 năm 1979, đã đưa ra định nghĩa về quyền sở hữu trí tuệ dưới dạng liệt kê.
Sở hữu trí tuệ bao gồm quyền đối với tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học, cùng với chương trình biểu diễn, bản ghi âm và phát thanh, truyền hình Nó cũng bao gồm sáng chế, phát minh khoa học, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ, chỉ dẫn và tên thương mại Bảo vệ chống cạnh tranh không lành mạnh và các quyền khác từ hoạt động trí tuệ trong công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật cũng nằm trong phạm vi sở hữu trí tuệ.
Tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ theo Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 được định nghĩa là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng Quyền tác giả bảo vệ các tác phẩm sáng tạo, trong khi quyền liên quan đến quyền tác giả bảo vệ các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình và chương trình phát sóng Quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh Cuối cùng, quyền đối với giống cây trồng bảo vệ các giống cây trồng mới do tổ chức, cá nhân phát triển hoặc phát hiện.
18 “Convention Establishing the World Intellectual Property Organization (Signed at Stockholm on July 14,
1967 and as amended on September 28, 1979)”, The World Intellectual Property Organization,
[http://www.wipo.int/treaties/en/text.jsp?file_id(3854#P50_1504] (truy cập ngày 29/5/2015)
Tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ được phân thành ba loại chính: (i) Quyền tác giả cùng với quyền liên quan đến quyền tác giả, (ii) Quyền sở hữu công nghiệp, và (iii) Quyền đối với giống cây trồng.
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân, với nội dung khác nhau giữa các đối tượng Quyền tài sản của quyền tác giả cho phép thực hiện các hành vi như tạo tác phẩm phái sinh, sao chép và truyền đạt tác phẩm đến công chúng, do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện Ngược lại, quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả và không thể chuyển nhượng, bao gồm quyền đặt tên cho tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh, công bố tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm Đối với sáng chế và các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, quyền nhân thân thuộc về người tạo ra chúng, trong khi quyền tài sản thuộc về chủ sở hữu, cho phép sử dụng, cho phép người khác sử dụng và ngăn cấm sử dụng.
19 Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
20 Khoản 2 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
21 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
22 Khoản 2 Điều 122 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
23 Khoản 1 Điều 123 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
Các đối tượng sở hữu trí tuệ được pháp luật công nhận bao gồm 18 loại, trong đó chủ sở hữu các đối tượng này được bảo vệ quyền độc quyền đối với tài sản trí tuệ của mình.
1.2.2 Tài sản trí tuệ - đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
Khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17 tháng
Thông tư liên tịch 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC, ban hành vào năm 2014, định nghĩa tài sản trí tuệ là tài sản vô hình, có tính sáng tạo và khả năng mang lại lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu Tài sản trí tuệ bao gồm các đối tượng được bảo hộ như sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu và các tác phẩm khoa học, trong khi tài sản vô hình là sản phẩm của hoạt động trí tuệ Tài sản trí tuệ cũng mang các đặc tính của tài sản thông thường, nhưng nổi bật với tính không có hình thái vật chất cụ thể, tồn tại dưới dạng thông tin Chỉ những tài sản trí tuệ được ghi nhận trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 mới được Nhà nước bảo hộ, tuy nhiên không phải tất cả các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đều có thể trở thành tài sản trí tuệ có thể chuyển giao trong hoạt động mua lại doanh nghiệp.
Chỉ dẫn địa lý không thể được xem là đối tượng trong hoạt động mua lại doanh nghiệp vì quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng theo Khoản 2 Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, do nó thuộc sở hữu của Nhà nước Doanh nghiệp chỉ là chủ thể sử dụng, không phải chủ sở hữu, nên không có quyền chuyển nhượng Tương tự, tên thương mại chỉ có thể được chuyển nhượng cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh, dẫn đến việc doanh nghiệp chuyển nhượng sẽ không còn tồn tại, điều này không phù hợp với hình thức mua lại doanh nghiệp Những tài sản trí tuệ khác như thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn hay giống cây trồng ít phổ biến hơn so với quyền tác giả, sáng chế, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh, do đó doanh nghiệp thường chọn hình thức thuê để sử dụng Vì vậy, bài viết chỉ tập trung vào quyền tác giả, sáng chế, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh, phù hợp với quy định pháp luật Hoa Kỳ về tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp.
Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
Tài sản trí tuệ là yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp Việc xây dựng và sở hữu tài sản trí tuệ không chỉ giúp củng cố uy tín mà còn mở rộng vị thế của doanh nghiệp trên thị trường Nhờ vào lợi thế từ các tài sản trí tuệ, doanh nghiệp có khả năng nâng cao sức cạnh tranh, tăng thị phần và gia tăng doanh thu.
Các công ty ngày càng chú trọng đến việc mở rộng vị thế trên thị trường nhằm tăng doanh thu, thị phần và lợi nhuận Một trong những chiến lược quan trọng là mở rộng công nhận nhãn hiệu, giúp tăng khả năng định giá và ảnh hưởng đến giá cả thị trường Việc nâng cao giá trị nhãn hiệu có thể thực hiện qua nhiều phương pháp, như sử dụng nhãn hiệu mạnh để hỗ trợ cho nhãn hiệu khác Nhãn hiệu nổi tiếng mang lại lợi thế cạnh tranh lớn, vì khách hàng thường liên kết tên nhãn hiệu với chất lượng sản phẩm, tạo ra sự tin tưởng Ví dụ, nhãn hiệu Samsung được biết đến với các thiết bị điện tử hiện đại, thể hiện rằng sự nổi bật của nhãn hiệu có thể thay đổi nhận thức và trải nghiệm của khách hàng Sản phẩm tương tự có thể có mức giá khác nhau tùy thuộc vào uy tín nhãn hiệu, cho thấy sự tín nhiệm của khách hàng là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp bán và phát triển sản phẩm hiệu quả hơn.
24 William J.Gole - Paul J.Hilger (2010), Thẩm định chi tiết, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, tr.55, 56
25 Nguyễn Thanh Tâm (2006), Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.22 -24
Việc mua lại các nhãn hiệu mạnh có thể tạo ra giá trị kinh tế lớn cho công ty Năm 1997, Unilever đã gia nhập thị trường Việt Nam và chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu P/S thông qua việc thành lập công ty liên doanh Elida P/S Nhờ vào việc quản lý và khai thác nhãn hiệu nổi tiếng này, Unilever đã chiếm lĩnh thị trường kem đánh răng tại Việt Nam với hơn 65% thị phần, vượt xa Colgate với chỉ 25% Điều này chứng tỏ rằng việc sở hữu tài sản trí tuệ giúp bên mua có cơ hội cạnh tranh mạnh mẽ và thay đổi đáng kể vị thế thị trường.
1.3.2 Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong việc định giá giao dịch mua lại doanh nghiệp
Trong thời đại công nghệ cao hiện nay, các công ty thường tiến hành mua lại để sở hữu tài sản công nghệ vô giá từ những công ty tăng trưởng nhanh Những tài sản này bao gồm công nghệ đột phá, bí quyết kỹ thuật, bằng sáng chế, nhãn hiệu, và danh sách khách hàng, thường được gọi là tài sản vô hình và tài sản trí tuệ Chúng giúp công ty phát triển sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, tối ưu hóa lợi nhuận và tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững Các tài sản này mang tính độc đáo, khó bị sao chép, giúp công ty duy trì vị thế trên thị trường so với đối thủ chỉ dựa vào sản phẩm và dịch vụ với biên lợi nhuận thấp.
Bài viết của Phương Ánh trên Báo Lao động phân tích cách mà các thương hiệu Việt Nam bị "nuốt" bởi các thương hiệu nước ngoài Tác giả chỉ ra rằng sự xâm nhập mạnh mẽ của các thương hiệu quốc tế đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường nội địa, khiến nhiều thương hiệu Việt gặp khó khăn trong việc duy trì và phát triển Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển thương hiệu Việt để giữ vững bản sắc văn hóa và kinh tế.
27 Lữ Ý Nhi - Thảo Minh, “Thị trường kem đánh răng: 90 bóp 10”, Báo Doanh nhân Sài Gòn điện tử,
[http://www.doanhnhansaigon.vn/chuyen-lam-an/thi-truong-kem-danh-rang-90-bop-10/1076677/] (truy cập ngày 17/7/2015)
Trong 22 trường hợp mua lại, các phiên đấu thầu diễn ra căng thẳng, tập trung vào những công ty sở hữu tài sản vô hình và quyền sở hữu trí tuệ quý giá Một ví dụ điển hình cho vai trò quan trọng của tài sản trí tuệ trong việc thúc đẩy và định giá giao dịch mua lại là sự kiện diễn ra vào ngày 04 tháng 11 năm.
Năm 1999, Warner Lambert công bố kế hoạch sáp nhập với American Home Product trị giá 67 tỷ đô la Mỹ, nhưng ngay sau đó, Pfizer đã đề nghị mua lại Warner Lambert với giá 72 tỷ đô la Mỹ Cuối cùng, Pfizer đã chiến thắng trong cuộc đấu thầu với mức giá lên tới 90,2 tỷ đô la Mỹ Lý do Pfizer đưa ra mức giá cao như vậy là để sở hữu đội ngũ nhà khoa học, bí quyết kỹ thuật, phòng thí nghiệm và danh mục sáng chế của Warner Lambert, nhằm thúc đẩy sự sáng tạo trong phát triển các loại thuốc đột phá.
Cuộc cách mạng song sinh trong lĩnh vực xét nghiệm di truyền và công nghệ thông tin đang làm thay đổi nhanh chóng ngành công nghiệp dược phẩm Sự cạnh tranh giữa các công ty dược nhằm phát triển các loại thuốc "bom tấn" trị giá hàng tỷ đô la Mỹ thể hiện rõ giá trị của tài sản trí tuệ, đặc biệt là bằng sáng chế.
1.3.3 Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong việc giảm chi phí sản xuất
Giảm chi phí sản xuất là lý do chính khiến các công ty chọn mua lại công nghệ hoặc sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, thay vì đầu tư thời gian và nguồn lực để phát triển từ đầu với rủi ro không thành công Trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng, các công ty cần tìm kiếm những con đường ngắn hơn để tiếp cận công nghệ mới nhằm tránh bị loại khỏi thị trường Việc mua lại công nghệ là giải pháp hiệu quả nhất để tiết kiệm chi phí sản xuất.
Pfizer has successfully acquired Warner-Lambert for a staggering $90.2 billion, as reported by Melody Petersen in The New York Times This significant deal marks a pivotal moment in the pharmaceutical industry, showcasing Pfizer's aggressive growth strategy and commitment to expanding its market presence.
Giá trị của công nghệ trong doanh nghiệp thường vượt trội so với các tài sản khác, được xác định qua việc so sánh chi phí mua mới và tự phát triển Chi phí ban đầu để phát triển công nghệ từ con số không, cùng với tổn thất doanh thu và vị thế thị trường do thời gian gia nhập thị trường, có thể khiến việc mua lại công nghệ trở nên hấp dẫn hơn Các phát kiến đã được cấp bằng sáng chế hoặc khó sao chép thường mang lại giá trị lớn, thúc đẩy doanh nghiệp lựa chọn mua lại thay vì tự phát triển Ví dụ điển hình là vào năm 1997, Texas Instrument đã chi một khoản tiền lớn cho một công nghệ mới.
Texas Instrument đã chi 395 triệu USD để mua lại Amati Communications, một công ty nhỏ ở California do Giáo sư Cioffi từ Trường đại học Stanford thành lập Mức giá này gây bất ngờ vì nó cao hơn nhiều so với doanh thu hàng năm và tình hình tài chính của Amati Tuy nhiên, lý do cho thương vụ này rất rõ ràng: Amati nắm giữ 25 bằng sáng chế quan trọng về công nghệ Đường dây thuê bao (DSL), mà Texas Instrument xem là chìa khóa để tham gia thị trường DSL Sở hữu các bằng sáng chế này đã giúp Texas Instrument củng cố vị thế dẫn đầu trong công nghệ mới và mở ra cơ hội lợi nhuận từ việc cấp phép công nghệ cho các công ty khác.
Các vấn đề pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
Theo Phạm Trí Hùng và Đặng Thế Đức, các vấn đề pháp lý trong hoạt động sáp nhập và mua lại doanh nghiệp chủ yếu liên quan đến tỷ lệ mua lại cần thiết để kiểm soát doanh nghiệp, các vấn đề thuế liên quan, cũng như hợp đồng sáp nhập và mua lại.
29 Kamil Idris (2005), Sở hữu trí tuệ - Một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế, NXB Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Geneva, tr.42
Trong bài viết, tác giả phân tích hai trường hợp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp, cụ thể là chuyển nhượng nhãn hiệu kem đánh răng Dạ Lan và P/S Nhãn hiệu Dạ Lan, được định giá hơn 20 triệu USD vào năm 1995, đã được chuyển nhượng cho Colgate Palmolive với giá chỉ 3 triệu USD Trong khi đó, nhãn hiệu P/S sau khi bán cho Unilever đã biến mất khỏi thị trường Qua các trường hợp này, hai vấn đề pháp lý nổi bật liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong mua lại doanh nghiệp là định giá tài sản và chuyển giao tài sản trí tuệ Việc có quy định pháp luật về định giá tài sản vô hình và tài sản trí tuệ sẽ giúp tránh tình trạng định giá quá cao hoặc quá thấp, đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia giao dịch Đồng thời, vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam trong chuyển nhượng tài sản trí tuệ như trường hợp P/S cũng cần được xem xét, nhất là khi pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ ràng Khóa luận nghiên cứu này sẽ tập trung vào các quy định của pháp luật Việt Nam về định giá và chuyển giao tài sản trí tuệ.
Chương 01 của khóa luận cung cấp cái nhìn tổng quan về hoạt động mua lại doanh nghiệp, nhấn mạnh vai trò quan trọng của tài sản trí tuệ trong quá trình này Tài sản trí tuệ không chỉ là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mà còn đóng góp lớn vào giá trị thương vụ mua lại Xu hướng tập trung kinh tế thông qua mua lại doanh nghiệp ngày càng trở nên phổ biến, ảnh hưởng đến cả khía cạnh kinh tế và pháp lý.
Mua lại doanh nghiệp là quá trình một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác để kiểm soát nó Trong giao dịch này, vấn đề pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là định giá và chuyển giao tài sản trí tuệ, đóng vai trò quan trọng Định giá tài sản trí tuệ không chỉ ảnh hưởng đến giá trị thương vụ mà còn quyết định quyền kiểm soát của doanh nghiệp mua đối với doanh nghiệp bị thâu tóm Đây là mục tiêu chính của nhà đầu tư khi thực hiện mua lại Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy chế thống nhất về định giá và chuyển giao tài sản trí tuệ trong các giao dịch này, dẫn đến việc định giá chủ yếu dựa vào thỏa thuận giữa các bên Do đó, cần hoàn thiện quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan đến tài sản trí tuệ trong giao dịch mua lại doanh nghiệp.
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ ĐỊNH GIÁ VÀ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG MUA LẠI DOANH NGHIỆP
Định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
2.1.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ Đối với nhiều doanh nghiệp, tài sản trí tuệ mang một ý nghĩa kinh tế to lớn và do đó việc định giá tài sản trí tuệ nhằm giúp doanh nghiệp xác định được các lợi ích kinh tế trong các công việc như quản lý nội bộ tài sản trí tuệ, chuyển nhượng tài sản trí tuệ, mua lại tài sản trí tuệ, chuyển quyền sử dụng tài sản trí tuệ (li-xăng), thiết lập các liên minh chiến lược, huy động vốn, đầu tư phát triển hơn nữa tài sản trí tuệ, tham gia các hợp đồng liên doanh… 30 Giá trị của tài sản trí tuệ có thể khác nhau nếu sử dụng các phương pháp định giá khác nhau Các yếu tố khác như kinh nghiệm và các dữ liệu sẵn có để tiến hành thực hiện một phương pháp cụ thể cũng có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp định giá Tài sản trí tuệ có thể được định giá cao hơn nếu tại thời điểm bán đối tượng chuyển giao không trùng với thời điểm giới thiệu một công nghệ bổ sung hoặc thay thế hoặc công nghệ có hiệu quả trên thị trường, lúc này đối tượng được định giá sẽ được coi là mang công nghệ tốt nhất trên thị trường và điều này mang đến thuận lợi cho việc xác định giá trị của đối tượng đó
Nhận thức về tầm quan trọng của tài sản trí tuệ và việc định giá loại tài sản này là rất cần thiết trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và Trung tâm Thương mại quốc tế (UNCTAD/WTO) đã phát hành tài liệu hướng dẫn cho các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ vào năm 2004, cung cấp những thông tin quan trọng về sở hữu trí tuệ mà nhiều người chưa biết Tài liệu này nhằm giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về quyền sở hữu trí tuệ và cách thức bảo vệ tài sản trí tuệ của họ trong quá trình xuất khẩu.
World Intellectual Property Organization, [www.wipo.int/sme/en/documents/guides/ /secrets_of_ip_vi.pdf]
31 “Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020”, Cổng thông tin điện tử của Bộ Khoa học và Công nghệ,
[www.most.gov.vn/Download.aspx/ /01_Chien_luoc_den_2020_13_4.p ] (truy cập ngày 16/6/2015)
Việc định giá tài sản trí tuệ, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 11 tháng 4 năm 2012, đóng vai trò quan trọng trong thương mại hóa tài sản trí tuệ, góp phần hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ Do đó, xác định giá trị tài sản trí tuệ không chỉ giúp đánh giá đúng lợi ích vật chất cho chủ sở hữu mà còn thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật có đề cập đến khái niệm định giá là
Định giá công nghệ được quy định tại Khoản 14 Điều 3 của Luật số 80/2006/QH11, do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật Chuyển giao công nghệ, có hiệu lực từ ngày 29/11/2006, quy định rõ các tiêu chí và phương pháp định giá công nghệ trong quá trình chuyển giao.
Luật Giá năm 2012, được ban hành ngày 20/6/2012 và có hiệu lực từ 01/01/2013, quy định về "định giá" tại Khoản 5 Điều 4 của Luật số 11/2012/QH13 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua.
Định giá công nghệ là quá trình xác định giá trị của công nghệ, trong khi định giá hàng hóa và dịch vụ là hoạt động do cơ quan nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân thực hiện để quy định giá Cần phân biệt giữa "giá cả" và "giá trị" của tài sản trí tuệ; giá cả là số tiền mà người mua sẵn sàng chi trả trong giao dịch, còn giá trị là khái niệm trừu tượng được xác định qua các phương pháp và quy tắc cụ thể Mặc dù giá trị có thể ảnh hưởng đến việc định giá tài sản trí tuệ, nhưng việc định giá không nhất thiết phải giống với xác định giá cả Các yếu tố như thời gian, nhu cầu, lý do bán và kỹ năng đàm phán cũng tác động đến quá trình này.
32 Bùi Huyền, “Có nên định giá các quyền sở hữu trí tuệ”, Trang Thông tin pháp luật dân sự,
[http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/11/22/] (truy cập ngày 25/6/2015)
Theo quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều 22 Luật Giá năm 2012, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền định giá tài sản trí tuệ Điều này được cụ thể hóa trong Điều 8 Nghị định 177/2013/NĐ-CP và Điều 8 Thông tư 56/2014/TT-BTC, hướng dẫn thực hiện các quy định về định giá tài sản trí tuệ.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành hướng dẫn Luật Giá Tuy nhiên, các quy định trong hai Nghị định này không đề cập đến thẩm quyền định giá của các cơ quan nhà nước được liệt kê tại Điều 22 của Luật Giá năm 2012, đặc biệt là đối với tài sản vô hình và tài sản trí tuệ Theo đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được phép định giá các loại hàng hóa và dịch vụ được quy định tại Khoản 1 Điều này.
Luật Giá năm 2012 quy định rằng có ba nhóm hàng hóa và dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm hàng hóa, dịch vụ do nhà nước sản xuất và kinh doanh, tài nguyên quan trọng, hàng dự trữ quốc gia, và dịch vụ công ích Tổ chức và cá nhân sản xuất, kinh doanh có quyền tự định giá hàng hóa, dịch vụ của mình, trừ những hàng hóa, dịch vụ nằm trong danh mục do nhà nước định giá Họ cũng có quyền quyết định giá mua và giá bán cho hàng hóa, dịch vụ mà nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, hoặc giá tối thiểu Đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục nhà nước định giá, tổ chức, cá nhân có quyền tự định giá tài sản trí tuệ mà họ sở hữu hợp pháp Cần lưu ý rằng chủ thể của hoạt động mua lại doanh nghiệp chỉ bao gồm tổ chức theo quy định của pháp luật doanh nghiệp.
29 chủ thể là cá nhân sẽ không được liệt kê trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
Thông tư liên tịch 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC, ban hành ngày 17 tháng 12 năm 2014, quy định về việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cũng như tài sản trí tuệ sử dụng Ngân sách Nhà nước Văn bản này nhằm thương mại hóa kết quả nghiên cứu và bảo vệ quyền lợi của những người tạo ra tài sản trí tuệ Tuy nhiên, Thông tư không cung cấp định nghĩa rõ ràng về hoạt động định giá trong lĩnh vực này Cần lưu ý rằng các quy định về định giá tài sản trí tuệ chỉ áp dụng cho tài sản sử dụng Ngân sách Nhà nước.
Theo Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC, tổ chức được giao quyền sở hữu và sử dụng tài sản trí tuệ sử dụng Ngân sách Nhà nước là chủ thể có thẩm quyền định giá tài sản trí tuệ, không bao gồm cá nhân Thông tư này cũng quy định rõ các loại tài sản trí tuệ cần định giá tại Khoản 2 Điều 3, bao gồm các đối tượng được bảo hộ và không được bảo hộ theo luật sở hữu trí tuệ, như sáng chế, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, tên thương mại, giống cây trồng, chương trình máy tính, tác phẩm khoa học, sáng kiến, giống vật nuôi, và thiết kế kỹ thuật.
Trong Chuyên đề pháp luật áp dụng trong hoạt động định giá, thẩm định giá tài sản do Bộ Tài chính phát hành năm 2007, có bốn đặc điểm nổi bật của hoạt động định giá Đặc điểm đầu tiên liên quan đến bản chất và mục đích của định giá, đó là việc đánh giá giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm cụ thể.
33 “Chuyên đề pháp luật áp dụng trong hoạt động định giá, thẩm định giá tài sản”, Cổng thông tin điện tử Bộ
Tài chính, [www.mof.gov.vn/portal/pls/portal/docs/1/1152273.DOC] (truy cập ngày 11/6/2015)
Định giá tài sản là một quá trình quan trọng trong nền kinh tế thị trường, bao gồm ba yếu tố chính: (i) xác định thời điểm cụ thể để thực hiện định giá; (ii) áp dụng các phương pháp định giá như giá chuẩn, khung giá, và giá giới hạn (giá tối thiểu và giá tối đa); (iii) mục tiêu cuối cùng là đưa tài sản vào lưu thông, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
Định giá tài sản phải tuân thủ các nguyên tắc kỹ thuật, tính chất, vị trí, quy mô và giá thị trường tại thời điểm định giá, đồng thời đảm bảo tính độc lập, khách quan, trung thực và tuân thủ pháp luật Các phương pháp định giá cơ bản bao gồm phương pháp so sánh trực tiếp và phương pháp thu nhập Việc định giá tài sản được thực hiện bởi Nhà nước với tư cách tổ chức quyền lực công và chủ sở hữu tài sản, cùng với các tổ chức, cá nhân khác với tư cách chủ sở hữu hoặc người cung cấp dịch vụ định giá Định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp là quá trình xác định giá trị tài sản trí tuệ của doanh nghiệp bị kiểm soát thông qua các phương pháp định giá phù hợp, nhằm đảm bảo doanh nghiệp kiểm soát có đủ quyền chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát, từ đó thu được lợi ích kinh tế.
2.1.2 Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp – so sánh với pháp luật Việt Nam
Chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, khái niệm "chuyển giao" bao gồm cả chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng Mặc dù luật không định nghĩa cụ thể hoạt động chuyển giao, nhưng cấu trúc các chương cho thấy rõ điều này Chương IV quy định về chuyển giao quyền tác giả và quyền liên quan, với Mục 1 nói về chuyển nhượng quyền tác giả và Mục 2 về chuyển quyền sử dụng Tương tự, Chương X cũng quy định về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm Mục 1 về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp và Mục 2 về chuyển quyền sử dụng.
Chương XV của Luật Sở hữu trí tuệ quy định về chuyển giao quyền đối với giống cây trồng, bao gồm Điều 192 về chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng và Điều 194 về chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng Hai hoạt động này phản ánh sự hiểu biết về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp trong lĩnh vực giống cây trồng.
Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11, được Quốc hội thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007, định nghĩa chuyển giao công nghệ tại Khoản 8 Điều 3 Cụ thể, chuyển giao công nghệ là việc chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên chuyển giao sang bên nhận công nghệ.
Chuyển giao công nghệ năm 2006 bao gồm việc chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản trí tuệ Bài khóa luận này tập trung nghiên cứu hoạt động mua lại doanh nghiệp, đặc biệt là việc chuyển nhượng quyền sở hữu, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản trí tuệ Do đó, khái niệm “chuyển giao” trong bài viết này chỉ liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sở hữu các tài sản thuộc quyền sở hữu trí tuệ.
Hoạt động chuyển giao tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu, và bí mật kinh doanh, là một hình thức quan trọng trong thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ Trong bối cảnh mua lại doanh nghiệp, chuyển giao tài sản trí tuệ được hiểu là quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu các tài sản trí tuệ này.
Chuyển giao tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp là quá trình mà doanh nghiệp bị kiểm soát chuyển nhượng quyền sở hữu các quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh cho một doanh nghiệp khác.
Bài viết của Hoàng Lan Phương (2011) tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đề cập đến pháp luật Việt Nam liên quan đến việc thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định và cơ chế pháp lý nhằm thúc đẩy việc sử dụng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Giá trị của tài sản trí tuệ cho phép doanh nghiệp kiểm soát trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị Điều này giúp doanh nghiệp thực hiện quyền kiểm soát các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát, từ đó thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của họ.
2.2.2 Quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam về chuyển giao tài sản trí tuệ trong hoạt động mua lại doanh nghiệp
2.2.2.1 Quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam về chuyển giao quyền tác giả
Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ định nghĩa việc chuyển nhượng quyền sở hữu tác giả là các hình thức như chuyển giao, cầm cố, cấp giấy phép sử dụng độc quyền và không bao gồm giấy phép sử dụng không độc quyền Để việc chuyển nhượng có hiệu lực, hợp đồng hoặc biên bản ghi nhớ phải được lập bằng văn bản và ký bởi chủ sở hữu quyền hoặc đại diện hợp pháp của họ Mặc dù luật không yêu cầu chuyển nhượng phải được đăng ký với Cục Bản quyền tác giả, việc có chứng chỉ xác nhận sẽ cung cấp bằng chứng rõ ràng về việc thực hiện chuyển nhượng, đặc biệt trong các trường hợp diễn ra tại Hoa Kỳ.
45 Điều 101 Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
46 Điều 204 (a) Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, việc chứng nhận chuyển nhượng quyền sở hữu quyền tác giả phải được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm các công chức ngoại giao hoặc lãnh sự Để được công nhận tại Cục Bản quyền tác giả, tài liệu chuyển nhượng cần có chữ ký chuẩn hoặc kèm theo cam đoan xác thực Đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu là rất quan trọng trong trường hợp xảy ra tranh chấp, vì nó xác lập quyền ưu tiên trong các trường hợp chuyển nhượng xung đột Quyền ưu tiên được xác định dựa trên thời điểm chứng nhận, với thời hạn một tháng cho chuyển nhượng trong nước và hai tháng cho chuyển nhượng ngoài nước.
47 Điều 204 (b) Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
48 Điều 205 (a) Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Chứng nhận tài liệu tại Cục Bản quyền tác giả mang lại thông báo hữu ích về sự kiện được xác nhận trong tài liệu, nhưng điều này chỉ xảy ra khi có đủ điều kiện nhất định.
Tài liệu và các giấy tờ kèm theo mô tả chi tiết về tác phẩm, được bổ sung phụ lục bởi Cục Bản quyền tác giả, giúp dễ dàng tra cứu theo tiêu đề hoặc số đăng ký Việc đăng ký này được thực hiện cho các tác phẩm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả.
39 sự đền bù thoả đáng hoặc trên cơ sở ràng buộc bằng việc trả tiền thù lao và không có thông báo của việc chuyển nhượng trước 50
Pháp luật Việt Nam không định nghĩa rõ về chuyển giao quyền tác giả, chỉ quy định chung tại Điều 45 và nội dung hợp đồng tại Điều 46 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 Trong khi đó, Hoa Kỳ không yêu cầu các nội dung bắt buộc trong hợp đồng chuyển nhượng, cho phép các bên tự do thỏa thuận Điều này có thể dẫn đến rủi ro cho các bên nếu thiếu nội dung quy định, khiến hợp đồng có thể vô hiệu Việc quy định cứng nhắc của pháp luật Việt Nam hạn chế quyền tự do giao kết hợp đồng Tác giả cho rằng, các nội dung trong hợp đồng nên được quy định theo hướng gợi mở để hỗ trợ các giao dịch dân sự Luật Hoa Kỳ cũng có điểm mạnh khi không yêu cầu đăng ký hợp đồng chuyển nhượng, nhưng việc đăng ký trước sẽ giúp chứng minh quyền sở hữu dễ dàng hơn trong trường hợp tranh chấp Mặc dù cả hai pháp luật không bắt buộc đăng ký hợp đồng, nhưng Việt Nam thiếu cách thức giải quyết hợp lý trong vấn đề này.
50 Điều 205 (d) Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Để giải quyết xung đột quyền sở hữu trí tuệ, các nhà lập pháp Việt Nam nên xem xét bổ sung quy định tương tự như Điều 205 (d) của Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ Điều này sẽ giúp nâng cao nhận thức của các bên về việc bảo vệ quyền sở hữu của mình trước những hành vi xâm phạm từ các chủ thể khác.
2.2.2.2 Quy định của pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Khái niệm "sở hữu công nghiệp" chỉ tồn tại ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật Pháp - Đức, trong khi các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ không sử dụng thuật ngữ này mà trực tiếp đề cập đến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh Các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong các đạo luật riêng biệt như Luật Sáng chế, Luật Nhãn hiệu hàng hóa và Luật Chỉ dẫn địa lý ở Hoa Kỳ, và Luật Sáng chế, Luật Kiểu dáng ở Anh Mặc dù vậy, nhiều quốc gia đều thống nhất về các loại hình đối tượng được bảo hộ dưới dạng sở hữu công nghiệp theo các điều ước quốc tế như Công ước Paris và Hiệp định TRIPS Do đó, khi xem xét quy định pháp luật Hoa Kỳ về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, khóa luận sẽ tập trung vào việc chuyển giao đối với sáng chế, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh.