TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
Tội phạm vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ đã được quy định từ sớm, với Công văn số 949 -NCPL ngày 25/11/1968 của Toà án nhân dân tối cao xác định đây là tội xâm phạm an toàn giao thông, thuộc loại tội khinh xuất Đường lối xử lý đối với những vi phạm này yêu cầu trừng trị thích đáng cho các vi phạm nghiêm trọng và xem xét toàn diện mọi tình tiết Năm 1976, Sắc luật số 03-SL/76 quy định các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng và an toàn sức khoẻ Đến năm 1985, Bộ luật Hình sự đã đưa ra quy định về tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 186 Năm 1991, điều luật này được sửa đổi, tên tội danh được điều chỉnh thành “Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải”, nhưng nội dung vẫn giữ nguyên.
Ngày 22/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, có hiệu lực từ 01/7/2000 Trong Chương XIX, các tội xâm phạm an toàn và trật tự công cộng được quy định, trong đó hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không được tách riêng thành các tội phạm độc lập Cụ thể, Điều 202 quy định về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
“Tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ
1 Người nào điều khiển PTGT đường bộ mà VPQĐ về ATGT đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định; b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng; c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng
3 Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm
4 VPQĐ về ATGT đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm
5 Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Theo quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
Khách thể của tội phạm
Tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ xâm hại đến an toàn công cộng và trật tự xã hội, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân Hành vi phạm tội này thể hiện rõ mối nguy hiểm cho xã hội, với khách thể trực tiếp là an toàn công cộng trong lĩnh vực giao thông Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của các quy tắc và quy định nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông và an toàn xã hội Đối tượng bị tác động là các chủ thể tham gia giao thông trong hoạt động bình thường hàng ngày.
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không được quy định trực tiếp trong Bộ luật Hình sự, mà được dẫn chiếu từ Luật Giao thông đường bộ Các hành vi vi phạm này có thể được phân loại thành nhóm, bao gồm vi phạm quy định đối với người điều khiển phương tiện giao thông, vi phạm quy tắc an toàn giao thông đường bộ, vi phạm thể lệ vận tải, và vi phạm tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn của phương tiện giao thông.
Tội phạm liên quan đến việc điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, bao gồm thiệt hại phi vật chất, vật chất và thể chất Thiệt hại phi vật chất thể hiện qua tình trạng nguy hiểm trong hoạt động giao thông, được đánh giá tương đối dựa trên tư duy con người Trong khi đó, thiệt hại vật chất và thể chất bao gồm mất mát về tính mạng, sức khỏe, cũng như tổn thất tài sản do hư hỏng, hao hụt hoặc bị hủy hoại.
Nghị quyết số 02/HĐTPTANDTC ngày 17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS 1999, cụ thể là mức định lượng thiệt hại về vật chất và thể chất để xác định các trường hợp hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo Điều 202 Các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được quy định chi tiết tại các Khoản 1, 2, 3 Mục 4 của Nghị quyết Thêm vào đó, Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 cũng đã hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS liên quan đến các tội xâm phạm trật tự.
Nghị quyết số 02/HĐTPTANDTC ngày 17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự 1999 Trong đó, các quy định về an toàn giao thông (ATGT) đã chỉ rõ mức định lượng thiệt hại về vật chất và thể chất, nhằm xác định các trường hợp hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Trong một vụ án hình sự, hậu quả được phản ánh là dấu hiệu khách quan, trong khi mối quan hệ nhân quả là điều kiện bắt buộc Việc áp dụng quy định về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không chỉ yêu cầu xác định hậu quả nghiêm trọng cho xã hội mà còn phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả Một cá nhân chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có sự liên kết giữa hành vi của họ và hậu quả nguy hiểm, tức là hậu quả đó phải do hành vi của họ gây ra.
Một vụ tai nạn giao thông (TNGT) thường xảy ra do nhiều nguyên nhân và điều kiện liên quan đến nhau, bao gồm hành vi vi phạm của người điều khiển phương tiện giao thông, sự vô ý của người khác, hoặc lỗi của cả hai bên và có thể cả lỗi của người thứ ba Ngoài ra, tình trạng đường sá, thời tiết, thiết bị an toàn, hệ thống đèn và biển báo giao thông cũng đóng vai trò quan trọng Để xác định nguyên nhân của từng vụ TNGT, cần phân tích cụ thể các yếu tố tác động, xác định nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, qua đó làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của vụ tai nạn.
Chủ thể của tội phạm
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự, với khung hình phạt cao nhất lên đến 15 năm tù, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng theo Điều 8 Bộ luật Hình sự Hành vi vi phạm này thường xảy ra do lỗi vô ý, vì vậy, theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, người phạm tội này phải từ đủ 16 tuổi trở lên.
Chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải là người điều khiển phương tiện giao thông Theo Điều 3 của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, người điều khiển phương tiện bao gồm cả người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ và xe máy chuyên dùng Phương tiện giao thông cơ giới bao gồm ô tô, máy kéo, rơ moóc, xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy (bao gồm cả xe máy điện) và các loại xe tương tự Trong khi đó, phương tiện giao thông thô sơ bao gồm xe đạp (cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.
Xe máy chuyên dùng bao gồm các loại xe máy thi công, nông nghiệp, lâm nghiệp và xe đặc chủng phục vụ quốc phòng, an ninh, tham gia giao thông đường bộ Những người tham gia giao thông khác như người sử dụng phương tiện, người điều khiển súc vật, và người đi bộ không thuộc đối tượng vi phạm pháp luật về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Đặc điểm nhân thân người phạm tội trong tình hình tội phạm vi phạm
Tình hình tội phạm về vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận là một phần không thể tách rời trong bức tranh tội phạm chung, thể hiện qua tổng hợp các vụ vi phạm và đối tượng phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định Thông tin về nhân thân của người phạm tội cũng góp phần phản ánh đặc điểm của tình hình tội phạm này.
Tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận thể hiện thông qua các thông số như:
- Thực trạng của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ;
- Cơ cấu của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ;
- Động thái của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ;
- Tính chất tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ
1.2.1 Nhân thân người phạm tội trong thực trạng tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
1.2.1.1 Tội phạm rõ trong thực trạng tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
Thực trạng tội phạm tại tỉnh Bình cho thấy hai khía cạnh chính: số lượng tội phạm đã được phát hiện và xử lý, cùng với số lượng tội phạm chưa bị phát hiện Tội phạm rõ ràng liên quan đến việc điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là một vấn đề đáng chú ý trong tình hình tội phạm hiện nay.
Thuận là tình trạng tội phạm đã xảy ra và được các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý theo quy trình tố tụng hình sự, đồng thời được thể hiện qua các số liệu thống kê từ những cơ quan này.
Theo Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP, công tác thống kê tội phạm được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn khởi tố, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử Trong giai đoạn khởi tố, thống kê tập trung vào các vụ án và bị can mới bị khởi tố mà Viện kiểm sát đã thụ lý Giai đoạn truy tố ghi nhận các vụ án mà Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ Cuối cùng, giai đoạn xét xử thống kê những bị cáo có tội, bao gồm các trường hợp bị đình chỉ theo yêu cầu của người bị hại, miễn trách nhiệm hình sự, hoặc do thay đổi trong pháp luật hình sự.
Để hiểu rõ thực trạng tội phạm về vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, có thể tiếp cận từ nhiều nguồn số liệu khác nhau như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào số liệu thống kê từ các bị cáo trong giai đoạn xét xử, bao gồm các trường hợp có tội nhưng được đình chỉ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ do bị cáo đã chết, và bản án tuyên xử có tội Theo thống kê từ Tòa án nhân dân các cấp, từ năm 2009 đến nay tại Bình Thuận, không có trường hợp nào bị cáo được đình chỉ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, mà chỉ có các bản án tuyên xử có tội.
Từ năm 2009 đến 2013, TAND tỉnh Bình Thuận và các huyện trong tỉnh đã xét xử tổng cộng 762 vụ án hình sự, dựa trên số liệu thống kê từ các bản án tuyên xử bị cáo có tội, bao gồm cả các bản án sơ thẩm không bị kháng cáo và các bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Theo Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP ngày 01/7/2005, hướng dẫn quy định về thống kê tội phạm, trong năm vừa qua, đã có 781 bị cáo bị truy tố về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, với tỷ lệ 1,02 bị cáo trên mỗi vụ án Hệ số tội phạm trung bình hàng năm là 12,93 người trên 100.000 dân, và tỷ lệ người phạm tội là 0,019 người/km²/năm Đặc biệt, huyện Hàm Tân là địa bàn có số vụ án và bị cáo nhiều nhất.
157 vụ/160 bị cáo, sau đến Hàm Thuận Bắc với 144 vụ/150 bị cáo, Phan Thiết với
Trong tỉnh, Hàm Thuận Nam ghi nhận 104 vụ/106 bị cáo, trong khi Phan Thiết có tỉ lệ tội phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ cao nhất với 0,12 người phạm tội/km²/năm, gấp 6,3 lần mức trung bình của tỉnh Hàm Tân theo sau với 0,04 người phạm tội, trong khi Hàm Thuận Nam và Hàm Thuận Bắc có cùng tỉ lệ 0,022 người phạm tội Xét theo hệ số tội phạm trung bình hàng năm trên 100.000 dân, Hàm Tân đứng đầu với 44,91 người phạm tội, tiếp theo là Hàm Thuận Nam với 22,55 người, Hàm Thuận Bắc với 17,09 người, và Phan Thiết với 11,09 người phạm tội.
Biểu đồ: Thực trạng tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ
1.2.1.2 Tội phạm ẩn trong thực trạng tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
Tội phạm ẩn là hành vi vi phạm pháp luật chưa được phát hiện, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng không được ghi nhận trong thống kê tội phạm Có nhiều cách phân loại tội phạm ẩn, nhưng nhìn chung, chúng được chia thành hai loại chính: tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ quan Việc nhận thức và hiểu rõ về tội phạm ẩn là cần thiết để cải thiện công tác phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong xã hội.
(6) Phụ lục 1.1: Thống kê địa bàn đối tượng phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ
Tuy Phong Bắc Bình Hàm Thuận
Nam Hàm Tân La Gi Tánh Linh Đức Linh Phú Quý
Trong lĩnh vực tội phạm học, có thể phân loại tội phạm ẩn thành ba loại: tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan và tội phạm ẩn thống kê Tội phạm ẩn thống kê, mặc dù còn gây tranh cãi, được nhiều chuyên gia công nhận vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá tình hình tội phạm Khi số lượng tội phạm và người phạm tội không được phản ánh trong thống kê, điều này có thể làm suy yếu hiệu quả của các hoạt động dự báo và phòng ngừa tội phạm, từ đó gây khó khăn trong việc xây dựng các biện pháp an ninh phù hợp.
Tội phạm ẩn khách quan là những hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng không được cơ quan chức năng ghi nhận do thiếu thông tin Kết quả là, những tội phạm này không bị xử lý và không được đưa vào thống kê tội phạm, dẫn đến việc làm sai lệch dữ liệu về tình hình an ninh trật tự.
Tội phạm ẩn chủ quan là những hành vi phạm tội đã xảy ra và được các cơ quan chức năng phát hiện, nhưng không bị xử lý do bị che đậy bởi các tội phạm ẩn khách quan khác.
Tội phạm ẩn thống kê là những vụ việc tội phạm đã xảy ra và được các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý, nhưng lại không được ghi nhận trong các thống kê hình sự chính thức Việc này dẫn đến sự thiếu chính xác trong việc đánh giá tình hình tội phạm thực tế, ảnh hưởng đến các biện pháp phòng ngừa và xử lý sau này.
Theo Điều 202 BLHS và Nghị quyết số 02/HĐTPTANDTC ngày 17/04/2003, cùng với Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013, các quy định về tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông được hướng dẫn cụ thể Khi xảy ra tai nạn giao thông, nếu bên gây lỗi chỉ gây thiệt hại cho bản thân hoặc cho người khác với tỷ lệ thương tật dưới 31% hoặc thiệt hại tài sản dưới 50 triệu đồng, vụ việc sẽ không được coi là có tội phạm Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo Khoản 2 Điều 107 BLTTHS.
Trong trường hợp người gây tai nạn có lỗi làm thương tích cho người khác từ 31% trở lên, hoặc dưới 31% nhưng gây thiệt hại tài sản từ 30 triệu đồng trở lên, hoặc thiệt hại tài sản cho người khác từ 50 triệu đồng, thì sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định.
(7) Võ Thị Kim Oanh và Lê Nguyên Thanh (chủ biên) (2013), Giáo trình tội phạm học trường Đại học Luật