NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI DƯỚI HÌNH THỨC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP VÀ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Khái quát về đầu tư nước ngoài
1.1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài
Khái niệm “Đầu tư nước ngoài” (ĐTNN) lần đầu tiên được Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) định nghĩa là tất cả các giá trị vật chất mà nhà đầu tư chuyển từ nước này sang nước khác theo quy định pháp luật của nước nhận đầu tư Tuy nhiên, định nghĩa này có phần hạn hẹp khi chỉ tập trung vào giá trị vật chất, mà chưa đề cập đến các tài sản phi vật chất như quyền sở hữu trí tuệ, điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày nay.
Pháp luật Việt Nam hiện tại chưa có định nghĩa rõ ràng về Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) Tuy nhiên, khái niệm này đã được đề cập trong Điều lệ Đầu tư của nước ngoài theo Nghị định số 115/CP ban hành ngày 18/4/1977, trong đó ĐTNN được hiểu là việc đưa tài sản như thiết bị, máy móc và vốn (chỉ bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ nếu được phép) vào Việt Nam.
Từ khái niệm trên, có thể thấy rằng các nhà làm luật Việt Nam đã chủ trương xây dựng một hành lang pháp lý để điều chỉnh hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) Mặc dù cách hiểu còn hạn chế khi chưa đề cập đến đầu tư vào tài sản vô hình, nhưng họ đã nhận thức rằng không phải mọi sự vận động vốn từ NĐTNN đều được coi là đầu tư nước ngoài Chỉ những tài sản và vốn được quy định tại Điều 2 của Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 mới được công nhận là đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Điều lệ này đã đặt nền móng cho việc xây dựng Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc mở cửa thu hút vốn ngoại và thúc đẩy hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới.
Theo thời gian, khái niệm đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã mở rộng, được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài 1987 Cụ thể, "Đầu tư nước ngoài" được hiểu là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản vào Việt Nam, được Chính phủ chấp thuận nhằm hợp tác kinh doanh thông qua hợp đồng, thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn.
Trần Thị Thanh Huyền (2015) trong luận văn Thạc sĩ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia đã phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời so sánh với các quy định pháp luật của các nước khác.
4 Điều 2 Điều lệ Đầu tư của nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977
Luật này quy định rằng nhà đầu tư có thể sử dụng bất kỳ tài sản nào được Chính phủ chấp nhận để đầu tư, không chỉ giới hạn ở tiền Đây là một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và hội nhập của Việt Nam với thế giới Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng mở rộng khái niệm đầu tư, cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào nhiều hình thức đầu tư tại Việt Nam, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ và các quyền khác theo quy định pháp luật như giấy phép và sự cho phép.
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là quá trình mà nhà đầu tư từ một quốc gia đưa vốn vào một quốc gia khác thông qua các tài sản hữu hình hoặc vô hình để thực hiện hoạt động sản xuất và kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận Một yếu tố quan trọng để xác định ĐTNN là sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) yêu cầu sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN), nhưng không phải mọi hoạt động có sự hiện diện của NĐTNN đều được coi là ĐTNN Để được xem là ĐTNN, sự tham gia của NĐTNN cần đi kèm với các hoạt động đầu tư cụ thể, như thành lập tổ chức kinh tế, góp vốn, mua cổ phần hoặc phần vốn góp của doanh nghiệp, cũng như tham gia vào các hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) và các hợp đồng theo hình thức đối tác công tư (PPP).
Yếu tố dịch chuyển vốn từ nước ngoài sang nước nhận đầu tư, cụ thể là Việt Nam, thường được hiểu là nguồn vốn hoặc tài sản phải được nhà đầu tư nước ngoài chuyển từ quốc gia của họ hoặc một quốc gia khác Tuy nhiên, trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài cư trú tại Việt Nam và sử dụng tài sản tại đây để đầu tư, việc xác định đó có phải là đầu tư nước ngoài hay không vẫn còn mơ hồ do pháp luật hiện hành chưa định nghĩa rõ ràng về đầu tư nước ngoài Hơn nữa, khái niệm nhà đầu tư nước ngoài không phân biệt yếu tố dịch chuyển vốn, cho thấy rằng việc ghi nhận sự chuyển dịch vốn không phải là điều kiện cần thiết để xác định một nhà đầu tư là nhà đầu tư nước ngoài Do đó, dù không có sự chuyển dịch vốn từ nước đầu tư sang nước nhận đầu tư, vẫn nên xem xét đây là đầu tư nước ngoài.
5 Điều 2.3 Luật Đầu tư nước ngoài 1987
6 Điều 1 Chương IV Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ký kết ngày 13/7/2000
Hoạt động đầu tư nước ngoài của nhà đầu tư thường mang tính lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro Mục tiêu chính của việc tham gia vào các dự án đầu tư là đạt được lợi nhuận, phản ánh bản chất của kinh doanh thương mại Tuy nhiên, những rủi ro này cũng là thách thức mà nhà đầu tư phải đối mặt, từ đó thể hiện bản lĩnh và khả năng tìm kiếm môi trường đầu tư tiềm năng.
1.1.3 Hình thức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài
Hiện nay, pháp luật không còn phân chia rõ ràng giữa đầu tư trực tiếp và gián tiếp, mà thay vào đó, liệt kê các hình thức đầu tư khác nhau.
- Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế;
- Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế;
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP;
- Đầu tư theo hợp đồng BCC
Việc các nhà làm luật tinh giản quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên, phương pháp quy định theo hướng liệt kê đã hạn chế hình thức đầu tư của họ Sự hạn chế này sẽ được phân tích chi tiết trong Chương 3.
Các hình thức đầu tư trong Luật Đầu tư chủ yếu tập trung vào các dự án có sự chi phối của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN), tuy nhiên, thực tế cho thấy NĐTNN cũng có thể chỉ tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán để thu lợi nhuận mà không quản lý hay chi phối doanh nghiệp Mặc dù Luật Đầu tư không điều chỉnh trực tiếp hình thức này, nhưng nó được điều chỉnh gián tiếp qua Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn, cho thấy vai trò quan trọng của đầu tư gián tiếp Trong khi đầu tư trực tiếp thúc đẩy sản xuất, đầu tư gián tiếp kích thích thị trường tài chính, với số liệu cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2017, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt 2,25 tỷ USD, và gần 2 tỷ USD chỉ trong quý III Dù pháp luật không còn phân định rõ ràng giữa đầu tư trực tiếp và gián tiếp, nhưng các thống kê từ Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Nhà nước vẫn chỉ ra số liệu về đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Trong 9 tháng đầu năm, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã tăng mạnh, đạt 4,2 tỷ USD Sự gia tăng này phản ánh sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế đối với thị trường Việt Nam Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trong bài viết của Hồng Quân trên CafeF.
8 Theo Tổng cục thống kê, tổng số vốn đăng ký cấp mới đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2019 là 16745,6 triệu USD
7 dùng khái niệm chung là ĐTNN, chứng tỏ trong tư duy pháp luật vẫn có sự phân biệt hai khái niệm này
Theo tác giả, cần phân biệt rõ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp để đánh giá chính xác sức hấp dẫn của đầu tư nước ngoài vào thị trường và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
1.1.3.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
Khái quát về nhà đầu tư nước ngoài
1.2.1 Khái niệm và vai trò của nhà đầu tư nước ngoài
Theo Từ điển Luật học, nhà đầu tư nước ngoài được định nghĩa là cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt Nam Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn mơ hồ và chưa rõ ràng về tiêu chí xác định một nhà đầu tư nước ngoài.
“nước ngoài” Trong quy định của pháp luật đầu tư hiện hành định nghĩa khái niệm
Lê Thị Minh Thùy (2007) trong luận văn Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất các giải pháp nhằm thu hút và kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao tính minh bạch của thị trường.
12 Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Từ điển Bách khoa, Nhà xuất bản
Nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) được định nghĩa là cá nhân có quốc tịch nước ngoài hoặc tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài hoạt động đầu tư tại Việt Nam Định nghĩa này tuy rõ ràng nhưng vẫn còn mâu thuẫn với quy định hiện hành, khi không đề cập đến tổ chức thành lập tại Việt Nam mà NĐTNN nắm giữ trên 51% vốn điều lệ Điều này gây bất cập vì đối tượng này cũng được xem là NĐTNN Sự phân định giữa NĐTNN và NĐT trong nước nhằm mục đích làm rõ sự khác biệt về quy định và quyền kiểm soát, trong đó NĐT trong nước bao gồm cá nhân có quốc tịch Việt Nam và tổ chức tại Việt Nam với NĐTNN nắm giữ dưới 51% vốn, còn NĐTNN bao gồm cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức nước ngoài, và tổ chức tại Việt Nam có NĐTNN nắm giữ từ 51% vốn trở lên.
Vai trò của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trong nền kinh tế Việt Nam rất quan trọng, bao gồm việc tăng cường mối quan hệ kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước, tạo việc làm cho lao động phổ thông, và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao NĐTNN cũng góp phần chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý, giúp Việt Nam tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật từ các quốc gia phát triển Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi cho NĐTNN thông qua các chính sách tích cực, khẳng định rằng “Nhà đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.”
1.2.2 Điều kiện đầu tư vào thị trường Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài Để có thể thành lập doanh nghiệp hay góp vốn vào doanh nghiệp tại Việt Nam thì NĐTNN cần đáp ứng các điều kiện về đầu tư theo pháp luật Việt Nam Cụ thể như sau:
13 Điều 3.14 của Luật Đầu tư 2014
14 Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp và các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân Trí, tr.110
15 Phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam do Bộ
Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 04/10/2018
1.2.2.1 Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài
Theo định nghĩa của Luật Đầu tư 2014, dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất đầu tư trung hạn hoặc dài hạn nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh tại một địa bàn cụ thể trong khoảng thời gian xác định Về mặt hình thức, dự án đầu tư là bộ hồ sơ chi tiết trình bày các hoạt động và chi phí theo kế hoạch để đạt được mục tiêu trong tương lai Về nội dung, dự án đầu tư bao gồm các hoạt động liên quan được lập kế hoạch nhằm tạo ra kết quả cụ thể trong thời gian nhất định, sử dụng các nguồn lực xác định Yêu cầu này là bắt buộc đối với mọi nhà đầu tư nước ngoài khi thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam, vì cơ quan chức năng sẽ dựa vào dự án để đánh giá tính khả thi và lợi ích của việc triển khai dự án Do đó, nhà đầu tư nước ngoài cần đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, pháp lý và đồng nhất trong quá trình xây dựng dự án đầu tư.
1.2.2.2 Ngành, nghề đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào các ngành nghề bị cấm Những ngành nghề này thường thay đổi dựa trên điều kiện kinh tế-xã hội, bao gồm các yếu tố như quốc phòng, an ninh, và sức khỏe cộng đồng Do đó, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2016 đã bổ sung ngành nghề kinh doanh pháo nổ, và dự thảo sửa đổi Luật Đầu tư 2019 đã thêm dịch vụ đòi nợ vào danh sách ngành nghề cấm đầu tư, nhằm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện tại.
17 Nguyễn Bạch Nguyệt (2006), Giáo trình Lập Dự Án Đầu Tư, Nhà xuất bản Thống Kê, tr.16-17.
18 Xem tại < http://www.dankinhte.vn/du-an-dau-tu-la-gi/>, truy cập ngày 04.4.2020.
19 Điều 6.1 Luật đầu tư 2014 sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1.1 Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục
4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư
20 Phạm Hoài Huấn (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam Tình huống-Dẫn giải-Bình luận, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, tr.48
Theo quy định hiện hành, nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) được phép tham gia đầu tư vào tất cả các ngành nghề, ngoại trừ bảy ngành nghề bị cấm Các cơ quan chức năng không được bổ sung thêm các ngành nghề cấm khác để tạo khó khăn cho NĐTNN.
NĐTNN khi đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh tại Việt Nam cần chú ý đến các điều kiện kèm theo, vì không phải ngành nào cũng hoàn toàn mở cửa cho NĐTNN Danh sách ngành nghề kinh doanh có điều kiện áp dụng cho NĐTNN đã được công bố trên Cổng thông tin quốc gia về ĐTNN và không trùng khớp với danh sách 243 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo LĐT 2014, điều này gây khó khăn cho NĐT Đối với những ngành nghề chưa được quy định, CQĐKĐT sẽ tham khảo ý kiến của Bộ KH & ĐT và các Bộ ngành liên quan để xem xét và quyết định.
1.2.2.3 Tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài
Theo quy định pháp luật hiện hành, nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu vốn không hạn chế trong doanh nghiệp, ngoại trừ một số trường hợp cụ thể mà họ phải tuân thủ tỷ lệ sở hữu vốn nhất định.
Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào các công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán và quỹ đầu tư chứng khoán sẽ phải tuân thủ quy định về tỷ lệ vốn góp theo luật chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đối với công ty đại chúng, các quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài được xác định theo các trường hợp cụ thể: (i) nếu có điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì thực hiện theo điều ước đó; (ii) trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh có quy định pháp luật về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì tuân thủ theo quy định đó; nếu ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài nhưng chưa có quy định cụ thể, tỷ lệ sở hữu tối đa sẽ là 49%; (iii) đối với hoạt động đa ngành nghề với các quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, tỷ lệ này không được vượt quá mức quy định.
21 Điều 7.1 Luật doanh nghiệp 2014 và Điều 5.1 Luật đầu tư 2014
23 Điều 10.2đ Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật đầu tư
Nghị định 60/2015/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật chứng khoán Đồng thời, Điều 11 Thông tư 123/2015/TT-BTC cũng hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường này.
Trong các ngành nghề mà công ty hoạt động, có 12 mức tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối thiểu được quy định, ngoại trừ các trường hợp có quy định khác theo Điều ước quốc tế Đối với các công ty đại chúng không thuộc các trường hợp này, tỷ lệ sở hữu nước ngoài không bị giới hạn, trừ khi Điều lệ công ty quy định khác.
Chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán, cổ phiếu không có quyền biểu quyết của công ty đại chúng, chứng khoán phái sinh, và chứng chỉ lưu ký cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư mà không bị hạn chế, trừ khi điều lệ của tổ chức phát hành quy định khác.
Đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán, NĐTNN có thể được quyền sở hữu vốn góp không hạn chế
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THÀNH LẬP
Thành lập doanh nghiệp mới của nhà đầu tư nước ngoài
Để thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) cần đáp ứng các điều kiện theo quy định tại mục 3 của Chương 1, đồng thời phải là chủ thể có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành.
Theo quy định hiện hành, tổ chức không có tư cách pháp nhân không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp Tại Việt Nam, các tổ chức này bao gồm doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh, tập đoàn kinh tế, tổng công ty, tổ hợp tác, và các quỹ đầu tư theo pháp luật chứng khoán Các nhà làm luật cho rằng tổ chức không có tư cách pháp nhân không thể tự mình thực hiện việc này mà phải thông qua các thành viên trong tổ chức Tuy nhiên, quan điểm này không hoàn toàn thuyết phục khi Bộ luật Dân sự 2015 vẫn cho phép các tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia giao dịch dân sự và xác định trách nhiệm của các thành viên trong tổ chức đó.
Năm 2014, quy định cho phép mọi tổ chức và cá nhân tham gia góp vốn hoặc mua cổ phần vào doanh nghiệp, ngoại trừ một số trường hợp cụ thể như: (i) cơ quan nhà nước và đơn vị vũ trang nhân dân không được sử dụng tài sản nhà nước để thu lợi riêng; (ii) cán bộ hoặc công chức nước ngoài; và (iii) doanh nghiệp tư nhân (DNTN) không có tư cách pháp nhân Điều này đặt ra câu hỏi về khả năng góp vốn và mua cổ phần của các tổ chức không có tư cách pháp nhân (ngoại trừ DNTN) trong doanh nghiệp.
43 Điều 3.1 Nghị định 77/2019/NĐ-CP về tổ hợp tác
Phụ lục số 01 Thông tư 91/2019/TT-BTC đã sửa đổi và bổ sung một số quy định về chế độ báo cáo và thủ tục hành chính áp dụng cho công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán.
45 Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân trí, tr.98
46 Chương VI Bộ luật dân sự 2015
Việc mua cổ phần trong doanh nghiệp đã thành lập hoặc tham gia vào tổ chức không có tư cách pháp nhân có thể gây ra thắc mắc về quyền quản lý và điều hành Tuy nhiên, quyền hạn này chỉ bị hạn chế tại thời điểm thành lập doanh nghiệp.
Theo quy định của luật, không rõ ràng về việc tổ chức không có tư cách pháp nhân có được thành lập và quản lý doanh nghiệp hay không, bao gồm cả tổ chức nước ngoài Tuy nhiên, thực tế áp dụng lại hiểu theo hướng bao hàm rằng tư cách pháp nhân của tổ chức nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi tổ chức đó được thành lập Do đó, nếu tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân muốn thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam thì sẽ không được phép theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014.
2.1.1 Hình thức doanh nghiệp nhà đầu tư nước ngoài được thành lập
Nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) có thể thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam thông qua doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh với đối tác Việt Nam Theo quy định, NĐTNN được phép thành lập bốn loại hình doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh và công ty cổ phần Tuy nhiên, việc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không áp dụng cho tất cả ngành nghề, mà chỉ cho những lĩnh vực đã được cam kết mở cửa theo các hiệp định quốc tế như WTO và CPTPP Do đó, NĐTNN cần cân nhắc các cam kết này khi lựa chọn lĩnh vực đầu tư.
49 Điều 676.2 Bộ luật dân sự 2015
Trong khóa luận tốt nghiệp của Đồng Nữ Thùy Linh (2019) tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã nghiên cứu về quy trình thành lập doanh nghiệp và việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý và thực tiễn liên quan đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam.
51 Mục 9.B của II Cam kết cụ thể cho từng ngành theo Biểu cam kết thương mại dịch vụ của Việt Nam trong WTO
Việc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định tại Điều 19 của CPTPP sẽ được ưu tiên áp dụng Hình thức này thường được các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn nhằm đảm bảo sự tự chủ trong hoạt động của doanh nghiệp, từ việc xây dựng chiến lược phát triển dài hạn đến việc đạt được các mục tiêu ngắn hạn.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp phổ biến thứ hai của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) khi thành lập tại Việt Nam Khác với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh có sự tham gia và quản lý của đối tác Việt Nam, dẫn đến việc quyền lực của NĐTNN bị san sẻ Mặc dù vậy, hình thức này vẫn được NĐTNN ưu tiên lựa chọn nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt khi họ chưa quen thuộc với môi trường kinh tế, xã hội và pháp lý của Việt Nam Sự hỗ trợ từ đối tác Việt Nam giúp NĐTNN dễ dàng hơn trong việc tiến hành sản xuất kinh doanh tại thị trường mới mẻ này.
2.1.2 Quy trình thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài Để thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam, NĐTNN cần có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục bắt buộc xin Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (“IRC”) và đáp ứng các điều kiện về tỷ lệ sở hữu VĐL, hình thức đầu tư, phạm vi hoạt động 54 Quy trình cụ thể như sau:
2.1.2.1 Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư Đối với các dự án đầu tư quan trọng thì đây là thủ tục bắt buộc khi thực hiện hoạt động đầu tư Vậy hiểu như thế nào là “dự án quan trọng” Pháp luật hiện hành không có quy định về khái niệm trên, tuy nhiên, nhìn chung những dự án cần xin chấp thuận chủ trường đầu tư là (i) những dự án gây ảnh hưởng lớn hoặc tiềm ẩn khả năng gây ảnh hưởng lớn/nghiêm trọng đến môi trường, dân cư, liên quan đến ngành nghề kinh doanh có điều kiện hoặc sử dụng nguồn vốn lớn và (ii) các dự án sử dụng đất hoặc công nghệ hạn chế chuyển giao Ví dụ:
Ảnh hưởng đến môi trường: dự án nhà máy điện hạt nhân, nhà máy hóa chất…
Ảnh hưởng đến xã hội: các dự án dẫn đến việc di dân từ 10.000 người trở lên ở miền núi và từ 20.000 người trở lên ở miền khác
Liên quan đến ngành nghề kinh doanh có điều kiện như casino, golf… hoặc sử dụng nguồn vốn lớn từ 5.000 tỷ đồng trở lên
Bảng tóm tắt so sánh pháp luật Việt Nam với các cam kết trong WTO, EVFTA và TPP về việc mở cửa dịch vụ cho đầu tư nước ngoài được trình bày bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Nội dung này cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phù hợp và những điểm khác biệt trong quy định pháp lý nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ.
Ngô Thị Nguyệt (2008) trong khóa luận tốt nghiệp tại Trường Đại học Ngoại thương đã phân tích thực trạng và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam dưới hình thức liên doanh Tác giả chỉ ra những thách thức và cơ hội trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhằm nâng cao hiệu quả và thu hút nhiều hơn nguồn vốn nước ngoài.
Thẩm quyền xin chấp thuận chủ trương đầu tư thuộc về ba cơ quan: Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tùy thuộc vào tính chất dự án Các dự án quan trọng sẽ do Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định, trong khi các dự án liên quan đến sử dụng đất hoặc công nghệ hạn chế chuyển giao sẽ thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh.
Góp vốn vào doanh nghiệp đã thành lập của nhà đầu tư nước ngoài
Theo quy định pháp luật hiện hành, việc góp vốn vào doanh nghiệp bao gồm hai hình thức: góp vốn để thành lập doanh nghiệp và góp thêm vốn điều lệ vào doanh nghiệp đã được thành lập Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta sẽ tập trung phân tích việc góp vốn vào doanh nghiệp đã thành lập từ nhà đầu tư nước ngoài.
2.2.1 Hình thức góp vốn vào doanh nghiệp đã thành lập của nhà đầu tư nước ngoài
Theo quy định của pháp luật hiện hành, NĐTNN được góp vốn vào doanh nghiệp đã thành lập dưới các hình thức sau:
Để trở thành cổ đông của CTCP, nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) có thể mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm Hành động này lý thuyết biến công ty thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, trên thực tế thị trường chứng khoán, việc NĐTNN đầu tư vào công ty đại chúng niêm yết không nhất thiết khiến công ty đó trở thành doanh nghiệp có vốn ĐTNN, vì tình trạng cổ đông có thể thay đổi từ NĐT trong nước sang NĐTNN tùy thuộc vào giao dịch mua bán.
Trong bài khóa luận tốt nghiệp của Trần Thịnh Phát (2019) tại Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã phân tích về ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và những điều kiện cần thiết để thực hiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam Nội dung này được trình bày chi tiết trên trang 37 của luận văn.
70 Điều 6 và Điều 7 Thông tư 06/2019/TT-NHNN về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
71 Điều 4.13 của Luật Doanh nghiệp 2014
Việc nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua bán trên thị trường chứng khoán đã dẫn đến tình trạng 26% cổ phần thuộc về khối ngoại Nếu áp dụng một cách cứng nhắc quan niệm rằng doanh nghiệp có một đồng vốn góp từ nước ngoài cũng được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều này sẽ gây khó khăn cho các công ty niêm yết và các công ty đã đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Góp vốn vào công ty TNHH và công ty hợp danh là hình thức tăng vốn điều lệ, tuy nhiên, việc góp vốn vào công ty TNHH một thành viên chỉ có thể thực hiện khi công ty chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần Đối với công ty hợp danh, nhà đầu tư nước ngoài có thể trở thành thành viên góp vốn mới hoặc thành viên hợp danh nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận Tuy nhiên, do thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân đối với nghĩa vụ của công ty, nên thực tế, việc nhà đầu tư nước ngoài tham gia góp vốn vào công ty hợp danh để trở thành thành viên hợp danh là khá hiếm.
Góp vốn vào tổ chức kinh tế khác hiện vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng, đặc biệt là việc xác định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phải là tổ chức kinh tế hay không Hiện tại, việc xác định này chủ yếu dựa vào Luật đất đai 2013, mặc dù đây không phải là văn bản quản lý kinh tế chính thức như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Thương mại 2005 hoặc Luật Đầu tư.
Năm 2014, sau khi xem xét các văn bản pháp luật, chúng tôi nhận thấy đây là văn bản duy nhất quy định cụ thể về nội dung này Cụ thể, khoản 27 Điều 3 của luật này đã chỉ rõ các quy định liên quan.
Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật dân sự, ngoại trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, khái niệm "tổ chức kinh tế khác" vẫn chưa được làm rõ trong cả Bộ luật dân sự 2005 và 2015, khi không có quy định cụ thể nào về định nghĩa này, mà chỉ đưa ra những nội dung chung chung Đặc biệt, việc loại trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể phản ánh quan điểm của nhà làm luật rằng tổ chức kinh tế chủ yếu phục vụ cho hoạt động quản lý nội bộ của nhà nước Việt Nam, dẫn đến việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được coi là tổ chức kinh tế và không được phép góp vốn.
Mekophar đã trải qua một câu chuyện thú vị về việc chuyển nhượng cổ phiếu bị hủy niêm yết, mang đến cái nhìn sâu sắc về thị trường chứng khoán Bài viết của Hàn Tín (2012) trên trang Đầu tư chứng khoán đã phân tích những diễn biến quan trọng trong quá trình này, giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại , truy cập ngày 07.4.2020.
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, và phần vốn góp trong các công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh Theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, không có giới hạn nào đối với việc nhà đầu tư nước ngoài tham gia góp vốn vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.2 Quy trình thực hiện góp vốn vào doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài
Khi nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) muốn góp vốn vào doanh nghiệp, họ cần đáp ứng các điều kiện về chủ thể, ngành nghề đầu tư kinh doanh và tỷ lệ sở hữu vốn Đặc biệt, pháp luật hiện hành không yêu cầu NĐTNN phải cấp Giấy chứng nhận đầu tư (IRC) khi thực hiện hình thức góp vốn Tuy nhiên, nếu việc góp vốn vào tổ chức kinh tế thuộc ngành nghề có điều kiện hoặc dẫn đến NĐTNN nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên, NĐTNN phải thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn trước khi thay đổi thành viên hoặc cổ đông theo quy định của pháp luật doanh nghiệp.
2.2.2.1 Thủ tục đăng ký góp vốn vào doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài
Luật Đầu tư 2005 và các văn bản liên quan quy định rằng nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện thủ tục đầu tư khi muốn góp vốn vào doanh nghiệp, nhưng không nêu rõ quy trình cụ thể Đến Luật Đầu tư 2014 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành, đã có quy định chi tiết về các bước cần thực hiện để đầu tư theo hình thức góp vốn vào doanh nghiệp.
Bước đầu tiên trong quy trình đầu tư là thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn vào doanh nghiệp, đặc biệt là trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) tham gia vào doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh có điều kiện hoặc khi tỷ lệ sở hữu của NĐTNN đạt từ 51% trở lên Mặc dù lý thuyết chỉ yêu cầu thực hiện thủ tục này trong hai trường hợp trên, nhưng thực tế có thể có những yêu cầu bổ sung khác.
Bài luận văn thạc sĩ của Ngô Gia Hoàng (2017) tập trung vào quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất Nghiên cứu này được thực hiện tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, nhằm làm rõ những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
74 Điểu 46.1 Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu tư 2014
Bài viết của Thanh Thảo – Bùi Thị Thanh Thảo (2016) tổng hợp nội dung hội thảo khoa học về Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014, nhấn mạnh những đổi mới quan trọng nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh Tạp chí đã trình bày chi tiết những cải cách này, góp phần thúc đẩy môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Khoa học pháp lý Việt Nam, số 01 (95), tr.3-8