LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT
Khái quát chung về hoạt động mua bán nợ của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
1.1.1 Khái niệm về hoạt động mua bán nợ
Theo Điều 3 khoản 1 Quy chế mua bán nợ của các TCTD (Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN), mua bán nợ được định nghĩa là quá trình chuyển nhượng khoản nợ, trong đó bên bán chuyển giao quyền chủ nợ cho bên mua và nhận thanh toán từ bên mua.
Quyền đòi nợ là một dạng của quyền tài sản được quy định tại Điều 322 khoản
Theo Bộ Luật Dân sự năm 2005, mua bán nợ được hiểu là việc chuyển nhượng quyền đòi nợ, coi đây là một trường hợp đặc biệt của việc chuyển giao quyền yêu cầu Trong giao dịch này, bên bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu quyền đòi nợ cho bên mua, và bên mua sẽ thanh toán cho bên bán để nhận quyền đòi nợ Tuy nhiên, quy định hiện hành chưa đề cập rõ ràng đến nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu quyền đòi nợ từ bên bán sang bên mua.
Theo Điều 3 khoản 1 Thông tư 09/2015/TT-NHNN ngày 17/07/2015 Quy định về Hoạt động mua, bán nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì:
Mua, bán nợ là thỏa thuận bằng văn bản chuyển giao quyền đòi nợ từ bên bán nợ sang bên mua nợ, liên quan đến các khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho vay hoặc bảo lãnh Trong giao dịch này, bên bán nợ sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán Khái niệm này làm rõ bản chất của hoạt động mua bán nợ, nhấn mạnh việc chuyển giao quyền sở hữu và thanh toán giữa các bên.
Hoạt động mua bán nợ của VAMC là thỏa thuận giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và VAMC, trong đó bên bán nợ chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ Đồng thời, bên bán nợ cũng nhận thanh toán từ bên mua nợ Việc chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ đi kèm với việc chuyển giao tài sản bảo đảm và các quyền, lợi ích khác liên quan.
1 Lê Trọng Dũng (2015), “Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường mua bán nợ”, Tạp chí Ngân hàng, Số
VAMC sẽ tiến hành 5 biện pháp phát mại tài sản bảo đảm, khởi kiện bên nợ và yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ Sau khi mua nợ, VAMC trở thành chủ nợ mới và thực hiện các phương án xử lý nợ xấu hiệu quả.
1.1.2 Đặc điểm về hoạt động mua bán nợ của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
Hoạt động mua bán nợ của VAMC có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể của hoạt động mua bán nợ của VAMC bao gồm hai chủ thể
VAMC và các TCTD tham gia vào quá trình "cố định" với VAMC là bên mua nợ và các TCTD là bên bán nợ Khi thương vụ mua bán nợ hoàn tất, VAMC sẽ trở thành chủ nợ mới của bên nợ.
Trong hoạt động mua bán nợ, đối tượng chính là các khoản nợ xấu mà khách hàng vay còn nợ các tổ chức tín dụng (TCTD) Bản chất của những khoản nợ này là quyền đòi nợ, được xem như một loại quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Phương thức thanh toán trong hoạt động mua bán nợ của VAMC rất đặc biệt Khi mua nợ theo giá trị ghi sổ, VAMC thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) Ngược lại, đối với việc mua nợ theo giá trị thị trường, VAMC sử dụng trái phiếu để thanh toán TPĐB và trái phiếu được các tổ chức tín dụng (TCTD) sử dụng để vay tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Ngoài ra, trái phiếu cũng có thể được dùng trong các nghiệp vụ thị trường mở hoặc chuyển nhượng giữa các TCTD.
VAMC hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với bản chất là doanh nghiệp thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Được thành lập nhằm xử lý nợ xấu, VAMC góp phần làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Sau khi hoàn tất giao dịch mua bán nợ vào thứ năm, VAMC có thể ủy quyền cho các TCTD thực hiện một số quyền như thu hồi nợ, bán nợ, xử lý tài sản bảo đảm, cơ cấu lại khoản nợ, và chuyển nợ thành vốn góp hoặc cổ phần của khách hàng vay Quy định này giúp TCTD tận dụng thông tin chính xác về khách hàng và tình hình tài chính, từ đó tối ưu hóa hoạt động thu hồi và xử lý nợ xấu.
1.1.3 Các phương thức mua nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18/05/2013 2 , thì VAMC được phép mua bán nợ xấu dưới hai hình thức sau:
1.1.3.1 Mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt do Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam phát hành
VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt (TPĐB) nhằm mua lại các khoản nợ xấu từ các tổ chức tín dụng (TCTD) TPĐB có thể được phát hành dưới dạng chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, với mệnh giá tương ứng giá mua của khoản nợ xấu Được phát hành bằng đồng Việt Nam, TPĐB có lãi suất 0% và thời hạn tối đa 5 năm, có thể kéo dài đến 10 năm trong trường hợp đặc biệt, đồng thời được sử dụng để vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
VAMC đã phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo phương án được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phê duyệt NHNN quy định rõ ràng về việc tái cấp vốn dựa trên trái phiếu doanh nghiệp và trình Thủ tướng Chính phủ để quyết định mức lãi suất cho vay tái cấp vốn.
TCTD cần trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) hàng năm cho TPĐB vào chi phí hoạt động trong suốt thời gian tồn tại của TPĐB, nhằm tạo nguồn xử lý nợ xấu khi mua lại các khoản nợ xấu từ VAMC.
TCTD có trách nhiệm mua lại các khoản nợ xấu từ VAMC trước khi trái phiếu đến hạn, hoặc sử dụng trái phiếu để mua lại các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua nhưng chưa xử lý hoặc thu hồi toàn bộ khi trái phiếu đến hạn.
1.1.3.2 Mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn không phải Trái phiếu đặc biệt
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM (VAMC)
Phương thức mua nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
VAMC hiện đang áp dụng hai phương thức mua nợ, mỗi phương thức đều có những ưu và nhược điểm riêng Việc lựa chọn phương thức nào sẽ phụ thuộc vào từng thời kỳ và hoàn cảnh cụ thể, nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình hình chung của hệ thống tài chính và nền kinh tế vĩ mô Những quy định này đóng vai trò nền tảng trong hoạt động mua bán nợ của VAMC.
2.1.1 Mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt do Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam phát hành
Trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, việc mua bán nợ xấu bằng trái phiếu doanh nghiệp (TPĐB) là một giải pháp sáng tạo và khả thi, không sử dụng ngân sách Nhà nước Các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể sử dụng TPĐB để xin tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước, từ đó tiếp tục cấp tín dụng và làm sạch bảng cân đối kế toán Phương thức này giúp TCTD giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) ngay lập tức, với thời hạn trích lập kéo dài trong 5 năm cho các khoản nợ xấu Trong thời gian này, TCTD sẽ phân bổ việc trích lập DPRR, trong khi giá trị tài sản bảo đảm chủ yếu là bất động sản có khả năng phục hồi và tăng giá trị, đảm bảo khả năng phát mãi tài sản để thu hồi nợ.
Trong bối cảnh VAMC mới thành lập và năng lực tài chính còn hạn chế, trái phiếu đặc biệt (TPĐB) được coi là một "giải pháp tình thế" để nhanh chóng xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Tuy nhiên, thực tế cho thấy phương thức mua bán nợ bằng TPĐB gặp nhiều bất cập.
29 Tô Ngọc Hưng (2015), “Ngành ngân hàng với nhiệm vụ xử lý nợ xấu, nhìn lại giai đoạn 2011-2014 và một số kiến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, Số 3+4 tháng 2/2015, tr 33
30 Nguyễn Văn Thịnh (2014), Pháp luật về mua bán nợ của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành, Luận văn thạc sĩ luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật Tp Hồ Chí Minh, tr 46
Theo tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, TPĐB không phải là trái phiếu mà chỉ là "giấy nợ" của VAMC với TCTD khi TCTD bán nợ cho VAMC TPĐB không thể chuyển nhượng hay giao dịch trên thị trường chứng khoán vì không được bảo lãnh từ Chính phủ hay NHNN Khi TPĐB đến hạn, nếu khoản nợ chưa thu hồi đầy đủ, TCTD phải thanh toán TPĐB và mua lại nợ xấu từ VAMC Hoạt động mua bán nợ của VAMC là mua nợ có truy đòi trong vòng 5 năm Nếu VAMC không xử lý được nợ xấu, khi đến hạn TPĐB, họ chỉ cần "trả lại" nợ xấu cho TCTD, dẫn đến tình trạng nợ xấu chạy vòng mà VAMC không chịu trách nhiệm về rủi ro liên quan.
Việc "mua nợ trong 5 năm" và nguyên tắc hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận đã khiến VAMC thiếu động lực trong việc xử lý nợ xấu, trong khi các TCTD lại có động lực rõ ràng để thu hồi nợ nhằm tránh việc nợ xấu quay về sau 5 năm Kết quả là, nợ xấu mà VAMC mua vẫn chưa được giải quyết hiệu quả Các TCTD vẫn phải gánh vác trách nhiệm lớn trong việc xử lý nợ, dẫn đến tăng chi phí hoạt động mặc dù đã bán nợ cho VAMC Thực tế, phương thức này chỉ hỗ trợ các TCTD tự xử lý nợ xấu, khiến vai trò của VAMC trở nên mờ nhạt và không đáp ứng được kỳ vọng.
VAMC có thể được coi như một "kho lưu giữ nợ xấu" cho các TCTD, nơi mà nợ xấu tạm thời được chuyển giao để cải thiện bảng kế toán của các TCTD Điều này giúp kéo dài thời gian trích lập dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu, tạo điều kiện cho TCTD thu hồi nợ và bù đắp lỗ dự kiến từ các nguồn thu nhập khác Hy vọng rằng trong vòng 5 năm tới, tình hình kinh tế sẽ có sự chuyển biến tích cực Cần lưu ý rằng đây không phải là quan hệ mua bán thực sự, mà VAMC chỉ là chủ sở hữu tạm thời của khoản nợ trong thời hạn 5 năm của trái phiếu đặc biệt Sau khi trái phiếu đến hạn, nếu VAMC và TCTD vẫn
Trái phiếu đặc biệt của VAMC đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ xấu tại Việt Nam Công cụ tài chính này giúp các ngân hàng tái cấu trúc khoản nợ, cải thiện tình hình tài chính và tăng cường khả năng thanh khoản Việc phát hành trái phiếu đặc biệt không chỉ hỗ trợ các tổ chức tín dụng mà còn góp phần ổn định hệ thống ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
32 Đào Thị Hồ Hương (2012), “Những vấn đề cần chú ý trong việc xử lý nợ xấu tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Số 11 tháng 6/2012, tr 33
33 Nguyễn Đắc Hưng (2014), “Quan điểm và giải pháp xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng, Số 21 tháng 11/2014, tr 17
19 chưa xử lý nợ được thì nợ xấu sẽ “quay lại” với các TCTD, khi đó nợ xấu sẽ trở thành “rất xấu” 34 , không thể xử lý được
Mặc dù đã bán nợ cho VAMC, các TCTD vẫn phải liên tục trích lập DPRR cho TPĐB hàng năm, điều này ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận và hoạt động kinh doanh của họ, đồng thời hạn chế tăng trưởng tín dụng chung của hệ thống Việc trích lập DPRR chưa được thực hiện hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh nhiều TCTD gặp khó khăn Chi phí xử lý nợ xấu tăng cao do phải huy động nguồn lực để tự xử lý nợ đã bán và trả phí cho VAMC, dẫn đến việc các TCTD phải chuyển gánh nặng này cho khách hàng Do đó, doanh nghiệp và cá nhân phải vay với lãi suất cao, khó tiếp cận vốn, trong khi người gửi tiền nhận lãi suất thấp Điều này gây khó khăn trong việc đạt mục tiêu giảm lãi suất cho vay xuống 5%/năm và tăng lãi suất tiền gửi Thêm vào đó, TPĐB không thể giải quyết triệt để nợ xấu, làm tăng chi phí hoạt động của VAMC nếu quá trình xử lý nợ kéo dài.
Việc mua bán nợ hiện nay chỉ là hình thức tái cấp vốn thô sơ từ NHNN, nhằm "bơm tiền" vào nền kinh tế để xử lý 36 nợ xấu, nhưng điều này tiềm ẩn rủi ro lớn cho nền kinh tế, đặc biệt là vấn đề lạm phát trong tương lai Phương thức này cho phép VAMC mua nợ theo giá trị sổ sách mà không có thương lượng, mang tính chất hành chính và không xem xét khả năng thu hồi từ tài sản bảo đảm, dẫn đến việc phương thức này không được đánh giá cao do chứa đựng nhiều rủi ro.
Mặc dù nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã giảm xuống dưới 3% nhờ vào việc các TCTD cơ cấu lại khoản nợ, trích lập DPRR và bán nợ xấu cho VAMC, nhưng thực tế số nợ xấu này chỉ bị "che đậy" tạm thời mà không được cải thiện thực chất Việc VAMC mua nợ xấu bằng TPĐB chưa tạo ra sự thỏa mãn cho các bên liên quan và không giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu Tình hình tài chính hiện tại của VAMC vẫn chưa cho phép tổ chức này thực hiện các biện pháp hiệu quả để xử lý nợ xấu.
34 Trang Lê (2013), “Hậu VAMC: Nợ xấu biến mất hay biến chất”, Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, Số tháng 3/2013, tr 32
35 Nguyễn Đình Cung (2016), “Tái cơ cấu kinh tế những năm qua và một số định hướng cho giai đoạn 2016- 2020”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 01 tháng 01/2016, 1, tr 17
VAMC chủ yếu xử lý nợ xấu thông qua việc bơm tiền vào nền kinh tế Hành động này nhằm cải thiện tình hình tài chính và giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng Việc bơm tiền được xem là một trong những biện pháp chính để giải quyết nợ xấu, mặc dù còn nhiều tranh cãi về hiệu quả và tính bền vững của nó.
Chức năng này thực hiện mua bán nợ theo cơ chế thị trường, nhằm giải quyết tạm thời tình trạng nợ xấu đang nghiêm trọng tại Việt Nam Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp lâu dài Các bất cập hiện tại có thể được khắc phục thông qua những phương án thích hợp.
Để cải thiện tình hình nợ xấu, cần hạn chế việc mua bán nợ bằng trái phiếu doanh nghiệp (TPĐB) và chuyển dần sang cơ chế thị trường Đồng thời, cần có lộ trình tăng vốn cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) để VAMC có thể thực hiện hiệu quả hoạt động mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường.
VAMC cần nhanh chóng phân loại các khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu doanh nghiệp để tiến hành bán hoặc phát mại tài sản bảo đảm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước Đặc biệt, VAMC có thể sử dụng “tiền mặt” để mua lại các khoản nợ xấu này theo giá thị trường.
Cơ chế phối hợp giữa Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam và tổ chức tín dụng
Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động mua bán nợ quy định rằng trong giao dịch giữa Công ty Quản lý tài sản và tổ chức tín dụng, tất cả quyền lợi liên quan đến khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm và các biện pháp bảo đảm khác sẽ được bên bán giữ nguyên và chuyển giao cho bên mua theo hợp đồng Về mặt pháp lý, bên bán sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cho bên mua, và bên mua sẽ thanh toán tiền để trở thành chủ sở hữu mới của tài sản đó.
53 Theo phần B, mục III, tiểu mục 2, điểm c Quyết định 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 về Phê duyệt Đề án
Việc xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng cần sử dụng nguồn tiền thu từ cổ phần hóa để tăng cường năng lực cho DATC Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho DATC trong việc chủ động tham gia vào quá trình tái cơ cấu tài chính, nhằm xử lý nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và các tổ chức tín dụng.
54 “Vay tiền nước ngoài cứu nợ xấu ngân hàng?”, http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh /175850/ vay-tien- nuoc-ngoai-cuu-no-xau-ngan-hang.html, truy cập ngày 29/5/2016
Xử lý nợ xấu đang là một vấn đề cấp bách trong nền kinh tế hiện nay, với sự xuất hiện của các "cục máu đông" trong hệ thống tài chính Các chuyên gia đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện tình hình nợ xấu, bao gồm việc tăng cường quản lý rủi ro và cải thiện quy trình thu hồi nợ Việc áp dụng các biện pháp này không chỉ giúp ổn định thị trường tài chính mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững trong tương lai.
VEPR khuyến nghị tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nhằm huy động nguồn vốn cho VAMC trong việc xử lý nợ xấu Việc này không chỉ giúp cải thiện tình hình tài chính của các DNNN mà còn tạo điều kiện cho VAMC có đủ nguồn lực để giải quyết vấn đề nợ xấu hiệu quả hơn Cổ phần hóa DNNN được coi là một giải pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Điều 7 khoản 1 của Thông tư 09/2015/TT-NHNN, ban hành ngày 17/07/2015, quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản thuộc các tổ chức tín dụng Việt Nam, được phê duyệt bởi thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trong hoạt động mua bán nợ của VAMC, tổ chức này trở thành chủ nợ mới, nắm quyền xử lý nợ xấu theo quy định pháp luật Tuy nhiên, thực tế cho thấy VAMC thường "ủy quyền" cho TCTD thực hiện một số quyền năng như thu hồi nợ, xử lý và bán nợ, cũng như quản lý khoản nợ xấu đã mua TCTD sẽ thực hiện các biện pháp như cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, và giám sát tài sản bảo đảm liên quan đến khoản nợ xấu, đồng thời báo cáo định kỳ cho VAMC Sự ủy quyền này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, phản ánh thực trạng trong việc xử lý nợ xấu hiện nay.
Tổ chức tín dụng (TCTD) là đối tác hợp tác với khách hàng vay từ giai đoạn đầu, giúp họ hiểu rõ tình hình hoạt động và khả năng tài chính của khách hàng Với tiềm lực tài chính mạnh mẽ, cơ cấu tổ chức hoàn thiện và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, TCTD có khả năng xử lý tài sản và thu hồi nợ hiệu quả.
VAMC, mặc dù mới thành lập, đang đối mặt với nhiều thách thức do mô hình tổ chức chưa hoàn thiện và thiếu hụt đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm Điều này dẫn đến việc VAMC thường “đẩy ngược trách nhiệm” cho các TCTD trong việc xử lý nợ xấu, cho thấy sự chưa tách bạch giữa chủ thể mua nợ và chủ thể bán nợ Các TCTD vẫn giữ trách nhiệm chính trong việc xử lý nợ, mặc dù đã bán cho VAMC, khiến cho sự phối hợp giữa hai bên còn lỏng lẻo và không đồng bộ Động lực thu hồi nợ của TCTD rất cao, vì khi đáo hạn TPĐB, nợ xấu có thể quay trở lại chính họ.
VAMC đang gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm, đặc biệt là trong việc cơ cấu lại các khoản nợ mua bằng trái phiếu đặc biệt, cần sự đồng ý từ các tổ chức tín dụng, mặc dù luật pháp đã trao quyền cho VAMC thực hiện Hơn nữa, việc phát mại tài sản cũng phụ thuộc vào sự hợp tác của các tổ chức tín dụng, vì nếu giá trị thu về quá thấp sẽ gây thiệt hại.
Bài viết của Nguyễn Thị Thu Thu, Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Ngọc Linh (2014) trên Tạp chí Ngân hàng phân tích hoạt động mua bán nợ của VAMC trong thời gian qua, nêu rõ thực trạng và đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động này Nội dung bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình nợ xấu và các giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả xử lý nợ, góp phần ổn định hệ thống ngân hàng.
VAMC muốn chủ động trong việc xử lý nợ xấu và chia sẻ gánh nặng với các TCTD, nhưng gặp khó khăn do thiếu quyền lực thực hiện các biện pháp cần thiết Để khắc phục, VAMC thường ủy quyền cho các TCTD thực hiện các hoạt động xử lý nợ xấu và quản lý tài sản bảo đảm Tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình này.
Để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, VAMC cần xây dựng mô hình hoạt động chuyên nghiệp hơn, tập trung vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực thẩm định và đấu giá tài sản Sự đầu tư này sẽ giúp VAMC củng cố tiềm lực và sức mạnh cần thiết để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả.
Để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành lập các AMC chuyên xử lý nợ Các AMC này hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng VAMC không có thời hạn cụ thể, dẫn đến việc thiếu áp lực trong việc xử lý nợ xấu một cách nhanh chóng và hiệu quả Do đó, NHNN cần quy định thời gian hoạt động cụ thể cho VAMC nhằm tăng cường sự tích cực trong xử lý nợ xấu, chia sẻ trách nhiệm với các TCTD và đảm bảo quá trình này được thúc đẩy toàn diện.
Để nâng cao vai trò và vị thế của VAMC, cần hoàn thiện các quy định pháp luật cho phép VAMC có toàn quyền xử lý nợ xấu, đặc biệt là khắc phục những vướng mắc trong việc xử lý tài sản bảo đảm Điều này giúp VAMC trở thành một chủ nợ thực sự, có khả năng thực thi quyền lợi của mình một cách thuận lợi, thay vì chỉ là một "chủ nợ trên giấy tờ".
Ghi nhận thỏa thuận “chia sẻ lợi nhuận hoặc thua lỗ” giữa các TCTD và VAMC trong quá trình đàm phán mua bán nợ theo cơ chế thị trường giúp giảm bớt gánh nặng xử lý nợ xấu cho TCTD Trách nhiệm xử lý nợ xấu được chia sẻ giữa hai bên, tạo động lực cho cả VAMC và TCTD hợp tác chặt chẽ hơn Sự phối hợp này không chỉ nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực tài chính.
Biện pháp xử lý nợ xấu
Sau khi hợp đồng mua bán nợ được ký kết, VAMC sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để xử lý nợ xấu Việc xử lý nợ xấu là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong quá trình này và cũng là những quy định cốt lõi trong hoạt động quản lý nợ.
Theo Điều 16 Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013, VAMC có quyền thực hiện nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu Các biện pháp này được quy định rõ nhằm giúp VAMC quản lý và xử lý hiệu quả tình trạng nợ xấu trên thị trường.
1 Thực hiện các quyền của chủ nợ, bên nhận bảo đảm đối với khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm nhằm thu hồi nợ, tài sản bảo đảm
2 Tổ chức đôn đốc, yêu cầu trả nợ, thu nợ từ khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ và bên bảo đảm
3 Thực hiện cơ cấu lại khoản nợ xấu, hỗ trợ khách hàng vay theo quy định tại Điều
4 Thỏa thuận với khách hàng vay về việc chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần để tham gia cơ cấu lại tài chính và hoạt động của khách hàng vay
5 Thu nợ bằng nhận chính tài sản bảo đảm của khoản nợ; thu hồi, thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật
6 Bán nợ cho các tổ chức, cá nhân Việc bán nợ cho các tổ chức, cá nhân là người không cư trú được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
7 Khởi kiện hoặc ủy quyền hoặc chuyển giao quyền cho tổ chức tín dụng bán nợ khởi kiện khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm ra Tòa án; ủy quyền hoặc chuyển giao quyền cho tổ chức tín dụng bán nợ thực hiện quyền và trách nhiệm của Công ty Quản lý tài sản trong thi hành án
8 Nộp đơn yêu cầu Tòa án tiến hành các thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ và đối với bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
Trong phần này, tác giả sẽ làm rõ các biện pháp tái cấu trúc khoản nợ xấu, bao gồm chuyển đổi nợ thành vốn góp hoặc vốn cổ phần để hỗ trợ việc tái cấu trúc tài chính và hoạt động của khách hàng vay Đồng thời, tác giả cũng sẽ đề cập đến việc xử lý tài sản bảo đảm và các hành động pháp lý như khởi kiện hoặc ủy quyền cho tổ chức tín dụng trong việc thu hồi nợ từ khách hàng vay và bên bảo đảm Các biện pháp bán nợ cho tổ chức hoặc cá nhân khác sẽ được phân tích chi tiết hơn trong mục 2.4.
2.3.1 Biện pháp cơ cấu lại khoản nợ xấu
Theo quy định pháp luật, VAMC có thể thực hiện các biện pháp cơ cấu lại khoản nợ xấu, bao gồm điều chỉnh kỳ hạn và thời hạn trả nợ để phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh của khách hàng Đồng thời, VAMC cũng áp dụng lãi suất cho khoản nợ đã mua sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng vay.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) hiện đang áp dụng nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu, trong đó có việc giảm hoặc miễn lãi suất cho khách hàng vay gặp khó khăn trong việc trả nợ Đối với những khách hàng có khả năng phục hồi sản xuất, TCTD sẽ cơ cấu lại khoản nợ và tiếp tục cấp tín dụng để hỗ trợ họ Ngược lại, với những khách hàng không có khả năng trả nợ, TCTD sẽ tiến hành bán nợ xấu cho VAMC hoặc DATC, hoặc phát mãi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Biện pháp này ở một khía cạnh khác là một công cụ để các TCTD “che lấp”,
Nhiều khách hàng vay tại các TCTD đã được cơ cấu lại nợ bằng cách điều chỉnh kỳ hạn và thời hạn trả nợ nhiều lần, dẫn đến việc các khoản nợ vẫn thuộc nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3, tức là chuyển từ nhóm có rủi ro cao sang nhóm có rủi ro thấp hơn “về mặt sổ sách” Điều này giúp TCTD giảm áp lực trong việc giải quyết nợ xấu và hạ mức độ trích lập DPRR, nhưng cũng làm cho thông tin về các khoản nợ trở nên méo mó và không chính xác, gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực trong tương lai Tỷ lệ nợ xấu thực tế được che lấp qua biện pháp này được đánh giá là còn cao hơn so với các số liệu công bố của từng TCTD.
Sau khi nợ xấu được chuyển giao cho VAMC, việc tái cấu trúc khoản nợ trở thành một giải pháp quan trọng mà VAMC và TCTD thường xuyên thảo luận để áp dụng cho những khách hàng vay tiềm năng Trong bối cảnh các biện pháp khác chưa mang lại hiệu quả hoặc tốn nhiều thời gian và chi phí, việc cơ cấu lại nợ là cần thiết để cải thiện tình hình tài chính.
Tính đến ngày 01/09/2014, VAMC đã phân loại 145 khoản nợ với tổng dư nợ 14.785 tỷ đồng và đang cơ cấu lại nợ cho 123 khách hàng vay có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh, với tổng dư nợ gốc 9.685 tỷ đồng Mức lãi suất điều chỉnh cho các khoản nợ sau khi cơ cấu lại hiện tại là 10,7%/năm VAMC và các TCTD đang phân tích, đánh giá tính khả thi của các dự án của khách hàng có nợ xấu để xem xét hỗ trợ cho vay tiếp tục triển khai dự án Đến nay, VAMC và các TCTD đã ký hạn mức cho vay hàng ngàn tỷ đồng và giải ngân được 450 tỷ đồng.
Điều 17 khoản 1 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP quy định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam, nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả tài sản và tăng cường ổn định cho hệ thống tài chính Nghị định này đặt ra các tiêu chí rõ ràng cho việc thành lập công ty, tổ chức bộ máy quản lý và quy trình hoạt động, giúp nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm trong lĩnh vực quản lý tài sản.
31 xét và ủy quyền cho TCTD miễn giảm lãi hàng trăm tỷ đồng cho khách hàng 60
VAMC hiện chưa thể chủ động cơ cấu lại khoản nợ và miễn giảm lãi suất cho khách hàng vay do thiếu sự thống nhất từ các tổ chức tín dụng (TCTD), vì biện pháp này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của họ, đặc biệt là với các dự án lớn có lãi suất phải thu cao Do đó, cần có kế hoạch mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường, cho phép VAMC mua đứt các khoản nợ xấu và tiến hành cơ cấu lại khoản nợ cho khách hàng một cách hiệu quả hơn.
2.3.2 Biện pháp chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần để tham gia cơ cấu lại tài chính và hoạt động của khách hàng vay
Thị trường mua bán nợ
Hoạt động mua bán nợ là hoạt động mua bán với một loại hàng hóa đặc biệt là
Quyền đòi nợ là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam, nơi có sự tham gia của nhiều chủ thể đa dạng như VAMC, DATC, các AMC của các TCTD, và các doanh nghiệp cùng cá nhân có nhu cầu mua nợ Sự tồn tại của người bán và người mua tạo ra mối quan hệ cung cầu, dẫn đến sự hình thành thị trường mua bán nợ tại Việt Nam như một yếu tố tất yếu trong nền kinh tế.
Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia cho thấy, mua bán nợ là giải pháp quan trọng giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng Thị trường mua bán nợ đóng vai trò lớn trong việc xử lý nợ xấu, thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hoạt động này Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính, từ đó cải thiện tình hình tài chính của họ.
Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam hiện vẫn chưa phát triển mạnh mẽ, hoạt động còn kém sôi nổi và các yếu tố của thị trường vẫn còn ở giai đoạn sơ khai.
Tình trạng nợ xấu tại Việt Nam hiện nay vẫn còn "không rõ ràng và khá phức tạp" do nhiều rào cản pháp lý và khung pháp lý chưa hoàn chỉnh Việc thiếu một thị trường mua bán nợ đã gây khó khăn cho VAMC trong việc xử lý các khoản nợ xấu Ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch hội đồng thành viên VAMC, cho biết rằng ngay cả khi có nguồn vốn thực để xử lý nợ xấu, việc giải quyết triệt để tình hình này vẫn gặp nhiều trở ngại vì thị trường mua bán nợ vẫn chưa được hình thành.
2.4.1 Thực trạng thị trường mua bán nợ Việt Nam
79 Lưu Hồng Hạnh (2014), Phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng Tp Hồ Chí Minh, tr 34
80 “Có “tiền tươi” chưa chắc đã xử lý hết nợ xấu?”, http://sbvamc.vn/23110-2/, truy cập ngày 15/06/2016
Để hình thành thị trường mua bán nợ, cần có các yếu tố cơ bản như hàng hóa đặc biệt là các khoản nợ, bên bán và bên mua nợ Ngoài ra, các yếu tố hỗ trợ thị trường như các định chế tài chính trung gian (bên môi giới, tư vấn, trung gian, bên định giá) và cơ quan quản lý, điều hành thị trường cũng rất quan trọng.
Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam có tiềm năng lớn, ước tính lên đến hàng chục tỷ USD trong nền kinh tế VAMC và DATC chủ yếu mua nợ từ các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong khi việc mua bán nợ từ doanh nghiệp tư nhân vẫn rất hạn chế Mặc dù nguồn cung hàng hóa phong phú, nguồn gốc của các khoản nợ chủ yếu tập trung từ DNNN và TCTD, dẫn đến sự thiếu đa dạng trong thị trường này.
Bên bán nợ "sơ cấp" trong hoạt động mua bán nợ của VAMC là các TCTD Sau khi tiếp nhận nợ, VAMC có khả năng bán lại khoản nợ này cho tổ chức hoặc cá nhân khác nhằm thu hồi vốn, trở thành bên bán nợ "thứ cấp" Tuy nhiên, từ khi thành lập đến nay, VAMC chưa thực hiện biện pháp này do những hạn chế của thị trường mua bán nợ hiện tại.
Theo quy định pháp luật hiện hành, VAMC gặp khó khăn trong việc bán lại nợ do Luật Đầu tư năm 2014 quy định rằng "Kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện" và Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước năm 2014 yêu cầu doanh nghiệp chỉ được bán nợ cho tổ chức có chức năng kinh doanh mua bán nợ Điều này có nghĩa là VAMC không thể bán nợ xấu cho bên thứ ba nếu bên đó không có giấy phép kinh doanh phù hợp Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam chỉ có thể phát triển khi VAMC có khả năng thuận lợi trong việc bán các khoản nợ cho các chủ thể khác Hiện tại, với tiềm lực của VAMC, việc xử lý toàn bộ nợ xấu đã mua và sẽ mua là một thách thức lớn Kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy việc xây dựng các AMC thành một định chế tài chính trung tâm là cần thiết.
81 Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 09/2014/TT-NHNN ngày 18/03/2014
Trong bài viết "Một số đề xuất cho thị trường mua - bán nợ của Việt Nam" của các tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Thắm và Trần Thị Hoa, được đăng trong Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 02 tháng 01/2016, trang 23, nhóm tác giả đã đưa ra những kiến nghị quan trọng nhằm cải thiện và phát triển thị trường mua - bán nợ tại Việt Nam Các đề xuất này tập trung vào việc nâng cao tính minh bạch, tăng cường khung pháp lý và hỗ trợ các bên liên quan trong giao dịch nợ, từ đó thúc đẩy hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính trong nước.
Để điều chỉnh hoạt động xử lý nợ xấu, nhiều quốc gia đang tìm cách chia sẻ gánh nặng này bằng cách bán lại các khoản nợ Điều này tạo điều kiện cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào quá trình tái cơ cấu khách hàng vay, từ đó nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu.
2.4.1.3 Bên mua nợ Đây là chủ thể rất quan trọng của thị trường Để thị trường mua bán nợ được định hình thì phải có những chủ thể được sinh ra với sứ mệnh là tiến hành hoạt động mua bán nợ Hiện nay, số lượng các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ với tư cách là bên mua nợ “sơ cấp” còn rất ít, khiến cho thị trường khó có thể phát triển sôi nổi Các chủ thể tiến hành hoạt động mua nợ chủ yếu trên thị trường chính là VAMC và DATC Điều này sẽ cản trở sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ Trong hoạt động mua bán nợ của DATC thì mức giá thông thường được DATC đưa ra là từ 35% đến 40% giá trị nợ gốc 83 Theo phương án xử lý nợ xấu năm 2016 của VAMC thì khi tiến hành việc mua bán nợ theo giá thị trường sẽ đưa ra mức giá khoảng từ 5% đến 25% giá trị nợ gốc Trong khi các TCTD thì lại muốn bán với giá cao, đặc biệt là các TCTD thuộc sở hữu Nhà nước do liên quan đến nguồn vốn Nhà nước và trách nhiệm quản lý Sự hạn chế số lượng chủ thể với tư cách bên mua nợ trên thị trường khiến cho bên bán khó có cơ hội đàm phán với các đối tác khác, gây bất lợi trong hoạt động thu hồi vốn, qua đó tác động đến nhu cầu muốn bán nợ của các TCTD
Hiện nay, ngoài VAMC và DATC, có 27 AMC thuộc các TCTD có chức năng mua bán nợ xấu, nhưng hiệu quả hoạt động của các AMC này còn hạn chế, chủ yếu phục vụ cho ngân hàng mẹ và ít tham gia vào hoạt động mua bán nợ bên ngoài Tiềm lực vốn và tài chính của các AMC còn yếu, với chỉ một vài AMC hoạt động tích cực Các doanh nghiệp mua bán nợ tư nhân chưa xuất hiện do các văn bản pháp lý điều chỉnh chỉ mới được ban hành gần đây Hơn nữa, các AMC chỉ quản lý nợ xấu của ngân hàng mẹ, dẫn đến việc các khoản nợ này vẫn tồn tại trong hệ thống ngân hàng mà không được xử lý triệt để Với tiềm lực tài chính hạn chế như VAMC (2.000 tỷ đồng), DATC (trên 2.000 tỷ đồng) và các AMC từ vài chục đến vài trăm tỷ đồng, việc giải quyết nợ xấu sẽ gặp nhiều khó khăn.
83 Nguyễn Thị Thu Thu, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Ngọc Linh (2015), “Xử lý nợ xấu năm 2014 và một số khuyến nghị cho năm 2015”, Tạp chí Ngân hàng, Số 1 tháng 1/2015, tr 37
84 Vũ Công Ty (2012), “Giải pháp nào cho "bài toán" nợ xấu ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, Số 11 (577) năm 2012, tr 21
Hiện nay, hệ thống tài chính đang đối mặt với khối lượng nợ xấu lớn, lên tới 45% Để giải quyết vấn đề này, việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình xử lý nợ xấu là rất cần thiết, dựa trên kinh nghiệm thành công của nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm đến thị trường Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực mua bán nợ, nhưng gặp khó khăn do thiếu khung pháp lý cụ thể Theo ông Sameer Goyal từ Ngân hàng Thế giới, nhiều khoản nợ "xấu" tại Việt Nam lại hấp dẫn đối với nhà đầu tư ngoại, đặc biệt là nợ xấu liên quan đến bất động sản Tuy nhiên, các nhà đầu tư này chỉ có thể gặp gỡ VAMC để tìm hiểu, mà chưa thể thực hiện giao dịch do các quy định pháp luật hiện hành Luật Đất đai năm 2013 cấm doanh nghiệp nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam, trong khi Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 yêu cầu nhà đầu tư phải thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam để tham gia vào thị trường này Do đó, để mua nợ xấu có tài sản bảo đảm là bất động sản, nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện qua hình thức gián tiếp, dẫn đến tốn thời gian và chi phí Hiện tại, chỉ có TCTD, VAMC và DATC được phép mua các khoản nợ này.
Chưa có kế hoạch bán nợ xấu cho các nhà đầu tư nước ngoài, điều này có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính trong nước Việc giữ lại nợ xấu sẽ tạo ra nhiều thách thức cho các ngân hàng, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài đang tìm kiếm cơ hội đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam.
86 Điều 11 khoản 3 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
2.4.1.4 Các yếu tố hỗ trợ thị trường mua bán nợ
Thị trường thông tin về hoạt động mua bán nợ
Để phát triển hoạt động mua bán nợ và thị trường nợ, việc xây dựng kênh thông tin minh bạch là rất quan trọng Nguyên tắc "xử lý nợ xấu phải đảm bảo công khai, minh bạch, theo nguyên tắc thị trường và đúng pháp luật" cần được thực hiện Tuy nhiên, thực tế cho thấy thông tin trong hoạt động mua bán nợ vẫn chưa được công khai đầy đủ và còn nhiều điểm mờ ám, do các tổ chức tín dụng (TCTD) sử dụng các biện pháp như cơ cấu nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ để che giấu thông tin Thông tin cần được hiểu rõ về lịch sử và tình hình nợ để đảm bảo tính minh bạch trong giao dịch.
Đề án Xử lý nợ xấu của hệ thống các Tổ chức tín dụng được ban hành theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm mục tiêu cải thiện tình hình nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Đề án này tập trung vào việc tái cấu trúc các khoản nợ, tăng cường quản lý rủi ro và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động tín dụng Các giải pháp được đưa ra bao gồm việc thành lập Công ty quản lý tài sản, thúc đẩy việc xử lý tài sản đảm bảo và khuyến khích các tổ chức tín dụng hợp tác trong việc giải quyết nợ xấu.
Tình trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đang gây lo ngại khi có sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ nợ xấu do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố và các Tổ chức tín dụng (TCTD) báo cáo Cụ thể, vào ngày 01/04/2014, NHNN công bố tỷ lệ nợ xấu là 7%, trong khi các ngân hàng chỉ ghi nhận từ 3,6% đến 3,9% Sự không nhất quán này cho thấy vấn đề nghiêm trọng về thị trường thông tin nợ xấu Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu theo đánh giá của các định chế tài chính quốc tế còn cao hơn cả con số của NHNN, có thể do tiêu chí phân loại khác nhau Những hạn chế trong việc cung cấp thông tin này có thể dẫn đến những hệ lụy tiêu cực cho thị trường tài chính.
VAMC chưa có cái nhìn tổng quát về tình hình nợ xấu, điều này gây khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch và phương hướng xử lý nợ xấu một cách hiệu quả theo từng giai đoạn thời gian.
Quá trình đàm phán giữa VAMC và các TCTD trong việc mua bán nợ kéo dài và tốn nhiều thời gian do VAMC phải xem xét tỷ lệ thu hồi vốn, thông tin và khả năng của khách hàng vay Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến tiến độ xử lý và công tác quản lý nợ xấu, khiến hiệu quả không đạt như mong muốn.
Các nhà đầu tư nước ngoài nhận định rằng Việt Nam sở hữu một thị trường mua bán nợ tiềm năng với nhiều loại hàng hóa đa dạng Tuy nhiên, họ vẫn bày tỏ lo ngại về một số yếu tố nhất định trong môi trường đầu tư.
Rủi ro từ việc thông tin không được công khai đầy đủ và chính xác, cùng với các rào cản pháp lý, khiến các nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn trong việc đề ra giải pháp và phương thức đầu tư Điều này ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ xấu.
Để thúc đẩy hoạt động mua bán nợ, cần giải quyết triệt để vấn đề mơ hồ trong thông tin nợ xấu và xây dựng một kênh thông tin hiệu quả Tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm đạt được mục tiêu này.
Dựa trên cơ sở của Basel II và Basel III, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã phát triển các văn bản quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD), với mục tiêu đưa hệ thống tài chính Việt Nam phát triển bền vững và ổn định hơn.
91 Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (2014), “Xử lý nợ xấu và tái cấu ngân hàng: Vào vòng tăng tốc”, TẠp chí Tài chính & Đầu tư, Số 5 năm 2014, tr 27
Thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) nhằm xử lý nợ xấu, được đánh giá là gần gũi với tiêu chuẩn quốc tế và phản ánh chính xác chất lượng nợ xấu Mặc dù áp dụng thông tư này sẽ gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng vay do yêu cầu tăng DPRR và siết chặt tín dụng, việc phân loại nợ theo Thông tư 02 là cần thiết để thống nhất thông tin về tỷ lệ nợ xấu Điều này cũng yêu cầu các TCTD có nợ xấu trên 3% phải bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) để xử lý triệt để, nhằm ngăn chặn các biện pháp kỹ thuật tinh vi để giấu nợ xấu trên bảng cân đối kế toán.
Thanh tra NHNN sẽ thực hiện kiểm tra và giám sát định kỳ hàng tháng hoặc đột xuất đối với các TCTD, yêu cầu báo cáo về tỷ lệ nợ xấu Các báo cáo tài chính và tỷ lệ nợ xấu của TCTD sẽ được NHNN đối chiếu với kết luận thanh tra trước khi công bố Nếu có sự chênh lệch giữa báo cáo của TCTD và NHNN, sẽ tiến hành thanh tra lại để phát hiện sai sót và yêu cầu TCTD thực hiện phân loại nợ xấu đúng theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN Công bố của NHNN sẽ là thông tin chính thức và duy nhất, giúp loại bỏ tình trạng thông tin trái ngược về tỷ lệ nợ xấu, từ đó giảm bớt sự hoài nghi của nhà đầu tư trong thị trường mua bán nợ Việt Nam Các TCTD vi phạm và giấu nợ sẽ bị xử lý nghiêm, bao gồm công bố tên trên các phương tiện thông tin và bị xử phạt hành chính để bảo vệ uy tín của ngành ngân hàng.
Chương II tác giả đã làm rõ được các vấn đề quan trọng liên quan đến thực tiễn hoạt động của VAMC, cụ thể: Một là, phương thức mua nợ của VAMC; hai là, cơ chế phối hợp giữa VAMC và TCTD; ba là, biện pháp xử lý nợ xấu của VAMC; bốn là, thị trường mua bán nợ tại Việt Nam; năm là, thị trường thông tin về hoạt động mua bán nợ Qua đó, tác giả đã chỉ ra được những hạn chế và một số kiến nghị
Việc thành lập VAMC nhằm giải quyết nợ xấu là một quyết định đúng đắn và phù hợp với xu thế toàn cầu Để nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC, cần nhận thức rằng giải quyết nợ xấu không chỉ là trách nhiệm của riêng VAMC, mà còn yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ giữa DATC, các tổ chức tín dụng (TCTD) và các cơ quan công quyền trong quá trình xử lý nợ xấu.
Khóa luận nhằm tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động mua bán nợ của VAMC, đã làm rõ những vấn đề quan trọng trong lĩnh vực này.
Hệ thống hóa lý luận về khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động mua bán nợ của VAMC là rất quan trọng Điều này bao gồm việc xác định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động này và nhấn mạnh sự cần thiết phải điều chỉnh thông qua các quy định pháp luật để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong giao dịch.